GIÁO SƯ LÂM
QUANG THIỆP QUA ĐỜI
Nhằm tạo nên một điểm xuất phát thuận lợi cho cuộc đấu tranh để
thay đổi đó, một cuộc cải cách giáo dục mạnh
mẽ và sâu sắc ở thời điểm này là vô cùng cần thiết. Cần khai thác trí tuệ của các chuyên gia
giáo dục trong và ngoài nước để thiết kế bài bản đề án cải cách giáo dục, cần
tạo một sự đồng thuận cao
trong xã hội về phương hướng cải cách và cần có sự đảm bảo của quốc gia về
nguồn lực và luật lệ để cải cách thành công. Nhiều nhà giáo dục và trí thức tâm
huyết với vận mệnh của đất nước đã phát biểu về sự cần thiết một cuộc cải cách
giáo dục sâu rộng để có một nền giáo dục trung thực. Cải cách giáo dục hiện nay
là yêu cầu của cuộc sống, của dân tộc, cho nên một Nhà nước vì dân chắc chắn sẽ
nắm bắt lấy đề xuất đó để phát động một cuộc cải cách mạnh mẽ. Và cải cách
GDĐH, một bộ phận quan trọng trong cuộc cải cách giáo dục nói chung, chắc chắn
sẽ phải thấm nhuần tinh thần đại học của Humboldt, một di sản trí tuệ của nhân
loại.
— Lâm
Quang Thiệp, 2010
![]() |
| Giáo sư Lâm Quang Thiệp (sinh ngày 10 tháng 7 năm 1939 tại Hòa Vang, Quảng Nam – mất ngày 13, tháng 10, 2025, tại Hà Nội, hưởng thọ 86 tuổi) |
Giáo sư Lâm
Quang Thiệp là chuyên gia về giáo dục đại học và khoa học đo lường trong giáo dục.
Ông nhận bằng Tiến sĩ (1968) và Tiến sĩ khoa học (1982) về khoa học tự nhiên (Địa
vật lý) tại Đại học Quốc gia Moscow. Ông từng là Vụ trưởng Vụ Đại học tại Bộ
Giáo dục và Đào tạo Việt Nam (1988-1997), Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Bang
New York (SUNY), Buffalo theo chương trình trao đổi học giả Fulbright. (Nguồn
BBC)
Hôm nay, ngày 14, tháng 10, năm 2025, báo chí Việt Nam đồng loạt đưa tin Giáo sư Lâm Quang Thiệp vừa qua đời. Sự ra đi của ông đã để lại bao nhiêu thương tiếc trong lòng bè bạn và dư luận.
Tôi quen ông vào dịp làm số Kỷ yếu
Kỷ niệm Đại học Humboldt 200 Năm 2010. Cách đây vài năm, trước dịch Covid, tôi
có dịp ra Hà Nội, được gặp ông lần đầu tiên. Chúng tôi hàn huyên về nhiều chuyện,
trong đó có chủ đề Giáo dục Đại học ở Việt Nam. GS Thiệp bày tỏ sự luyến tiếc
khôn nguôi rằng Việt Nam đã không đi con đường cải cách đầy triển vọng như kỳ vọng
ban đầu thời Đổi mới. Chắc chắn ông có thể đóng góp nhiều hơn. Chắc chắn giáo dục
đại học Việt Nam đã có thể đi xa hơn. Định mệnh thật nghiệt ngã.
Ông là người hiền, phúc hậu, rất
khiêm tốn và sâu sắc, vẫn luôn đau đáu về vận mệnh của đất nước. Tôi từ giả ông
với sự luyến tiếc. Tôi tin rằng, ông rất vui với diễn đàn edu-sci (Humboldt).
Và tôi cũng rất quý sự tham gia của ông.
Dưới đây tôi xin đăng lại bài viết
của GS Lâm Quang Thiệp trong Kỷ yếu Đại học Humboldt 200 Năm.
Nguyễn Xuân Xanh
TINH THẦN HUMBOLDT, HOA KỲ VÀ ĐẠI HỌC VIỆT NAM
Lâm Quang Thiệp (*)
(2010)
TÓM TẮT
Từ các ý tưởng về giáo dục đại
học (GDĐH) của Wilhelm von Humboldt, bài viết bắt đầu bằng các nhận xét chứng tỏ
các ý tưởng đó có tác động quan trọng đến GDĐH Hoa Kỳ, một nền GDĐH hấp dẫn nhất
hiện nay trên thế giới. Sau đó bài viết giới thiệu những đặc trưng chính
của GDĐH Hoa Kỳ được hình thành qua lịch sử phát triển của nó, đó là tính phi tập
trung, tính thực tiễn, tính đại chúng và tính thị trường. Đối chiếu với tinh thần
đại học của Humboldt và kinh nghiệm của GDĐH Hoa Kỳ bài viết nêu các vấn đề tồn
tại quan trọng của GDĐH Việt nam hiện nay liên quan đến tình trạng chưa đảm bảo
được quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học, đến hiện tượng
tách rời hệ thống các viện nghiên cứu với các trường đại học và đến thực tế
chưa lưu ý thích đáng đến ý tưởng tự do học thuật. Bài viết nêu rõ: trong điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta hiện nay phải có một cuộc đấu tranh
bền bỉ mới có thể làm cho tinh thần đại học Humboldt trở thành hiện thực. Để tạo
nên một điểm xuất phát thuận lợi cho cuộc đấu tranh hướng đến sự thay đổi đó,
hiện nay ở Việt Nam rất cần một cuộc cải cách giáo dục sâu rộng nhằm xây dựng một
nền giáo dục trung thực.
ABSTRACT
Based on Wilhelm von
Humboldt’s ideas concerning higher education, the article begins with some
remarks which prove these ideas have had great impacts on U.S. higher education
– the most attractive one in the world. The article goes on to introduce the main
characteristics of U.S. higher education since its early days, including
decentralization, practicality, masscification and marketization. With a
reference to Humboldt’s higher education ideal and experience of U.S. higher
education, the article highlights some significant issues in Vietnam’s higher
education system, related to the lack of autonomy and accountability, the
separation of research institutes from higher education institutions, and the
underestimated academic freedom. The article indicates that with the current
socio-economic conditions of Vietnam, there needs to be a persistent struggle
to turn Humboldt’s higher education ideal into reality. In order to create a
favorable start for this revolutionary struggle, Vietnam is now in great need
of a drastic reform of education which aims to develop an honest educational
system.
1. GIÁO DỤC ĐẠI HỌC HOA KỲ VÀ MÔ HÌNH ĐẠI HỌC NGHIÊN CỨU CỦA ĐỨC
Có thể nói hiện nay giáo dục đại
học (GDĐH) Hoa Kỳ là một nền GDĐH được cả thế giới ngưỡng mộ, và nền GDĐH Việt
Nam cũng đã và đang chịu nhiều ảnh hưởng của nó. Tuy nhiên, nền GDĐH Mỹ đạt được
nhiều thành tựu như ngày nay không phải chỉ nhờ các tinh hoa riêng từ mảnh đất
Hoa Kỳ, mà là nhờ tiếp thu và phát triển trí tuệ của cả nhân loại.
Một chuyên gia hàng đầu của GDĐH
Hoa Kỳ nhận định: “Nền GDĐH Mỹ hiện đại được hình thành từ ba mối ảnh hưởng:
truyền thống giáo dục nhân văn tự do của Anh Quốc, khái niệm nghiên cứu của Đức
và ý tưởng phục vụ cho bang được thể hiện bởi các viện đại học được cấp đất” (1).
Như vậy, hai trong ba mối ảnh hưởng tạo nên GDĐH Hoa Kỳ là từ nước ngoài. Nói đến
truyền thống của GDĐH Đức, người ta thường nhắc đến cải cách GDĐH vào đầu thế kỷ
19, trong đó Wilhelm von Humboldt đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản của GDĐH: 1)
Quyền tự chủ của trường đại học; 2) Quyền tự do học thuật ; 3) Tính thống
nhất giữa giảng dạy và nghiên cứu. Các truyền thống đó ảnh hưởng mạnh mẽ
đến GDĐH Hoa Kỳ, đặc biệt đối với các trường đại học nghiên cứu hàng đầu: “Một
bước tiến vĩ đại bắt nguồn từ sự phát triển nhờ nhập cảng mô hình đại học
nghiên cứu kiểu Đức, bắt đầu từ Johns Hopkins vào năm 1876 và nhanh chóng được
noi theo bởi Harvard, Yale, Columbia, Northwestern, Michigan và các viện đại học
khác của các bang và của tư nhân, dọc suốt đường xuyên sang tận Stanford và
Berkeley ở bờ biển phía Tây” (2).
Ý tưởng về đại học của Humboldt nảy
sinh trong bối cảnh của nước Đức vào đầu thế kỷ 19 nhằm xây dựng lại cho nước Đức
một nền GDĐH chân chính sau khi bị Napoleon tàn phá và kìm hãm, nhằm nâng cả quốc
gia và dân tộc Đức lên. Trường Đại học Berlin (được đổi tên thành Đại học
Humboldt vào năm 1949 để vinh danh hai anh em Humboldt) được xây dựng theo các
ý tưởng của W. Humboldt đã phát triển rất thành công trong thế kỷ đầu tiên, trở
thành một môi trường làm nảy sinh nhiều nhà tư tưởng thiên tài của nhân loại: Hegel,
Schopenhauer, Einstein, Plank v.v.. và đạt thành tựu sáng chói với 29 giải
Nobel trong khoảng ba mươi năm đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên những sự kiện oái oăm của
lịch sử không làm cho nước Đức và Đại học Berlin giữ được truyền thống
vinh quang của mình: đó là sự ngự trị của chủ nghĩa Quốc Xã, vụ đốt sách năm
1933 ở Đại học Berlin và các cuộc truy đuổi hãm hại các giáo sư Do thái tài
năng, cũng như sự chia cắt nước Đức và thủ đô Berlin sau thế chiến lần thứ hai.
Tuy nhiên tinh thần Humboldt vẫn tiếp tục phát huy sức mạnh ở những nơi khác
trên thế giới, trong đó mảnh đất tốt nhất có lẽ là Hoa Kỳ: nơi đây chẳng những
đã tiếp thu, nuôi dưỡng và phát triển tốt tinh thần Humboldt mà còn được hưởng
lợi lớn nhờ thu hút các tài năng xuất sắc từ nước Đức Quốc Xã, mà người Mỹ gọi
các tài năng đó là “quà tặng của Hitler”, trong đó Albert Einstein là một trường
hợp. Cho nên, hoàn toàn không cường điệu khi nói rằng “Harvard có lẽ không thể
trở thành Harvard ngày nay nếu không tiếp thu và vận dụng phần nào tinh thần đại
học của Humboldt” (3). Các nhận định vừa nêu trên cho thấy tư
tưởng về GDĐH của Humboldt có tác động quan trọng đến nền GDĐH Hoa Kỳ, và từ
đó, đến các nền GDĐH khác trên toàn thế giới.
Vì lý do trên, nhân kỷ niệm 200
năm Đại học Humboldt, không thể không nhắc đến GDĐH Hoa Kỳ. Hơn nữa, từ các ý
tưởng về GDĐH của Humboldt cùng với sự phát triển và những thành tựu hiện đại của
GDĐH Hoa Kỳ, theo cách tiếp cận so sánh chúng ta cũng nên nhìn lại những vấn đề
lớn của GDĐH Việt Nam hiện nay và suy nghĩ về những nguyên lý quan trọng cần
theo đuổi để hệ thống đó có thể phát triển lành mạnh, góp phần nâng được dân tộc
và đất nước lên.
Phần tiếp theo đây sẽ trình bày khái quát về GDĐH Hoa Kỳ, trích từ một bài mà tác giả bài này đã viết trong ấn phẩm (4), tiếp đến sẽ nêu một vài vấn đề quan trọng liên quan đến sự phát triển của GDĐH Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA GIÁO DỤC ĐẠI
HỌC HOA KỲ
GDĐH Hoa Kỳ là một hệ thống GDĐH
đồ sộ nhất, đa dạng nhất, phức tạp nhất thế giới, do đó một người nước ngoài
chưa có cơ hội thâm nhập lâu dài vào nền GDĐH đó khó hiểu biết thật sâu sắc về
nó. Tuy nhiên, để có thể học tập những gì từ hệ thống đó nhằm áp dụng vào GDĐH
Việt Nam cần phải hiểu được bản chất của nó. Vì vậy, tác giả của bài này cố gắng
thử tìm hiểu những đặc trưng quan trọng nhất, bản chất nhất của nền GDĐH Hoa Kỳ
qua lịch sử phát triển và hiện trạng của nó.
Phải nói rằng so với GDĐH phương
Đông có lịch sử hơn ba nghìn năm cũng như so với GDĐH châu Âu, cái nôi của nền
GDĐH phương Tây kiểu hiện đại bắt nguồn từ khoảng thế kỷ thứ 12 thì GDĐH Hoa Kỳ
hết sức non trẻ, với lịch sử chỉ khoảng hơn bốn trăm năm (2).
Thế mà GDĐH Hoa Kỳ đã có sức hấp dẫn kỳ lạ: Nhật Bản đã chọn mô hình GDĐH Đức
và Hoa Kỳ để noi theo từ thời Minh Trị, Trung Quốc đã xây dựng lại nền GDĐH của
mình chủ yếu theo kiểu Mỹ từ khi thực hiện cải cách mở cửa cách đây ba thập
niên, và gần nhất, “quá trình Bologna” của châu Âu thực hiện một cuộc cải
cách sâu rộng về GDĐH trong thập niên đầu của thế kỷ 21 để thiết lập một “không
gian GDĐH châu Âu” có rất nhiều yếu tố tương đồng với GDĐH Hoa Kỳ (5).
Vì sao nền GDĐH Hoa Kỳ có sức hấp
dẫn mạnh mẽ như vậy? Những yếu tố nào từ lịch sử phát triển đã tạo nên sức mạnh
hiện tại của GDĐH Hoa Kỳ? Mọi người đều biết GDĐH Hoa Kỳ không phải là một nền
GDĐH “cội nguồn”, nó chịu nhiều ảnh hưởng của GDĐH châu Âu, đặc biệt là của Anh
và Đức, nhưng lịch sử phát triển của GDĐH Hoa Kỳ với những sự kiện đặc biệt đã
tạo nên các triết lý cơ bản, độc đáo của GDĐH Hoa Kỳ, góp phần hình thành những
ý tưởng về tổ chức và quản lý hệ thống GDĐH. Chúng ta hãy điểm lại một vài sự
kiện lịch sử tiêu biểu khá bất ngờ và lý thú.
- Thất bại của G. Washington trong việc thành
lập một đại học quốc gia mẫu mực cho Liên bang Hoa Kỳ
Năm 1789, George Washington được
bầu làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Lúc bấy giờ ở một số bang Hoa Kỳ có nhiều
trường đại học hình thành với cơ sở hạ tầng nghèo nàn và đội ngũ giáo chức rất
yếu. Washington thuyết phục Quốc hội về việc thành lập một trường đại học quốc
gia mạnh, tập trung đầu tư các nguồn lực vào đó, vì theo ông ta, một trường đại
học quốc gia mạnh sẽ thúc đẩy khối thống nhất quốc gia. Không may ý kiến của
Washington không được ủng hộ, vì ở thời điểm đó sự quan tâm hàng đầu của các đại
biểu là chủ quyền từng bang của riêng họ chứ không phải sức mạnh của quốc gia
liên bang non trẻ. Như vậy ý đồ thành lập một trường đại học mạnh tầm cỡ quốc tế
làm kiểu mẫu cho cả liên bang không được ủng hộ (6).
Ngày nay xem xét và đánh giá lại
sự kiện lịch sử đó, nhiều nhà nghiên cứu GDĐH Hoa Kỳ cho rằng thất bại của G.
Washington không phải là một điều rủi ro. Chính vì không có một trường đại học
mạnh duy nhất làm mẫu mực trong toàn liên bang, hệ thống GDĐH Hoa Kỳ không bị
ràng buộc bởi các khuôn phép của các trường đại học theo kiểu cũ châu Âu, điều
đó lại tạo nên tính đa dạng của hệ thống GDĐH Hoa Kỳ. Cũng vì không có một trường
đại học mạnh duy nhất làm kiểu mẫu, ở Hoa Kỳ đã ra đời hàng loạt trường đại học,
trong đó có nhiều trường nhỏ và yếu. Lúc đó, khi nói về việc thành lập trường đại
học thì ở châu Âu phương châm thường là: “nếu không làm được cái tốt nhất thì
thà rằng chẳng có gì”, còn ở Hoa Kỳ phương châm lại là: “thà có được một cái gì
đó còn hơn là không có gì cả”. Tính đa dạng của hệ thống GDĐH Hoa Kỳ, mà nhiều
người cho rằng đó là biểu hiện sự “thiếu tính hệ thống”, thì nhiều nhà nghiên cứu
GDĐH Hoa Kỳ lại tìm thấy ở đó một trong những nguồn gốc tạo nên sức mạnh của
GDĐH Hoa Kỳ: chính tính đa dạng của hệ thống tạo nên sự phong phú về chức năng
giúp phục vụ cho các nhu cầu phát triển rất khác nhau của xã hội. Sự phát triển
đa dạng và nhanh chóng của hệ thống GDĐH đó được điều khiển không phải bởi một
sự chỉ đạo thống nhất của quốc gia, mà bởi sự lựa chọn từ cơ chế cạnh tranh của
thị trường. Chẳng hạn, từ 1969 đến 1975 ở Hoa Kỳ có khoảng 800 trường đại học mới
được thành lập, và cũng có khoảng 300 trường khác phải đóng cửa hoặc sáp nhập,
tức là còn tồn tại được 500 trường.(6) Có thể cái điều dường
như “thiếu tính hệ thống” của nền GDĐH Hoa Kỳ lại phản ánh một hệ thống GDĐH đa
dạng đã hình thành với một mối liên kết mạnh mẽ, mỗi trường đại học thường là
thành viên của một hiệp hội tự nguyện hoạt động theo một cơ chế kiểm định chất
lượng chặt chẽ thấm đượm tính cạnh tranh của thị trường.
- Thắng lợi của trường Đại học tư Dartmouth trong
vụ kiện của bang New Hampshire ở Tòa án Tối cao về quyền điều hành nhà trường
Vào năm 1816, Bang New Hampshire
đã ra một dự luật cung cấp cho Chính quyền Bang những quyền hạn rất rộng rãi để
“cải cách” trường Đại học tư Dartmouth, với lập luận dường như rất hợp lý rằng
trường đại học (dù rằng theo quy chế tư nhân) phải được thành lập vì lợi ích của
nhân dân New Hampshire, do đó trong quá trình điều hành, nhà trường phải nghe
theo ý kiến của công chúng thông qua Chính quyền Bang. Tuy nhiên, năm 1819,
Chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kỳ lúc đó là J. Marshall đã kết luận theo chiều hướng
ủng hộ trường Đại học tư Dartmouth, tuyên bố rằng theo Hiến pháp, Chính quyền
Bang không được phép ra bất kỳ một dự luật nào “có tác hại đến nhiệm vụ quy định
bởi các hợp đồng”, và rằng giấy phép thành lập mà nhà trường được cấp trước đây
chính là một hợp đồng (6). Marshall quan niệm rằng, sự can thiệp
của giới cầm quyền vào việc quản lý các cơ sở dịch vụ tư nhân, dù rằng các dịch
vụ đó dưới dạng một công ty hay do sự điều hành cá nhân, đều rất nguy hiểm. Thắng
lợi của trường Đại học tư Dartmouth tại Tòa án Tối cao năm 1819 có tác động dội
lại rất mạnh mẽ đến các doanh nghiệp tư nhân cũng như phương hướng phát triển
tương lai của GDĐH Hoa Kỳ. Quyết định của Marshall đã trở thành một đảm bảo an
toàn cho việc thành lập và phát triển của các trường đại học tư. Người ta tin rằng
một khi đã nhận được giấy phép thành lập của bang, những người thành lập sẽ được
đảm bảo quyền kiểm soát nhà trường của mình trong tương lai.
- Đạo luật Morrill cấp đất công để xây dựng trường
đại học
Trong thời gian Nội chiến của Hoa
Kỳ (1861-1865), vào năm 1862, dưới thời Tổng thống A. Lincoln đã ra đời Đạo
luật Morrill quy định cấp đất công cho các bang để xây dựng các trường
đại học bang. Chỉ các bang không chống lại Liên bang mới được hưởng quyền lợi
này. Mỗi đầu thượng nghị sĩ đại diện cho bang được cấp 30 nghìn acre (khoảng 12
nghìn ha), đất này đặc biệt dành để phát triển các trường đào tạo cho các ngành
nông nghiệp và cơ khí. Đạo luật cấp đất Morrill xác định tính
chất của một nền GDĐH mới, rất thực dụng: thúc đẩy GDĐH phục vụ cho việc phát
triển nông nghiệp và cơ khí. Với sự thành lập các trường đại học được cấp đất,
số sinh viên nhập học các ngành kỹ thuật cơ khí tăng nhanh trong các thập niên
1880 và 1890, nhưng sinh viên vào các ngành nông nghiệp vẫn ít. Tuy gặp khó
khăn về sự phát triển nhà trường, nhưng nhờ nguồn thu nhập ít ỏi có được, các
trường này vẫn tồn tại và trưởng thành dần cho đến thập niên 1890. Vào năm
1890, Đạo luật Morrill 2 ra đời mang lại cho các trường đại học
được cấp đất một quỹ trợ cấp trực tiếp hàng năm của Liên bang, một điều kiện
thuận lợi có tính quyết định ở thời điểm mà các trường đại học đang đi vào thời
kỳ phát triển mạnh mẽ nhất (7).
Đạo luật Morrill cấp
đất công để thành lập các trường đại học là một sự kiện lịch sử đặc sắc của
GDĐH Hoa Kỳ. Chẳng những nó thể hiện sự quan tâm của Nhà nước Liên bang đối với
GDĐH mà còn khẳng định một quan niệm về GDĐH khác với các quan niệm truyền thống
của châu Âu có từ thời Trung cổ: trường đại học và các ngành nghề đào tạo của
chúng phải gắn chặt với sự phát triển sản xuất, kinh tế, xã hội, chứ không chỉ
là công cụ để đào tạo các quan chức cai trị và các nhà truyền giáo.
- Đạo luật “GI Bill” 1944
tạo cơ hội cho cựu quân nhân nhập học đại học
Vào thời điểm sắp kết thúc Chiến
tranh thế giới thứ hai, năm 1944, Hoa Kỳ ban hành Đạo luật Tái Điều chỉnh
đối với Quân nhân (Đạo luật “GI Bill”(**)), trong đó có các điều khoản đảm bảo cho
các cựu quân nhân được nhập học các chương trình khác nhau trong các trường đại
học. Với sự hỗ trợ của Đạo luật nói trên, một “cơn lũ” các cựu quân nhân tràn
vào các trường đại học: vào năm 1947; 1,1 triệu cựu quân nhân Mỹ đã được nhận
vào đại học, trong khi trước chiến tranh tổng số sinh viên đại học nói chung chỉ
là 1,5 triệu. Đây là thời kỳ mở rộng quy mô lớn nhất trong lịch sử GDĐH Hoa Kỳ.
Trong khoảng thời gian từ 1940 đến 1970, tỉ lệ sinh viên vào đại học so với
thanh niên cùng độ tuổi tăng lên gấp ba, từ 15% đến 45%; số lượng sinh viên đại
học tăng lên gần 5 lần, số sinh viên sau đại học tăng lên gần 9 lần, riêng thập
niên 1960 sự phát triển tính theo phần trăm đạt cao nhất so với bất kỳ thập
niên nào. Một loại trường đóng góp cho sự gia tăng này là các trường cao đẳng cộng
đồng công lập, mà trong giai đoạn từ 1965-1972 đã ra đời với tỉ lệ cứ hơn một
trường trong một tuần lễ. (7)
![]() |
| Ảnh của UC Berkeley (Wikipedia) |
Đạo luật GI Bill lại
là một sự kiện lịch sử hết sức đặc sắc nữa của GDĐH Hoa Kỳ. Đạo luật này không
những là một chính sách hết sức khôn khéo và táo bạo của Hoa Kỳ đối với cựu
quân nhân, mà còn là một động tác làm tăng nhanh quá trình đại chúng hóa GDĐH.
Vào thời kỳ đó không phải không có nhiều ý kiến của một bộ phận giới hàn lâm
cho rằng đạo luật này đã tầm thường hóa trường đại học và làm suy giảm chất lượng
của chúng, tuy nhiên cho đến nay, các nhà nghiên cứu về lịch sử GDĐH đã nhận định
rằng sự suy giảm chất lượng đã không xảy ra. Và nối tiếp với sự gia tăng số lượng
sinh viên đại học hết sức mạnh mẽ đó, vào các thập niên sau đó GDĐH Hoa Kỳ đã
được nâng lên trình độ phổ cập, tạo nên một cơ hội hết sức thuận lợi để đất nước
này vững chắc tiến vào thời đại kinh tế tri thức.
- Chính sách học bổng và tín dụng của Chính phủ
Liên bang Hoa Kỳ từ những năm 1970: cấp tài chính không phải cho người sản
xuất mà cho người tiêu dùng
Hiện nay, Chính phủ Liên bang Hoa
Kỳ không quản lý trực tiếp hệ thống giáo dục, trong đó có GDĐH, mà đó là phần
việc của các bộ giáo dục bang. Tuy nhiên, Chính phủ Liên bang có vai trò quan
trọng về các điều chỉnh vĩ mô thông qua nhiều biện pháp, trong đó có việc cấp
tài chính thông qua quỹ tín dụng và học bổng cho sinh viên và quỹ nghiên cứu
khoa học. Vào năm 2006 GDĐH Hoa Kỳ được đầu tư gần 250 tỷ USD, trong đó sinh
viên đại học được hỗ trợ tài chính gần 150 tỷ USD (9). Khoảng
70% sinh viên đại học được nhận một loại hỗ trợ tài chính nào đó: khoản này
trang trải được cỡ 40% tổng chi phí. Điều đặc sắc về chính sách GDĐH ở đây
không chỉ ở khối lượng khổng lồ của khoản tín dụng và học bổng cho sinh viên mà
còn là ở cách thức cấp khoản kinh phí này. Sau nhiều cuộc bàn luận ở Quốc hội
vào đầu thập niên 1970, Hoa Kỳ chọn cách cấp khoản kinh phí này không cho trường
đại học, mà trực tiếp cho sinh viên, tức là không cấp cho người sản xuất
mà cấp cho người tiêu dùng. Kết quả của chính sách này là làm tăng sức mạnh
tương đối của người tiêu dùng – người mua, so với người sản xuất – người bán, đồng
thời không làm tăng quyền lực tập trung của Chính phủ Liên bang đối với các trường
đại học.(7)
Trên đây chúng tôi chỉ xin nêu một
số sự kiện lịch sử của GDĐH Hoa Kỳ, các sự kiện mà chúng tôi nghĩ là có liên
quan và ảnh hưởng lớn đến việc hình thành các tính chất đặc trưng của hệ thống
GDĐH Hoa Kỳ ngày nay. Vậy thì các đặc trưng quan trọng nhất của GDĐH Hoa Kỳ là
gì? Theo chúng tôi có lẽ là:
– Tính phi tập trung:
Đối với hệ thống GDĐH Hoa Kỳ không có một bộ hoặc cơ quan trung ương nào của
Chính phủ Liên bang quản lý trực tiếp, đưa ra những phương hướng chỉ đạo nghiêm
ngặt hoặc những khuôn mẫu cứng nhắc áp đặt từ trên xuống. Trong việc quản lý hệ
thống GDĐH Hoa Kỳ xu hướng mọi hoạt động phát triển từ dưới lên thể
hiện rất rõ. Tính phi tập trung này có thể đưa hệ thống đến một trong hai tình
trạng: một là sự “thiếu hệ thống”, hoặc nói bằng một từ nặng hơn, sự vô chính
phủ; hai là tính dân chủ và sự phát triển đa dạng.
Tình trạng nào trong hai xu hướng trên sẽ xảy ra là tùy thuộc vào các đặc điểm
khác của hệ thống mà chúng ta sẽ bàn dưới đây.
– Tính thực tiễn: Tuy
GDĐH Hoa Kỳ du nhập từ châu Âu, chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ của các mô hình GDĐH
truyền thống hàn lâm của châu Âu, đặc biệt của Anh và Đức, nhưng tính truyền thống
đó không hoàn toàn áp đặt mọi sắc thái của GDĐH Hoa Kỳ. Nói cách khác, cộng đồng
GDĐH Hoa Kỳ không mắc bệnh “giáo điều”. Cuộc sống thực tế, sự phát triển kinh tế
xã hội của vùng đất mới này được phản ánh rất nhanh chóng vào nền GDĐH của nó.
Không câu nệ các ước lệ truyền thống, hàn lâm về mô hình đại học, về nội dung
đào tạo, về ngành học…, việc đào tạo ở các trường đại học Mỹ phục vụ rất
sát yêu cầu của sản xuất, của sự phát triển kinh tế xã hội. Trong từng ngành
nghề đào tạo quan hệ giữa việc dạy và học trong nhà trường và các hoạt động sản
xuất ở các lĩnh vực liên quan cũng hết sức chặt chẽ. Chính việc gắn chặt với thực
tiễn này là một trong những yếu tố tạo nên sức sống mạnh mẽ của GDĐH Hoa Kỳ.
– Tính đại chúng: Một
đặc điểm gần gũi với tính thực tiễn và có quan hệ gắn bó với tính thực tiễn là
tính đại chúng. Tuy chịu ảnh hưởng của mô hình GDĐH tinh hoa của Anh quốc, ngay
từ khi mới xây dựng, hệ thống GDĐH Hoa Kỳ đã mang trong mình tính đại chúng.
Vào khoảng 1880 ở Vương quốc Anh với 23 triệu dân có 4 trường đại học, trong
khi chỉ tại riêng bang Ohio Hoa Kỳ với 3 triệu dân đã thành lập 37 trường đại học.
Năm 1928, Hoa Kỳ có 1220 trường đại học với gần 1,2 triệu sinh viên, chiếm 15%
tỷ lệ thanh niên cùng độ tuổi, gấp 5 lần tỷ lệ trung bình của GDĐH châu Âu thời
đó. (2) Như đã nói trên, sau Chiến tranh thế giới thứ
hai Đạo luật GI Bill đã đưa hàng triệu cựu quân nhân vào đại học
làm tăng số lượng sinh viên đại học lên hết sức nhanh chóng. Vào năm 2008 Hoa Kỳ
có gần 18 triệu sinh viên đại học (9), chiếm hơn 83% tỷ lệ
thanh niên cùng độ tuổi, tức là ở mức độ phổ cập GDĐH. Tính đại
chúng của GDĐH Hoa Kỳ không chỉ biểu hiện ở số lượng sinh viên như đã nêu, mà
có nguồn gốc từ cơ cấu của hệ thống GDĐH và tính chất của các trường đại học. Một
yếu tố đặc sắc của GDĐH Hoa Kỳ là sự phát triển của hệ thống cao đẳng cộng đồng
với khoảng 1700 trường rải khắp các địa bàn dân cư. Với các chương trình đại học
2 năm nặng về giáo dục đại cương, với bằng “phó cử nhân” của đại học 2 năm
(American Associate Degree), với cơ chế chuyển tiếp từ đại học 2 năm đến đại học
4 năm và cơ chế chuyển tiếp tín chỉ nói chung v.v… hệ thống GDĐH Hoa Kỳ có mọi
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện đại chúng hóa và phổ cập hóa GDĐH.
– Tính thị trường có
lẽ là đặc điểm bao trùm nhất, thể hiện rõ nhất của GDĐH Hoa Kỳ.
Trong toàn bộ hệ thống GDĐH Hoa Kỳ cũng như trong hoạt động của từng trường đại
học, sức mạnh của thị trường chi phối rất rõ rệt. Hơn nữa, những người làm
chính sách không những chấp nhận sự chi phối của thị trường mà còn tận dụng sức
mạnh đó để nâng hiệu quả của đầu tư, chẳng hạn như trong việc chọn phương thức
cấp học bổng và tín dụng sinh viên của Chính phủ Liên bang đã nêu trên.
Trong lịch sử phát triển GDĐH Hoa
Kỳ, rất nhiều trường đại học được thành lập, và cũng không ít trường phá sản nếu
không đủ sức cạnh tranh để tồn tại, đúng như quy luật của thị trường. Người ta
thường nói đến hai tính chất quan trọng của thị trường khi so
sánh với các dạng tác động xã hội khác, đó là: 1) các kết quả không phải nảy
sinh từ kế hoạch hoặc từ những quyết định có chủ đích từ trung ương; 2) khi có
nhiều người sản xuất (6), hành vi của họ bị tác động bởi sự cạnh
tranh để giành khách hàng, sự cạnh tranh đó làm tăng ảnh hưởng của khách hàng
lên đặc điểm và chất lượng của sản phẩm, và lên cả bản thân đặc điểm của người
sản xuất. Đối với GDĐH, khi người mua là sinh viên thì các trường đại học với
tư cách là người sản xuất phải cạnh tranh nhau để thu hút số lượng sinh viên nhập
học. Còn khi xem người bán là sinh viên tốt nghiệp thì có sự cạnh tranh với
nhau giữa họ để lập nghiệp. Cả hai loại chủ thể đó, nhà trường và sinh viên tốt
nghiệp, đều cùng cố gắng để chuyển các cơ hội trong thị trường việc làm vào quy
mô của các chương trình và khoa ngành đào tạo. Quyền tự chủ cao của các trường
đại học giúp họ di chuyển nguồn lực giữa các chương trình và khoa ngành đào tạo
để đáp ứng sự thay đổi về nhu cầu nhập học. Cũng tương tự như vậy đối với công
việc nghiên cứu: các nhóm nghiên cứu cạnh tranh nhau để được nhận kinh phí, còn
các cơ quan cấp kinh phí thì thu được lợi ích từ chất lượng công trình nghiên cứu
mà họ mua.
Tuy trong GDĐH Hoa Kỳ quy luật của
thị trường được coi trọng và khai thác, nhưng không phải GDĐH được phó
mặc cho thị trường. Hoa Kỳ là một nước có hệ thống GDĐH tư rất lớn, nhưng
khác với một số nước châu Á (chẳng hạn, Phillipin) phần lớn các trường đại
học tư ở Hoa Kỳ hoạt động theo nguyên tắc không vì lợi nhuận. Chỉ một
số rất ít các trường sau trung học theo hướng nghề nghiệp cụ thể hoạt động vì
lợi nhuận. Đối với các trường đại học tư không vì lợi nhuận lâu đời, ngoài
học phí của sinh viên họ thường có một tài sản hiến tặng (endownment) tích lũy
được khá lớn và các khoản biếu thường xuyên khác từ các doanh nghiệp, cựu sinh
viên giúp họ hoạt động (chẳng hạn, tài sản hiến tặng tích lũy được của Viện Đại
học Harvard cỡ 35 tỷ USD vào năm 2007 (9)). Chính trách miễn
thuế cho các doanh nghiệp đối với phần lợi nhuận mà họ sử dụng để tài trợ cho
các trường đại học là một khoản trợ cấp ngầm của Nhà nước cho trường đại học,
khuyến khích cho loại tài trợ này (10). Ngoài ra, các trường đại
học tư có sức cạnh tranh mạnh có thể nhận được thêm nguồn tài trợ đáng kể qua
nguồn đầu tư cho các chương trình nghiên cứu của Nhà nước Liên bang. Các chính
sách nói trên của Nhà nước tạo điều kiện cho các trường đại học có thể hoạt động
theo nguyên tắc không vì lợi nhuận, tức là hạn chế bớt những tác động theo hướng
tiêu cực của thị trường.
Như trên đây đã nói, tùy theo các đặc điểm khác của hệ thống, tính phi tập trung có thể dẫn đến một trong hai tình trạng: hoặc là sự vô chính phủ hoặc là tính dân chủ và sự phát triển đa dạng. Vì GDĐH Hoa Kỳ tôn trọng các quy luật của thị trường và có ý thức khai thác chúng, các lực thị trường đã tạo nên sự cân bằng động cho hệ thống, thêm nữa, Nhà nước Hoa Kỳ còn có những tác động gián tiếp hỗ trợ thêm cho các tác động tích cực của thị trường. Như vậy, hệ thống GDĐH Hoa Kỳ phát triển đa dạng nhưng ổn định vì nó được giữ chủ yếu bởi các lực liên kết bên trong chứ không phải bằng những tác động áp đặt trực tiếp từ bên ngoài.
3. GIÁ TRỊ CỦA TINH THẦN
HUMBOLDT VÀ KINH NGHIỆM CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC HOA KỲ ĐỐI
VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NƯỚC TA
Tiếp thu và phát triển các ý tưởng
của Humboldt, GDĐH Hoa Kỳ đã phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành quả. Vậy
thì Việt Nam có thể học tập được gì từ tinh thần Humboldt và kinh nghiệm của
GDĐH Hoa Kỳ?
Đây là câu hỏi không dễ trả lời.
Để có giải đáp đúng đắn cho mỗi nước, có lẽ trước hết nên nhớ một câu danh ngôn
của cổ nhân, ý nói: “Cây cam sẽ là cây cam khi trồng nó ở phía nam sông Dương Tử,
nhưng nó có thể trở thành một cây gì khác khi trồng ở phía bắc con sông ấy” –
vì đất và nước ở hai nơi không như nhau. Nói cách khác, theo chúng tôi, muốn học
tập được gì ở các ý tưởng của Humboldt và kinh nghiệm của hệ thống GDĐH Hoa Kỳ
trước hết cần phải hiểu hệ thống đó, hơn nữa cũng phải hiểu rõ bản thân mình và
cái mà mình cần, mà điều đó đòi hỏi không ít thời gian và suy ngẫm.
Đối với Việt Nam, sự khác biệt về
kinh tế, chính trị xã hội làm cho nền GDĐH nước ta rất khó chuyển biến theo
tinh thần Humboldt và áp dụng kinh nghiệm của GDĐH Hoa Kỳ. Do đó, đổi mới GDĐH
đã diễn ra ở nước ta từ năm 1987, hơn hai thập niên qua, nhưng nền GDĐH nước ta
vẫn trì trệ và còn quá nhiều vấn đề nan giải. Dưới đây sẽ điểm qua một số vấn đề
quan trọng có liên quan đến các ý tưởng về GDĐH của Humboldt.
– Trước hết, đó là quyền
tự chủ và trách nhiệm xã hội (autonomy
& accountability) của các trường đại học. Đây chính là cái lõi của vấn
đề quản trị GDĐH, điều đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần khi nói đến sự trì trệ
của GDĐH Việt Nam, và chính Nhà nước cũng đã nhận định: trình độ quản lý là
khâu yếu kém nhất, cần đột phá thay đổi thì hệ thống GDĐH mới có thể phát triển
lành mạnh. Để các có thể trao quyền tự chủ cho các trường đại
học, “hội đồng trường” của các trường đại học công lập, một hội đồng quyền lực,
đã được đưa vào điều lệ trường đại học từ năm 2003. Tuy nhiên cho đến nay chỉ một
số rất ít (chưa đến 10) trường đại học có hội đồng trường, và chúng hoạt động một
cách rất hình thức. Sở dĩ cơ chế hội đồng trường chưa thực thi ở Việt Nam vì, một
mặt, vẫn còn tồn tại cơ chế cơ quan chủ quản là nơi quyết định những vấn đề lớn
về nhân sự và tài chính của các trường đại học chứ không phải hội đồng trường,
đặc biệt là quyết định bổ nhiệm hiệu trưởng; mặt khác, bản thân các hiệu trưởng
cũng không muốn bị giảm quyền lực! Để tăng cường trách nhiệm xã hội của trường
đại học, một hệ thống kiểm định công nhận chất lượng đã được
đưa vào, nhưng cơ quan cao nhất điều hành hệ thống này vẫn thuộc Bộ Giáo dục và
Đào tạo, khác với thông lệ quốc tế cơ quan này phải là một cơ quan độc lập, thường
là phi chính phủ. Như vậy, trong hệ thống GDĐH nước ta, tuy ý tưởng tự chủ và
trách nhiệm xã hội đã được du nhập, nhưng cơ chế thích hợp để hiện thực hóa các
ý tưởng đó vẫn chưa được xác lập đầy đủ.
– Một nhược điểm lớn của hệ thống
GDĐH nước ta là tách rời các trường đại học với hệ thống các viện
nghiên cứu quan trọng, một tàn tích của mô hình hệ thống kiểu Liên Xô
cũ. Thấy được sự bất hợp lý của mô hình tách rời giảng dạy và nghiên cứu này,
vào thập niên 1990 nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã cố gắng hòa nhập hai hệ thống
này, nhưng ông đã thất bại trước tính bảo thủ của các viện nghiên cứu và tầm
nhìn hạn hẹp của những người kế nhiệm ông, cho nên đến nay sự tách rời đó vẫn
còn tồn tại.
Như đã biết, một trong các nguyên
lý quan trọng của nhà trường đại học mà Humboldt đã nêu ra là sự thống nhất
giữa giảng dạy và nghiên cứu. GDĐH Hoa Kỳ đã vận dụng rất thành công nguyên lý
đó, thể hiện rõ nhất trong báo cáo nổi tiếng của Vannevar Bush, cố vấn khoa học
của Tổng thống Mỹ Truman vào năm 1945 với tựa đề là “Khoa học: cái biên giới vô
tận” (“Science: The Endless Frontier”) (11). Trong báo cáo có
nêu 3 nguyên tắc làm nền tảng cho sự hỗ trợ của quốc gia đối với nghiên cứu
khoa học, đó là: 1) Nhà nước liên bang chịu trách nhiệm chính tài trợ cho khoa
học cơ bản; 2) Các trường đại học – chứ không phải các phòng thí nghiệm do Nhà
nước điều hành, các viện nghiên cứu thuần túy không giảng dạy hoặc các công
nghiệp tư nhân – phải là các cơ sở được ưu tiên triển khai các nghiên cứu
do Nhà nước tài trợ; và 3) Tuy Nhà nước đã xác định tổng chi phí cho các lĩnh vực
khoa học, các dự án hoặc đề tài nghiên cứu cụ thể cũng phải thông qua quá trình
đánh giá có tính cạnh tranh cao bởi các đồng nghiệp, trong đó các chuyên gia độc
lập xem xét các dự án dựa trên chỉ các thước đo khoa học của riêng họ chứ không
phải trên cơ sở chính trị hoặc thương mại. Các nguyên tắc mà Bush đề ra vẫn được
áp dụng ở Hoa Kỳ cho đến ngày nay, và là một trong những yếu tố đưa đến những
thành công lớn của hệ thống GDĐH và khoa học của Hoa Kỳ. Các ý tưởng này chính
là sự phát triển nguyên tắc thứ ba của Humboldt đã nêu ở đầu bài viết.
Đối với sự phát triển GDĐH và
khoa học ở Việt Nam, các kinh nghiệm này vẫn mang tính thời sự cao và hết sức bổ
ích.
– Một vấn đề thời sự của GDĐH nước
ta cũng như GDĐH nhiều nước trong thập niên đầu thế kỷ 21 là niềm mong muốn có
các trường đại học đẳng cấp thế giới. Thậm chí ở Việt
Nam, Nhà nước chủ trương đầu tư một chi phí khá lớn để nhờ nước ngoài giúp xây
dựng bốn trường trường đại học và hy vọng đến năm 1920 trong số đó sẽ có trường
đạt vị trí trong tốp 200 trường đẳng cấp thế giới đầu bảng (12).
Khi bàn về điều kiện để trở thành
một trường đại học nghiên cứu tốt, tiến lên một ĐH “đẳng cấp thế giới”, các nhà
nghiên cứu thường nêu ra các tiêu chí, có thể xếp vào ba nhóm: 1) tập trung nhiều
tài năng, 2) dồi dào về nguồn lực, và 3) cơ chế quản trị hiệu quả (13).
Sự hiện diện đồng bộ và sự tương tác lẫn nhau của cả ba yếu tố đó đã tạo ra sự
khác biệt của các trường đại học hàng đầu thế giới. Đối với ba tiêu chí nêu
trên, hai tiêu chí đầu là các điều kiện cần, nhưng tiêu chí thứ ba, quản trị hiệu
quả, là tiêu chí quan trọng nhất. Tiêu chí này cũng bao gồm trong nó các nguyên
lý quản trị đại học mà Humboldt đã đề ra: quyền tự chủ đại học và quyền tự
do học thuật. Và có thể nói các giai đoạn thành công rực rỡ hoặc thoái trào
nặng nề trong lịch sử 200 năm Trường đại học Berlin (Humboldt) cũng chủ yếu
liên quan đến tiêu chí thứ ba này. Cho nên, để mong muốn xây dựng các trường đại
học đẳng cấp thế giới trở thành hiện thực, GDĐH Việt Nam phải hết sức coi trọng
tiêu chí thứ ba nêu trên.
Các vấn đề vừa nêu trên đây gắn
chặt với tinh thần đại học của Humboldt và các kinh nghiệm của GDĐH Hoa Kỳ,
cũng nằm trong số những vấn đề quan trọng nhất mà hệ thống GDĐH nước ta phải đối
mặt trong quá trình phát triển. Trong điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của
Việt Nam hiện nay, làm cho tinh thần đại học Humboldt trở thành hiện thực trong
cuộc sống đại học là điều không phải dễ dàng. Cần một đấu tranh liên tục trong
cộng đồng GDĐH và giữa cộng đồng GDĐH với các cấp quản lý hệ thống để có được
những đổi thay ngày càng sâu sắc hơn.
Nhằm tạo nên một điểm xuất phát
thuận lợi cho cuộc đấu tranh để thay đổi đó, một cuộc cải cách giáo dục mạnh
mẽ và sâu sắc ở thời điểm này là vô cùng cần thiết. Cần khai thác trí
tuệ của các chuyên gia giáo dục trong và ngoài nước để thiết kế bài bản
đề án cải cách giáo dục, cần tạo một sự đồng thuận cao trong
xã hội về phương hướng cải cách và cần có sự đảm bảo của quốc gia về nguồn lực
và luật lệ để cải cách thành công. Nhiều nhà giáo dục và trí thức tâm huyết với
vận mệnh của đất nước đã phát biểu về sự cần thiết một cuộc cải cách giáo dục
sâu rộng (14) để có một nền giáo dục trung thực (15).
Cải cách giáo dục hiện nay là yêu cầu của cuộc sống, của dân tộc, cho nên một
Nhà nước vì dân chắc chắn sẽ nắm bắt lấy đề xuất đó để phát động một cuộc cải
cách mạnh mẽ. Và cải cách GDĐH, một bộ phận quan trọng trong cuộc cải cách giáo
dục nói chung, chắc chắn sẽ phải thấm nhuần tinh thần đại học của Humboldt, một
di sản trí tuệ của nhân loại.
Hà Nội, tháng 11/2010
TÀI LIỆU DẪN
[1] Altbach, P.G. “The
American Academic Model in Comparative Perspective”. Có bản dịch ra tiếng Việt
trong (4).
[2] Perkin, H. “History
of Universities”, trong: “The History of Higher Education”, ASHE Reader Series,
Simon & Schuster Custom Publishing, 1997.
[3] Sebastian Litta. “Celebrating
200 Years of Humboldt University”, International Higher Education, No 61, 2010.
Boston College.
[4] Lâm Quang Thiệp;
Johnstone, D.B.; Altbach, P.G. “Giáo dục Đại học Hoa Kỳ”, NXB Giáo dục,
2006-2007
[5] Lâm Quang Thiệp. “Về
xu hướng hội nhập giáo dục đại học trên thế giới và những đổi mới của giáo dục
đại học Việt Nam”. Trích từ Kỷ yếu Hội thảo “Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam,
Hội nhập và Thách thức”, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 3/2004.
[6] Trow, M. “American
Higher Education: Past, Present and Future”. Trích từ “Foundation of American
Higher Education”, Simon & Schuster Publisher, 1999.
[7] Geiger, R. “The
Ten Generations of American Higher Education”. Có bản dịch ra tiếng Việt trong
(4).
[8] The College Board.
“Trends in Student Aid”, October, 2000.
[9] The Chronical of Higher
Education – Almanac Isue 2008-2009.
[10] Johnstone, B.D. “The
US Higher Education System”. Có bản dịch ra tiếng Việt trong (4).
[11] Bush, V. “Science:
The Endless Frontier”. http://www.nsf.gov/about/history/vbush1945.htm
[12] Thủ tướng Chính phủ.
“Quy hoạch mạng lưới các trường đại học/cao đẳng” ban hành theo quyết
định 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007.
[13] Jamil Salmi. “The
Challenge of Establishing World Class Universities”, http://portal.unesco.org/education/en/files/55825/12017990845Salmi.pdf/Salmi.pdf
[14] Lâm Quang Thiệp. “Cần
một cuộc cải cách giáo dục sâu rộng”. Báo Tuổi trẻ 3/9/2010. http://tuoitre.vn/Giao-duc/398607/Can-mot-cuoc-cai-cach-giao-duc-sau-rong.html
[15] Nguyễn Thị Bình. “Cải
cách để có một nền giáo dục trung thực.” Báo Tuổi trẻ 20/9/2010. http://tuoitre.vn/Giao-duc/401326/Cai-cach-de-co-mot-nen-giao-duc-trung-thuc.html
(*) Professor, Vietnam National University, Hanoi
and Thang Long University.
(**) “GI” là cách gọi thân mật của
từ “lính Mỹ”. Cách dùng GI theo nghĩa này ra đời từ giữa thế kỷ XX để gọi tắt từ
“government issue” (cấp phát của nhà nước) một kiểu giải thích nhại từ GI-
“galvanized iron” (đồ sắt mạ) được ghi trên nhiều quân trang quân dụng của lính
Mỹ thời ấy.
LỜI BẠT
Với sự ra đi của GS Lâm Quang Thiệp, diễn đàn edu-sci (Humboldt) đã mất đi nhiều học già từng tham gia sinh hoạt lâu năm. Tôi nhớ lại những người bạn đáng kính và yêu thương sau đây: GS Vĩnh Sính, GS Hoàng Tụy, GS Nguyễn Quang Riệu (Paris), GS Cao Huy Thuần, GS Ngô Vĩnh Long, GS Trần Hữu Dũng, GS Phạm Quang Hưng (Virginia), GS Võ Tòng Xuân, và bây giờ GS Lâm Quang Thiệp. Một thế hệ đang “bay đi” như lá mùa thu trở về nguồn cội. Họ đều là những chiến sĩ trên mặt trận tri thức, giáo dục, đấu tranh cho hòa bình, độc lập và tiến bộ của dân tộc. Và nói như tướng Douglas MacArthur, “Các chiến sĩ già không bao giờ chết; họ chỉ phai nhạt đi thôi” (Old soldiers never die; they just fade away). Nhưng là một mất mát rất lớn./.
Nguồn: GS Lâm Quang Thiệp qua đời, rosetta.vn, 14 Tháng Mười, 2025.

