29.8.15

Động viên



Động viên

Incentives
® Giải Nobel: MIRRLEES, 1996 VICKREY, 1996
Lí thuyết động viên ra đời với việc ý thức, trong những năm 1970, tầm quan trọng của những thông tin không đối xứng trong sự phân tích những cơ chế kinh tế vi mô. Những công trình của Akerlof (1970) về cân bằng của một thị trường với thông tin không hoàn hảo, của Mirrlees (1971) về thuế khoá tối ưu và của Vickrey (1961) về lí thuyết đấu giá báo trước một tiến hoá đã làm thay đổi một cách sâu sắc việc phân tích các thị trường và các tổ chức. Việc phân tích những động viên chủ yếu được tiến hành trong khuôn khổ của mô hình người uỷ quyền-người đại diện với hành động bị che giấu hay với thông tin bị che khuất. Trường hợp đầu tương ứng với vấn đề rủi ro đạo đức và trường hợp sau tương ứng với lựa chọn nghịch. Có thể tìm định nghĩa của những khái niệm này trong các mục Thông tin không đối xứngHợp đồng của từ điển này.
Động viên và hành động bị che giấu
James Mirrlees (1936-)
Trong một bối cảnh rủi ro đạo đức, qui tắc chi trả chỉ định việc chuyển nhượng từ người uỷ quyền sang người đại diện là cái lõi của cơ chế động viên: sự chuyển nhượng này sẽ tuỳ thuộc những biến kiểm tra được (những tín hiệu), những biến này phụ thuộc vào những quyết định của người đại diện (mức nỗ lực của người này) nhưng cũng tuỳ thuộc vào những ngẫu nhiên không quan sát được. Mặc dù có những ngẫu nhiên này nhưng các tín hiệu vẫn là có ích nếu chúng có tương quan với nỗ lục của người đại diện: bằng cách điều kiện hoá việc chuyển nhượng trên những tín hiệu này, người uỷ quyền động viên người đại diện có hành vi mình mong muốn.
Hợp đồng tối ưu và mức nỗ lực của người đại diện tối đa hoá kì vọng lợi ích của người uỷ quyền dưới một ràng buộc tham gia của người đại diện (kì vọng lợi ích của người này phải đủ cao để cho đề nghị của người uỷ quyền là chấp nhận được) nhưng cũng còn tính đến một ràng buộc động viên. Ràng buộc động viên này thể hiện việc mức nỗ lực là tối ưu đối với người đại diện và do đó người này chọn mức nỗ lực này một cách tự phát. Hợp đồng xác định việc chi trả cho người đại diện tuỳ theo tín hiệu nhận được. Đôi lúc tín hiệu này có một dạng tuyến tính gần với những hợp đồng thường gặp trong thực tiễn, ví dụ cho những thù lao, tiền hoa hồng hay trong những hợp đồng thuê đất cày cấy.
George Akerlof (1940-)
Hợp đồng tối ưu với hành động bị che giấu thật ra là một thoả hiệp giữa hai mục tiêu thường mâu thuẫn nhau: động viên người đại diện làm đủ nỗ lực nhưng đồng thời cũng là chia sẻ rủi ro. Khi người đại diện bàng quan đối với rủi ro thì có thể tập trung vào mục tiêu động viên nỗ lực bằng cách đề nghị cho người này một hợp đồng phân bổ cho anh (chị) ta toàn bộ thặng dư thu được từ quan hệ người uỷ quyền-người đại diện trừ đi một số tiền cố định không ảnh hưởng đến hành vi của người đại diện. Trong một bối cảnh như thế, người đại diện chọn mức nỗ lực làm cực đại kì vọng toán học của thặng dư (và điều này là tối ưu, cho dù người đại diện có ngại rủi ro hay là bàng quan đối với rủi ro) và người uỷ quyền thu lấy toàn bộ thặng dư mong đợi khi ấn định một cách thích hợp số tiền cố định trừ đi theo qui tắc chi trả cho người đại diện. Một hợp đồng độc quyền bao tiêu giữa một nhà sản xuất và một nhà phân phối là một ví dụ ứng dụng qui tắc này: nhà sản xuất cung cấp những sản phẩm theo một giá sỉ nhất định, sau khi người đại diện đã trả một số tiền cố định (bao tiêu). Bằng cách chọn giá bán sỉ bằng với chi phí sản xuất cận biên, nhà sản xuất động viên nhà phân phối lựa chọn mức nỗ lực làm cực đại thặng dư kì vọng. Tiền bao tiêu cho phép nhà sản xuất thu hồi thặng dư này bằng cách chỉ để lại cho nhà phân phối mức thu nhập tối thiểu khiến người này chấp nhận đề nghị của nhà sản xuất. Tuy nhiên một hợp đồng như thể trút cả rủi ro lên vai nhà phân phối, nếu có những ngẫu nhiên tác động đến cầu hay đến những chi phí phân phối. Nếu nhà phân phối ngại rủi ro và người uỷ quyền bàng quan đối với rủi ro thì hợp đồng tối ưu phải trù liệu một giá bán sỉ cao hơn chi phí cận biên với một số tiền bao tiêu thấp hơn: như vậy nhà phân phối ít chịu rủi ro hơn nhưng cái giá phải trả là mất hiệu quả do gia tăng của giá bán sỉ cao hơn chi phí cận biên. 
Bengt Holmstrom (1949-)
Thế lưỡng nan này giữa động viên nỗ lực và chia sẻ rủi ro hiện ra một cách hiển nhiên trong những hợp đồng bảo hiểm: nó khiến nhà bảo hiểm đề nghị những hợp đồng bảo hiểm bộ phận (miễn bồi, miễn trả chi phí điều trị, trần bồi thường) nhằm gìn giữ những nỗ lực động viên sự thận trọng hay cảnh giác của người mua bảo hiểm. Holmström (1979) và Grossman và Hart (1983) đã chứng minh rằng ràng buộc động viên nỗ lực dẫn đến một mất mát phúc lợi trong hầu hết những tình thế rủi ro đạo đức trong đó người đại diện là một người ngại rủi ro.
Một cách chính xác hơn, hợp đồng được chọn không dẫn đến việc chia sẻ tối ưu rủi ro: ở mức nỗ lực tối ưu, có thể làm tăng đồng thời kì vọng lợi ích của người uỷ quyền lẫn kì vọng lợi ích của người đại diện bằng cách thay đổi qui tắc chi trả, nhưng ràng buộc động viên người đại diện không còn được tôn trọng nữa. Điều nổi lên là hợp đồng tối ưu phải sử dụng tất cả những tín hiệu thông tin về hành vi của người đại diện, ví dụ những thành tựu của những người đại diện khác đặt trong những tình thế tương tự. Đặc biệt là nếu hai người đại diện góp phần thực hiện những mục tiêu đặc biệt bị chi phối bởi một ngẫu nhiên (ngẫu nhiên này tuỳ thuộc, ví dụ, vào tình trạng của cầu trên một thị trường) thì chênh lệch thành tựu giữa hai người đại diện loại bỏ nhiễu ngẫu nhiên chung và phải điều kiện hoá thù lao của mỗi người đại diện. Những cuộc thi đấu vòng, được Lazear và Rosen (1981) nghiên cứu là một dạng cực đoan của kiểu hợp đồng động viên này: nhiều người đại diện bị đặt vào thế cạnh tranh nhau và nhận thù lao tuỳ theo thứ bậc của mình trong bảng sắp xếp những thành tựu.
Paul Milgrom (1948-)
Trong một bài toán ê-kíp (Holmström, 1982), không thể cá thể hoá thành tựu của mỗi người đại diện. Ta chỉ đo một kết quả tổng gộp, thành tựu của những nỗ lực của nhiều người đại diện và điều này dẫn đến những hành vi ăn không. Tuy nhiên, cho dù những thành tựu cá thể là quan sát được, thì gắn kết có điều kiện thù lao của một người đại diện với kết quả của một ê-kíp (như trong một hợp đồng đầu tư theo lợi nhuận) cho phép làm giảm rủi ro gắn với những ngẫu nhiên tác động đến những thành tựu cá thể. Còn một khó khăn nữa khi người đại diện phải hoàn thành nhiều nhiệm vụ. Như vậy hợp đồng động viên phải tránh làm méo mó những nhiệm vụ so với một phân bổ có hiệu quả những nỗ lực của người đại diện. Ví dụ, giả sử một nhân viên thương mại thực hiện đồng thời một nỗ lực bán hàng (nhiệm vụ 1) và quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp (nhiệm vụ 2). Ta cũng giả định là doanh thu tuỳ thuộc chặt chẽ vào thời gian dành cho nhiệm vụ 1 trong lúc hình ảnh của doanh nghiệp tất nhiên tuỳ thuộc vào thời gian dành cho nhiệm vụ 2 song cũng còn tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố ngẫu nhiên khác và độc lập với hành vi của người đại diện. Một hợp đồng động viên có thể khiến cho người đại diện tập trung vào nhiệm vụ 1 và coi nhẹ nhiện vụ 2. Như Holmström và Milgrom (1991) đã ghi nhận, kiểu tình thế này giải thích vì sao những hợp đồng trong thực tiễn thường chỉ qui định một cường độ động viên cho một nỗ lực hạn chế.
Oliver E. Williamson (1932-)
Vấn đề rủi ro đạo đức cũng còn được đặt ra trong bối cảnh những hợp đồng không đầy đủ, nghĩa là khi những hợp đồng không qui định tất cả những quyết định phải được lấy trong những trạng thái khác nhau của tự nhiên. Như thế phân bổ được chọn là kết quả của một cuộc thương thảo ex post (nghĩa là một khi đã biết trạng thái của tự nhiên) để xác định những điều kiện của một cuộc giao dịch, ví dụ những chỉ định và giá giao hàng của một nhà thầu cho một doanh nghiệp. Ở đây đặt ra một vấn đề rủi ro đạo đức trong chừng mực mà những người đại diện có liên can không thể cam kết thực hiện ex ante những đầu tư đặc thù cần thiết: những động viên của họ thật ra tuỳ thuộc vào quyền lực của họ trong cuộc thương thảo ex post và do đó phụ thuộc vào cấu trúc của những quyền sở hữu các tài sản làm chỗ dựa cho giao dịch. Trong trường hợp quan hệ nhà sản xuất-nhà thầu, tình thế này có thể dẫn đến việc hợp nhất theo chiều dọc (Williamson, 1985, và Grossman & Hart, 1986).
Động viên và thông tin bị che khuất
Roger Myerson (1951-)
Trong bối cảnh thông tin bị che khuất, dạng tổng quát của một hợp đồng là dạng của một cơ chế động viên: người uỷ quyền đề nghị cho người đại diện một tập những tuỳ chọn để người này lựa chọn bằng cách gởi một thông điệp cho người uỷ quyền. Thể theo nguyên lí bộc lộ (Myerson, 1979), mọi cơ chế động viên tương đương với một cơ chế bộc lộ, nghĩa là một cơ chế trong đó những thông điệp có thể tương ứng với toàn bộ những tình thế có thể của người đại diện và trong đó người đại diện được động viên để bộc lộ một cách chính xác thông tin mình có. Nói cách khác, chi phí mà thông tin không đối xứng áp đặt cho người uỷ quyền tương ứng với chi phí cần thiết để buộc người đại diện nói sự thật. Chi phí này có dạng một tô thông tin, nghĩa là một bội thu mà người đại diện trong một số trường hợp chắc chắn có được do nắm giữ thông tin bị che giấu. Thu hẹp những tô thông tin này có thể dẫn đến những méo mó (ảnh hưởng đến, ví dụ, mức thành tựu đòi hỏi người đại diện phải đạt) so với một tình thế có thông tin hoàn hảo. Hợp đồng tối ưu sẽ thực hiện một thoả hiệp giữa chi phí của những tô thông tin và chi phí của những méo mó. 
William Vickrey (1914-1996)
Có thể minh hoạ nguyên lí chung này bằng một ví dụ đơn giản. Giả sử doanh nghiệp A đề nghị một hợp đồng thầu cho doanh nghiệp B. B có thể rất có hiệu quả (B có thể hoàn thành với chi phí thấp những thành tựu cao tính về mặt thời gian và tính đều đặn của việc giao hàng) hoặc không mấy hiệu quả (trường hợp đối xứng) và A không thể xác định được kiểu (hiệu quả cao hay thấp) của B. Để đơn giản hoá, ta cũng giả định là A tuyệt đối cần đến B vì không còn doanh nghiệp nào sẵn sàng nữa và B chấp nhận hợp đồng nếu thu được một lợi nhuận dương hoặc bằng không. Một phân bổ có hiệu quả những nguồn lực sẽ dẫn đến một hợp đồng thầu với những thành tựu cao hay thấp tuỳ theo là B có hiệu quả cao hay thấp. Do không biết được B đang ở trong tình thế nào, A sẽ đề nghị B chọn một trong hai khả năng: hoặc là những thành tựu thấp và được chi trả đủ những chi phí nếu B có hiệu quả thấp, hoặc là những thành tựu cao và một chi trả đủ cao để động viên B lựa tuỳ chọn này nếu B là rất có hiệu quả. Trong trường hợp thứ nhì này, tiền chi trả phải vượt quá những chi phí nếu không thì B, nếu là một doanh nghiệp rất có hiệu quả, sẽ thích chọn phương án đầu dành cho một doanh nghiệp có hiệu quả thấp để tận dụng những chi phí thấp của mình nhằm thu một lợi nhuận dương. Lợi nhuận mà một doanh nghiệp có hiệu quả thụ hưởng tương ứng với tô thông tin của doanh nghiệp này. Lợi nhuận này thật ra tuỳ thuộc vào mức thành tựu được đề nghị cho doanh nghiệp B nếu B là kém hiệu quả; cho nên khi giảm hơn nữa mức thành tựu này thì càng làm giảm tô thông tin. Tuy nhiên điều này cũng gây nên những méo mó làm giảm lợi nhuận của A. Hợp đồng động viên tối ưu thực hiện một thoả hiệp giữa chi phí của tô thông tin B chiếm dụng khi doanh nghiệp này có hiệu quả cao và chi phí những méo mó mà A phải gánh chịu khi B có hiệu quả thấp.
Jean-Jacques Laffont (1947-2004)
Nguyên lí tổng quát này đã có nhiều ứng dụng vô cùng đa dạng, đặc biệt là trong những lĩnh vực thuế khoá tối ưu (Mirrlees, 1971), điều tiết các độc quyền (Baron & Myerson, 1982; Laffont & Tirole, 1993) hay trong kinh tế học bảo hiểm (Stiglitz, 1977).
Việc đặc trưng hoá hợp đồng giữa AB là tế nhị hơn khi quan hệ A-B được lặp lại trên nhiều giai đoạn (ví dụ trên hai giai đoạn) và nếu doanh nghiệp A không thể cam kết về cách mình sau này sẽ sử dụng như thế nào thông tin thu được về B vào lúc kết thúc giai đoạn đầu. Thật vậy, trong hợp đồng với hai tuỳ chọn được mô tả trên đây, vào cuối giai đoạn đầu kiểu của doanh nghiệp B đã được bộc lộ bởi việc lựa tuỳ chọn. Như thế A biết rằng nếu B có hiệu quả cao hoặc không mấy cao và không có lí do gì để A trả tô cho B. Do đó sẽ là tốn kém hơn khi động viên B bộc lộ mình là một doanh nghiệp có hiệu quả rất cao vì bằng cách giả làm một doanh nghiệp có hiệu quả thấp trong giai đoạn đầu thì B sẽ thụ hưởng một tô thông tin trong giai đoạn hai. Khó khăn này được gọi là hiệu ứng bánh cóc và có thể khiến A đề nghị những hợp đồng không có khả năng lựa chọn trong giai đoạn đầu (Laffont & Tirole, 1993).
Joseph Stiglitz (1943-)
Vấn đề động viên trong một bối cảnh thông tin bị che khuất cũng được đặt ra trong một khuôn khổ đa tác nhân, đăc biệt là trong việc bộc lộ những sở thích đối với những sản phẩm công cộng và trong khuôn khổ của những thủ tục đấu giá. Một ứng dụng của nguyên lí bộc lộ dẫn đến việc quan niệm định nghĩa một thủ tục đấu giá tối ưu như việc tìm kiếm một cơ chế bộc lộ gắn với một trò chơi với thông tin không đầy đủ trong đó mỗi người tham gia thông báo giá trị mình gán cho sản phẩm và trong đó qui tắc xác định cơ chế đấu giá xác định người thắng cũng như giá phải trả. Nếu ta giới hạn trong định nghĩa cân bằng với chiến lược khống chế, thì đấu giá tối ưu trùng khớp với đấu giá theo giá thứ hai. Với một số giả thiết (đặc biệt là người mua phải bàng quan đối với rủi ro) thì đấu giá này gán cho người tổ chức đấu giá cùng một kì vọng thu hoạch với kì vọng đạt được trong một đấu giá theo giá thứ nhất. Kết quả này, do Vickrey (1961) thiết lập, được biết dưới tên định lí thu nhập tương đương.
AKERLOF G., The Market for Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism, Quarterly Journal of Economics, 1970, 89, p. 488-500. BARON D & MYERSON R., Regulating a Monopolist with Unknown Costs, Econometrica, 1982, 50, 911-930. GROSSMAN S & HART O., An Analysis of the Principal-Agent Problem”, Econometrica, 1983, 1, p. 7-45; The Costs and Benefits of Ownership: a Theory of Vertical and Lateral Integration, Journal of Political Economy, 1986, 84, p. 691-719. HOMSTRÖM B., Moral Hazard and Observability, The Bell Journal of Economics, 1979, 10, p. 79-42; Moral Hazard in Teams, The Bell Journal of Economics, 1982, 13, p. 314-340. HOMSTRÖM B., & MILGROM P., Multitask Principal-Agent Analysis: Incentive Contracts, Asset Ownership and Job Design, Journal of Law, Economics and Organization, 1991, 7, p. 24-51. LAFFONT J. J. & TIROLE J., A Theory of Incentives in Procurement and Regulation, MIT Press, 1993. LAZEAR E. P. & ROSEN S., Rank order Tournaments as Optimal Labor Contracts, Journal of Political Economy, 1981, 89, p. 841-864. MIRRLEES J., An Exploration in the Theory of Optimal Income Taxation, Review of Economic Studies, 1971, 38, p. 175-208. MYERSON R., Incentive Compatibility and the Bargaining Problem, Econometrica, 1979, 47, p. 61-74. STIGLITZ J., Monopoly, Nonlinear Pricing and Imperfect Information: the Insurance Market, Review of Economic Studies, 1977, 44, p. 407-430. VICKREY, W., Counterspeculation, Auctions and Competitive Sealed Tenders, Journal of Finance, 1961, 16, p. 8-37. WILLIAMSON O. E., Markets and Hierarchies, New York, Free Press, 1975; The Institutions of Capitalism (1985), bản dịch tiếng Pháp (không toàn văn), Paris, lOrganisation, 1994.
Pierre PICARD
Giáo sư đại học Nanterre (Paris 10), cựu thành viên Viện đại học Pháp (Nanterre)
Nguyễn Đôn Phước dịch
Nguồn: Dictionnaire des sciences économiques, sous la direction de Claude Jessua, Christian Labrousse, Daniel Vitry, PUF, Paris, 2001.

® Hợp đồng; Người ăn không; Người uỷ quyền-người đại diện; Thông tin không đối xứng.
Print Friendly and PDF