Vị trí của nền kinh tế trong các xã hội
Ngày nay, ít có chuyên gia khoa học xã hội nào chấp nhận toàn bộ quan niệm
ngây thơ của Thế kỉ Ánh sáng liên quan đến con người nguyên thủy tận hưởng tự
do và đánh đổi sản phẩm của mình trong rừng để tổ chức xã hội và kinh tế. Những
khám phá của Comte, Quetelet, Marx,
Maine, Weber, Malinowski, Durkheim và Freud giữ một vị trí cao hơn trong sự gia
tăng của tri thức hiện đại, theo đó tiến trình xã hội là một thể những quan hệ giữa
con người với tư cách một thực thể sinh học và cấu trúc duy nhất những biểu
tượng và kĩ thuật cho phép duy trì sự tồn tại của con người. Nhưng dù chúng ta
đã khám phá thực tế của xã hội, tri thức mới không sản sinh ra một cách nhìn về
xã hội so sánh được về mặt tiếng tăm với hình ảnh truyền thống của cá thể luận
nguyên tử. Trên những điểm thiết yếu, chúng ta rơi trở lại vào những duy lí hóa
trước đây về con người được quan niệm như một nguyên tử duy lợi. Và không đâu
mà sự rơi trở lại này lại rõ ràng hơn những gì liên quan đến các ý tưởng của
chúng ta về kinh tế. Trong cách tiếp cận nền kinh tế, bất luận khía cạnh nào
được xem xét, chuyên gia khoa học xã hội vẫn còn lấn cấn bởi một quan niệm được
thừa hưởng, theo đó con người là một thực thể có một khuynh hướng bẩm sinh là đánh
đổi và trao đổi vật này với vật khác. Mặc những phản kháng chống lại “con người
kinh tế” và những toan tính từng lúc để cung cấp một khung xã hội cho nền kinh
tế, ý tưởng trên vẫn được duy trì.
Auguste Comte (1798-1857) |
![]() |
Max Weber (1864-1920) |
![]() |
Sigmund Freud (1856-1939) |
Duy kinh tế luận mà chúng ta thừa hưởng đặt thành nguyên lí một kiểu hành
động được xem là mang đặc tính kinh tế. Theo cách nhìn này, một tác nhân – một
cá thể, gia đình hay xã hội nói chung – được quan niệm trong mối quan hệ với một
môi trường tự nhiên chỉ dần dần cho con người những yếu tố để tồn tại. Hành
động kinh tế, hay chính xác hơn hành động tiết kiệm tượng trưng cho tinh túy
của tính duy lí, được xem như một cách sử dụng thời gian và năng lượng, khiến
cho thông qua quan hệ này giữa con người và tự nhiên, một số mục tiêu được đạt
đến. Kinh tế trở thành trung tâm của hành động này. Tất nhiên điều được thừa
nhận là trong thực tế hành động kinh tế có thể chịu ảnh hưởng theo nhiều cách
của những nhân tố phi kinh tế khác, có tính chính trị, quân sự, nghệ thuật hay
tôn giáo. Nhưng ý tưởng then chốt về tính duy lí duy lợi vẫn tiếp tục sống dai
như là mô hình của nền kinh tế.
![]() |
Émile Durkheim (1858-1917) |
![]() |
Adolphe Quetelet (1796-1874) |
![]() |
Bronisław Malinowski (1884-1942) |
Quan niệm này về kinh tế như là trung tâm của những hiện tượng như sự phân
bổ các nguồn lực, tiết kiệm, thặng dư mua bán, sự hình thành giá cả bắt nguồn
từ môi trường Tây phương trong thế kỉ XVIII và chắc chắn là xác đáng trong
trường hợp của những bố trí thể chế của một hệ thống thị trường, một khi những
điều kiện thực tế về đại thể đáp ứng các giả thiết do định đề kinh tế đặt ra.
Nhưng định đề này có cho phép chúng ta kết luận về tính phổ biến của hệ thống
thị trường trong hiện thực thực nghiệm không? Tham vọng của kinh tế học hình
thức nhằm được ứng dụng vào tất cả các trường hợp lịch sử kéo theo một câu trả
lời khẳng định. Thật ra, câu trả lời này giả định sự có mặt ít nhất là tiềm
tàng của một hệ thống thị trường trong mọi xã hội, cho dù hệ thống này có tồn
tại hay không trên thực nghiệm. Như thế, mọi nền kinh tế của con người có thể
được xem như một cơ chế tiềm tàng của cung và cầu và bất luận quá trình thực tế
nào cũng được giải thích như sự cụ thể hóa của cơ chế này.
Nếu một ngày nào đó nghiên cứu thực nghiệm phải làm tăng hiểu biết của
chúng ta về những phương thức vận động cơ bản của những hình thái kinh tế khác
nhau và vị thế của các hình thái này trong những xã hội khác nhau thì chúng ta
buộc phải kiểm định tính xác đáng của định đề trên. Khi tiếp cận quá trình kinh
tế từ vị thế mà kiến thức mới ưu đãi chúng ta, thì về tính hiện thực của xã
hội, chúng ta có thể nói rằng không có bất kì quan hệ tất yếu nào giữa hành động
tiết kiệm và nền kinh tế thường nghiệm. Cấu trúc thể chế của nền kinh tế không
tất yếu quyết định một hành động “kinh tế” như trong hệ thống thị trường. Những
hệ luận của một quan điểm như thế đối với tất cả các khoa học xã hội phải đề
cập đến kinh tế có một tầm quan trọng không lường hết được. Bằng mọi giá, cần
phải có một điểm xuất phát khác một cách cơ bản cho việc phân tích nền kinh tế
của con người như là quá trình xã hội.
Trong nghiên cứu của chúng tôi về một điểm xuất phát mới, chúng tôi chuyển
từ định nghĩa kinh tế như là hành động tiết kiệm sang một định nghĩa thực chất,
cho dù định nghĩa sau này dường như không còn là thời thượng nữa. Không phải
chúng tôi không biết đến định nghĩa bình dân của từ “kinh tế” vốn kết hợp những
ý tiết kiệm và tính vật chất: chúng tôi chỉ đơn giản làm hiển lộ khả năng giới
hạn trong việc áp dụng sự kết hợp của nghĩa thông thường này. Trừ phi con người
có gì để ăn thì con người ấy buộc phải chết đói, dù người ấy có duy lí hay
không; nhưng sự an toàn, và ngay cả giáo dục, nghệ thuật và tôn giáo của con
người ấy cũng đòi hỏi những phương tiện vật chất như vũ khí, trường học và đền
thờ, bằng gỗ, đá hay thép. Đương nhiên điều này chưa bao giờ bị xem nhẹ. Lúc
này hay lúc khác, người ta đánh giá rằng “kinh tế” phải đặt cơ sở trên việc
thỏa mãn toàn bộ những nhu cầu của con người – một mặt nhu cầu vật chất, và mặt
khác, những phương tiện, vật chất hay không, để thỏa mãn các nhu cầu này.
Như các chuyên gia nhất trí thừa nhận, những nỗ lực để biện minh cho một
cách nhìn tự nhiên về kinh tế đều vô vọng. Lí do là đơn giản. Không có bất kì
khái niệm thuần túy tự nhiên nào về kinh tế có thể cạnh tranh, ngay cả một cách
xấp xỉ, với phân tích kinh tế trong việc giải thích những cơ chế qua đó con
người đảm bảo sự tồn tại của mình trong một hệ thống thị trường. Và do kinh tế
thường được xem như tương đương với hệ thống thị trường nên các toan tính ngây
thơ nhằm thay thế phân tích kinh tế bằng một sơ đồ tự nhiên, một cách chính
đáng đã bị mất tín nhiệm.
![]() |
Karl Bücher (1847-1930) |
Nhưng phải chăng đây là một luận chứng có tính quyết định để bác bỏ việc
sử dụng khái niệm kinh tế thực chất trong các khoa học xã hội? Tất nhiên là
không. Người ta quên rằng lí thuyết kinh tế hay phân tích kinh tế hay kinh tế
học thuần túy chỉ là một trong những
bộ môn quan tâm đến kinh tế, nghĩa là đến sự tồn tại của con người từ quan điểm
vật chất. Cụ thể, lí thuyết này không gì khác hơn là việc nghiên cứu những hiện
tượng thị trường. Ngoại trừ vài điểm chung chung, giá trị giải thích của nó đối
với những hệ thống khác hơn là hệ thống thị trường, ví dụ trong trường hợp của
một nền kinh tế kế hoạch hóa, là không đáng kể. Đâu là lợi ích của lí thuyết
kinh tế đối với nhà nhân học khi vấn đề, ví dụ, là tách kinh tế ra khỏi bối
cảnh chung của một xã hội trong đó hệ thống gia đình là thống trị? Khi không có
thị trường hay giá thị trường thì nhà kinh tế không giúp được người nghiên cứu
những nền kinh tế nguyên thủy; trong thực tế, nhà kinh tế còn gây lúng túng cho
nhà nghiên cứu. Còn trường hợp của nhà xã hội học đối mặt với vấn đề sự thay
đổi vị trí của nền kinh tế trong các xã hội được quan niệm như những thể thống
nhất. Trừ phi giới hạn vào những thời kì và vùng miền có tồn tại những thị
trường tạo ra giá cả thì kinh tế không cung cấp định hướng nào có giá trị cho
nhà xã hội học cả. Điều này càng tỏ ra đúng hơn nữa đối với sử gia kinh tế,
ngoại trừ thời kì ngắn vài thế kỉ khi những thị trường tạo ra giá cả, và do đó
tiền tệ, trở nên phổ biến. Thời tiền sử, cổ sử và trong thực tế - như Karl Bücher
là người đầu tiên tuyên bố - cả toàn bộ lịch sử, ngoại trừ vài thế kỉ qua, có
những nền kinh tế mà sự tổ chức khác với tất cả những gì nhà kinh tế giả định.
Và sự khác biệt, mà chúng ta bây giờ bắt đầu cảm nhận bằng suy luận, có thể
được tóm tắt bằng một khẳng định duy nhất: các nền kinh tế này không có những
thị trường tạo ra giá cả. Trong tất cả các bộ môn kinh tế, điểm quan tâm chung
được xác định bởi quá trình qua đó việc thỏa mãn các nhu cầu vật chất được đảm
bảo. Chỉ có thể định vị được quá trình này và xem xét tác động của nó bằng cách
dịch chuyển sự nhấn mạnh đến kiểu hành động duy lí sang cấu hình những chuyển
động của sản phẩm và con người cấu thành trong thực tế nền kinh tế.
![]() |
Karl Polanyi (1886-1964) |
![]() |
Conrad M. Arensberg (1910-1997) |
Trong các khoa học tự nhiên, dịch chuyển từ một khuôn khổ khái niệm này
sang một khuôn khổ khái niệm khác là một việc; làm được điều này trong các khoa
học xã hội là một điều khác. Cũng giống như khi phải xây dựng lại một căn nhà,
từ móng, tường, đến phần còn lại mà vẫn phải tiếp tục ở trong đó. Chúng ta phải
tự tháo gỡ ý niệm đã bắt rễ sâu theo đó kinh tế là một trường thực nghiệm mà
bao giờ con người cũng tất yếu ý thức được. Để dùng một ẩn dụ, các sự kiện kinh
tế ban đầu được lồng kết trong những tình thế vốn không có tính kinh tế, cũng
như các mục đích và phương tiện không chủ yếu có tính vật chất. Sự kết tinh hóa
khái niệm kinh tế là một vấn đề thời gian và lịch sử. Nhưng thời gian lẫn lịch
sử đã không cung cấp cho chúng ta những công cụ khái niệm để xâm nhập vào mê
cung những quan hệ xã hội trong đó kinh tế được lồng kết. Đây là nhiệm vụ của
điều ở đây chúng tôi sẽ gọi là phân tích thể chế.
Karl
Polanyi, Conrad M. Arensberg và Harry W. Pearson
Nguyễn Đôn Phước dịch
Nguồn: “The Place of Economies in Societies”, chương XII của Trade and Market in the Early Empires.
Economies in History and Theory, Glencoe, Ill. Free Press, 1957.
------
Bài có liên quan trên PTKT:
- Karl Polanyi:
nhà tiên tri về sự kết thúc của nền kinh tế tự do