![]() |
Jean Pisani-Ferry (1951-) |
Vì sao cử tri phớt lờ ý kiến của các chuyên gia?
Jean Pisani-Ferry
PARIS – Vào lúc các công dân Anh đi bỏ phiếu vào ngày 23 tháng 6 để quyết
định liệu đất nước họ có tiếp tục là thành viên trong Liên minh châu Âu (EU, European Union) hay không, thì không hề
thiếu các lời khuyên nghiêng về phía “ở lại EU”. Nhiều nhà lãnh đạo nước ngoài
và lãnh đạo tinh thần đã lên tiếng bày tỏ rõ ràng sự lo ngại về những hậu quả
của việc “rời bỏ EU”, và đại
đa số các nhà kinh tế đã cảnh báo việc rời bỏ EU sẽ dẫn đến những tác
hại đáng kể về mặt kinh tế.
Tuy nhiên, những lời cảnh báo trên đã bị bỏ qua. Một cuộc thăm dò ý kiến của công ti
nghiên cứu thị trường YouGov trước khi diễn ra cuộc trưng cầu ý dân cho biết lý do vì sao: các cử tri bỏ phiếu "rời bỏ EU" không tin bất cứ điều gì từ các nhà tư vấn. Họ không muốn các nhận định của họ phụ thuộc vào các
chính trị gia, học giả, nhà báo, tổ chức quốc tế, hay
viện chính sách. Là một trong những nhà lãnh đạo của chiến dịch "rời
bỏ EU", bộ trưởng Tư pháp Michael Gove, người đang tìm cách kế nghiệp vị
trí Thủ tướng của David Cameron, đã thẳng thừng khẳng
định: "người dân nước này đã
ngán đến tận cổ các chuyên gia."
![]() |
Michael Gove (1967-) |
![]() |
Marine Le Pen (1968-) |
Rất dễ coi thái độ này là thắng lợi của sự đam mê trước tính duy lý. Tuy
nhiên, khuôn mẫu đang diễn ra ở Anh là một điều quen thuộc kỳ lạ: ở Hoa Kỳ, các
cử tri thuộc đảng Cộng hòa bỏ qua ý kiến của các nhà bình luận và đề cử Donald
Trump làm ứng cử viên tổng thống của đảng họ; ở Pháp, Marine Le Pen, nhà lãnh
đạo của đảng cực hữu Mặt trận Quốc gia, người ít được các chuyên gia ủng hộ,
nhưng lại có được sự hỗ trợ rất mạnh mẽ từ phía công chúng bình dân. Ở khắp mọi
nơi, có một lượng đáng kể người dân đã trở nên thù địch với giới chuyên gia.
![]() |
Queen Elizabeth II (1926-) |
![]() |
Vì sao lại có thái độ tức giận này đối với những người đại diện cho tri thức và chuyên môn như vậy? Lời giải thích đầu tiên là có rất nhiều cử tri
đánh giá thấp ý kiến của những người đã thất bại trong việc cảnh báo họ về nguy cơ của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Trong một chuyến viếng thăm Trường Kinh tế London vào mùa thu năm 2008, Nữ
hoàng Elizabeth II đã nói thay cho nhiều người trong số họ, khi đặt câu hỏi vì
sao không có ai (không có nhà kinh tế nào – ND) dự báo được cuộc khủng hoảng
đó. Hơn nữa, sự ngờ vực đối với việc các nhà kinh tế, bị phim Inside Job (Cuộc khủng
hoảng kinh tế) vào năm 2010 thể hiện như là tù nhân của giới tài
chính, vẫn chưa được giải tỏa. Người dân cảm thấy tức giận về điều mà họ cho là
một sự phản bội của giới trí thức.
Hầu hết các nhà kinh tế, không kể đến các chuyên gia thuộc các ngành khoa
học khác, xem những cáo buộc như trên là điều không công bằng, bởi vì nếu có
một số rất ít các nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu kỹ lưỡng sự phát triển của
ngành tài chính; thì uy tín của họ nói chung đã bị sứt mẻ nghiêm trọng. Bởi vì
không có ai đứng ra nhận lãnh trách nhiệm cho những hậu quả thời hậu khủng
hoảng, lỗi này đã trở thành lỗi của tập thể.
Lời giải thích thứ hai liên quan đến các chính sách mà giới chuyên gia đã
ủng hộ. Các chuyên gia bị cáo buộc là có tiên kiến, không nhất thiết bởi vì họ
là đối tượng của những xung đột lợi ích đặc biệt, mà bởi vì, với tư cách là một
ngành nghề chuyên môn, họ ủng hộ người lao động được tự do di chuyển qua biên
giới các nước, mở cửa thương mại và toàn cầu hóa
nói chung.
Có một số cơ sở trong lập luận này: mặc dù không phải tất cả các nhà kinh
tế, và chắc chắn không phải tất cả các nhà khoa học xã hội, ủng hộ sự hội nhập
quốc tế, nhưng so với người dân thường, họ chắc chắn có xu hướng thiên nhiều
hơn về việc làm nổi bật lợi ích của những chính sách nói trên.
![]() |
David Cameron (1966-) |
Điều này dẫn đến lời giải thích thứ ba có sức thuyết phục nhất: trong khi
các chuyên gia nhấn mạnh đến lợi ích tổng thể của việc mở cửa thương mại, họ có
xu hướng bỏ qua hoặc làm giảm tác động của nó đến một số ngành nghề hoặc cộng
đồng cụ thể. Họ coi vấn đề nhập cư – điều mà Cameron đã quy cho chiến thắng của
chiến dịch "rời bỏ EU" – như là một lợi ích ròng cho nền kinh tế;
nhưng họ lại không chú ý đến những hệ lụy đối với người lao động, những người
trải nghiệm áp lực trong chiều giảm của tiền lương mình, hoặc đối với những
cộng đồng đang đấu tranh vì tình trạng khan hiếm nhà ở giá rẻ, trường học đông
đúc, và một hệ thống chăm sóc y tế quá tải. Nói cách khác, các chuyên gia có
tội vì sự thờ ơ của họ.
Lời phê phán này phần lớn là đúng. Như Ravi Kanbur thuộc trường Đại học
Cornell đã chỉ
ra, từ nhiều năm trước, rằng các nhà kinh tế (và các nhà hoạch định
chính sách) có xu hướng xem xét vấn đề từ một quan điểm tổng thể, từ một quan
điểm trung hạn, và cho rằng các thị trường vận hành đủ tốt để chịu đựng một
lượng lớn các cú sốc bất lợi. Quan điểm của họ xung đột với quan điểm của những
người quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề phân phối, có tầm nhìn khác (thường
mang tính ngắn hạn), và cảnh giác đối với các ứng xử mang tính độc quyền.
![]() |
Ravi Kanbur (1954-) |
Nếu các nhà kinh tế và các chuyên gia khác muốn lấy lại niềm tin của người
dân họ, thì họ không nên làm ngơ trước những quan ngại nói trên. Trước tiên, họ
nên khiêm tốn và tránh dạy đời. Họ nên đưa ra các quan điểm chính sách trên cơ
sở các bằng chứng sẵn có, hơn là trên các định kiến. Và họ nên học cách thay
đổi ý kiến nếu dữ liệu không chứng thực niềm tin của mình. Điều này tương ứng
phần lớn với điều mà các nhà nghiên cứu đang làm; nhưng khi nói chuyện trước
công chúng, các chuyên gia có xu hướng đơn giản hóa thái quá quan điểm của họ.
Đối với các nhà kinh tế, tính khiêm tốn cũng có nghĩa là lắng nghe ý kiến
của các đồng nghiệp từ các ngành khoa học khác. Về vấn đề nhập cư, họ nên lắng
nghe ý kiến của các nhà xã hội học, các nhà khoa học chính trị, hoặc các nhà
tâm lý học về những hệ quả có thể có của việc chung sống trong các cộng đồng đa
văn hóa.
Thứ hai, các chuyên gia nên nghiên cứu chi tiết hơn trong các cách tiếp
cận của mình. Họ nên đặc biệt xem xét tác động của các chính sách không chỉ
trên tổng GDP trong trung hạn, mà còn về tác động của các chính sách qua thời
gian, không gian, và giữa các tầng lớp xã hội. Quyết định về một chính sách có
thể mang tính tích cực trong tổng thể, nhưng lại gây hại nặng nề đối với một số
tập thể –như thường xảy ra đối với trường hợp của các biện pháp tự do hóa.
Thứ ba, các nhà kinh tế nên vượt ra ngoài giới hạn của sự quan sát (nói
chung là đúng), theo đó các hiệu ứng về phân phối lợi ích nói trên có thể được
giải quyết thông qua việc đánh thuế và trợ cấp, và tìm ra cách chính xác để
thực thi các chính sách này. Vâng, nếu quyết định về một chính sách tạo được
lợi ích cho tổng thể, thì trên nguyên tắc có thể đền bù cho những người bị thua thiệt. Nhưng nói thì dễ hơn làm.
Trong thực tế, thường rất khó để nhận diện những người bị thua thiệt và
tìm ra đúng công cụ để hỗ trợ cho họ. Sẽ là một sự lười biếng trí tuệ thuần túy
khi cho rằng có thể giải quyết được các vấn đề mà không xem xét đến cách thức
như thế nào và trong điều kiện nào. Nói với những người bị tổn hại rằng họ có
thể tránh được cơn đau không giúp họ không oán trách; nó chỉ khích động thêm sự
oán giận đối với các chuyên gia và các nhà kỹ trị.
Do sự mất lòng tin ngày càng tăng của công chúng đối với giới chuyên gia
sẽ là môi trường tốt cho những kẻ mị dân nên điều này đặt ra một mối đe dọa đối
với nền dân chủ. Các học giả và nhà hoạch định chính sách có thể bị cám dỗ đáp
trả bằng cách gạt bỏ điều trông giống như một thắng lợi của sự thiếu hiểu biết
và rút lui vào tháp ngà. Nhưng điều này không giúp cải thiện được vấn đề. Và
cũng không cần thiết phải đầu hàng. Điều cần thiết là nhiều trung thực hơn,
khiêm tốn hơn, phân tích chi tiết hơn, và đưa ra các giải pháp tinh tế hơn.
Jean Pisani-Ferry là giáo sư tại trường quản trị Hertie School of
Governance ở Berlin, và hiện là Tổng ủy viên của tổ chức France Stratégie, một
định chế tư vấn về chính sách ở Paris.
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
----
Bài có liên quan: