Trang

Kinh tế gia cười

Kinh tế - Xã hội - Môi trường

9.5.24

“Mặt trái của các từ ngữ”: surcyclage

“MẶT TRÁI CỦA CÁC TỪ NGỮ”: SURCYCLAGE[*]

Tác giả: Marion Négrier

Nghiên cứu sinh tiến sĩ về hóa học vật liệu, Trường Mines - Paris

Hoạt động tái chế bình thường chỉ nhắm đến việc chế biến một vật dụng đã qua sử dụng trở lại nguyên trạng của nó. Shutterstock

Hoạt động tái chế bình thường chỉ nhắm đến việc chế biến một vật dụng đã qua sử dụng trở lại nguyên trạng của nó và vậy là nó sẽ giữ lại công dụng và tính thẩm mỹ như cũ. Đó là điều đã diễn ra đối với các chai nhựa. Còn tái chế tốt (surcyclage) giúp nâng cao giá trị một vật dụng thành một vật thể mới có chất lượng tốt hơn – các vật liệu phế thải của ngành dệt được chế biến thành những sản phẩm thời trang. Ngược lại, chế biến kém (sous-cyclage tiếng Anh là downcycling – ND) thiên về chế biến thành một vật dụng mới có giá trị thấp hơn, ví dụ trường hợp các sách cũ được chế biến thành các thùng các tông.

Theo tự điển Larousse, thuật ngữ surcyclage rất ít được dùng trong tiếng Pháp, mà thiên về dùng từ dịch tiếng Anh “upcycling” hay chính xác là “tái chế cao hơn” (recyclage par le haut) cũng được gọi là “suprarecyclage” trong tiếng Pháp vùng Québec. Upcycling là một dạng tái chế với mục tiêu mang đến một đời sống thứ hai cho những vật liệu hay hay vật dụng phế thải bằng cách biến đổi chúng thành những sản phẩm có giá trị tăng thêm, mang tính thẩm mỹ và/hay có ích, thường là khác với mục đích sử dụng ban đầu của chúng.

8.5.24

Sự hy sinh của binh lính trong ký ức của Pháp về Điện Biên Phủ

SỰ HY SINH CỦA BINH LÍNH TRONG KÝ ỨC CỦA PHÁP VỀ ĐIỆN BIÊN PHỦ

Tác giả: Christopher Goscha

Giáo sư, Đại học Québec à Montréal (UQAM)

Sau khi căn cứ chiến hào Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7 tháng 5 năm 1954, Pierre Brisson, giám đốc nhật báo Le Figaro đã phát hành ở trang nhất một bài xã luận trong đó ông cho rằng sự thất bại lịch sử này của quân đội Pháp là một “sự hy sinh” anh hùng.

Chính là với một “niềm xúc động không thể diễn tả được” mà ông đã chọn các ngôn từ của mình – “dũng cảm”, “giá trị”, “nhiệt tình”, “tinh thần tình nguyện anh em” – để tôn vinh những người lính đã bị bỏ rơi cho số phận của họ trong suốt 55 ngày chiến đấu chống lại các đội quân “cuồng nhiệt” của Hồ Chí Minh (trận chiến kết thúc với cái chết của 20.000 chiến sĩ Việt Minh và 2.000 lính của Liên Hiệp Pháp). Khi trích dẫn Rudyard Kipling xót thương cho cái chết của con trai ông trong cuộc thảm sát của Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (“Nếu ai đó muốn biết tại sao chúng tôi chết/Hãy nói với họ: vì những ngững người cha của chúng tôi đã nói láo”), Brisson giải thích, với một giọng điệu giận dữ, rằng những gì vừa xảy ra ở Đông Dương là kết quả của “những điều dối trá” của những người lãnh đạo đã không biết cách làm cho cuộc chiến này diễn ra như nó phải là.

Còn thủ phạm khác đối với Brisson là ai? Những người cộng sản. Tất nhiên là Nga Xô Viết, - mặc dù vai trò của họ rất nhỏ, phe Việt Minh chủ yếu được Trung Quốc của Mao trợ giúp -, nhưng còn tệ hơn, là kẻ thù bên trong: Đảng Cộng sản Pháp.

Trong vòng vài đoạn văn, Brisson đã phóng ra những nền tảng của một tầm nhìn anh dũng vốn tồn tại mãi cho đến ngày hôm nay: đó là tầm nhìn về danh dự của người chiến sĩ hy sinh trong địa ngục Điện Biên Phủ. Điều mà ta ít biết hơn, là làm thế nào mà hai người đàn ông khác, nhà văn Jean Lartéguy và nhà quay phim Pierre Schoendoerffer đã nắm lấy chủ đề này để ấn sâu vào lòng ký ức của Pháp về chiến tranh Đông Dương. Trước thềm kỷ niệm lần thứ 70 kết thúc cuộc chiến hào hùng này, chúng ta hãy nêu ra cách mà hai người này đã biến hóa bi kịch thất bại để thắng được cuộc chiến cho ký ức.

7.5.24

THƯ NGỎ của IADL gửi Tòa phúc thẩm Paris

Hội Luật gia Dân chủ Quốc tế

OPEN LETTER TO

THE PARIS COURT OF APPEAL

The International Association of Democratic Lawyers (IADL), a worldwideNGO of progressive law professionals with consultative s tatus at ECOSOC in the UN, has, for many years, been working to support the Vietnamese victims ofthe Agent Orange that the US Army sprayed in Vietnam during the wartime. In 2004 the IADL instituted a lawsuit in the US Courts seeking compensation for the victims. In 2009 IADL organized an International Peoples’ Tribunal of Conscience to investigate and determine liability of the United States Government and the Chemical Companies, which manufactured Agent Orange to be used in Vietnam War.

The IADL is of the view that the United States Government had engaged in an illegal war of aggression against Vietnam and was therefore liable to the people for the results of that war and that chemical companies were jointly liable for manufacturing chemicals, most specifically the Agent Orange, which is known to contain high levels of dioxin, one of the most toxic substances known to man. There are currently many children and grandchildren of those exposed who arebeing born with Agent Orange related birth defects and illnesses.

IADL appreciates the tireless efforst of Ms. Tran To Nga, one of the victims of the Agent Orange, in bringing the lawsuit to the Court against the US chemical companies that produced and supplied Agent Orange to be used in Vietnam War. This lawsuit brings justice to not only Ms. Nga, whose first child died of heart defects and second child suffers from a blood diseace, but also to all victims of this dangerous chemical substance in Vietnam and in the world. And it’s not only for the current generation, but also for future generations and for a world of peace and justice!

IADL is not satisfied with the Evry Court Decision made on 10 May 2021 saying it did not have jurisdiction to hear the case on the ground that the companies were acting “on the orders” of the U.S. government, which was engaged in a “sovereign act”. IADL considers this ruling untenable, because the US chemical companies were not forced by the U.S. Government but voluntarily joined the bidding and produced the poison, therefore they should be responsible for their production and the court should have the jurisdiction to hear it.

IADL believes that Evry Court did not consider the fact that the production of the toxic chemicals for the US military in the Vietnam war was not compulsory for the chemical companies, but they were free to participate in tenders to produce toxic chemicals for profit. The Court also did not consider the fact that the chemical companies had known that dioxin was a highly toxic substance, but still intentionally changed the technical process of synthesizing the two herbicides 2.4-D and 2.4.5-T to shorten the production time of Agent Orange to reduce costs and increase profits while increasing the dioxin content already present in substance 2.4.5-T.

Knowing that upon Ms. Tran To Nga’s appeal, on May 7, 2024 the Paris Courtof Appeals will open a hearing to decide the rightfulness of the Evry Court Decision, IADL strongly calls the Paris Court of Appeals to reject the unreasonable decision of the Evry Crown Court. We request that the Paris Court of Appeal review this decision carefully and consider all relevant factorsthoroughly to issue a fair ruling so that victims of Agent Orange can have a fair compensation for the miserable injuries they have been suffering. This well-deserved justice is long overdue and IADL will be side by side with the victims until they are duly compensated.

IADL also calls for all other outrages of international humanitarian law against innocent civilians be stopped immediately.

* * *

bản dịch

Thư ngỏ gửi

Tòa án Phúc thẩm Paris

Hội Luật gia Dân chủ Quốc tế (IADL), một tổ chức phi chính phủ toàn cầu gồm các chuyên gia luật tiến bộ có tư cách tư vấn tại ECOSOC ở Liên Hợp Quốc, trong nhiều năm đã hoạt động để hỗ trợ những người Việt Nam nạn nhân của chất độc da cam mà Quân đội Hoa Kỳ rải ở Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Năm 2004, IADL khởi kiện lên Tòa án Hoa Kỳ để yêu cầu bồi thường cho các nạn nhân. Năm 2009 IADL đã tổ chức Tòa án Lương tâm Nhân dân Quốc tế để điều tra và xác định trách nhiệm pháp lý của Chính phủ Hoa Kỳ và các Công ty hóa chất sản xuất chất độc da cam sử dụng trong chiến tranh Việt Nam.

5.5.24

GUERNICA Chiến tranh và Hoà bình

GUERNICA

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

hay bài học chúng ta không bao giờ thuộc?

Phạm Thị Điệp Giang

Cả thế giới mến chuộng nghệ thuật tới Madrid chỉ vì hai tác phẩm: Khu vườn của những lạc thú trần gian của Bosch (thế kỷ 15) tại Bảo tàng Prado – bức tranh được coi là “mở mắt” cho thế giới phương Tây về những tự vấn đạo đức mà bất kỳ ai có học đều cần biết; và Guernica (còn gọi là Chiến tranh và Hoà bình) của Picasso (1937) tại Bảo tàng Reina Sofia.

Không có một thời điểm nào tốt hơn để ngắm Guernica vào thời điểm này – những ngày giữa tháng 4 và tháng 5 – ở thời điểm 87 năm trước về biến cố chính trị và cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha mà đỉnh điểm là cuộc ném bom của Phát xít Đức và Ý (theo đề nghị của nhóm theo chủ nghĩa dân tộc Tây Ban Nha) vào ngôi làng Guernica – nơi được coi là trung tâm văn hoá của xứ Basque vào ngày 26/4/1937 – và cũng là thời điểm kết thúc cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam vào 30/4/1975 mà sự liên quan tới bức tranh tôi sẽ chia sẻ phía dưới.

Bức tranh màu xám, đen và trắng, trên canvas cao 3,49 mét (11 ft 5 in) và ngang 7,76 mét (25 ft 6 in), khắc họa nỗi đau khổ do bạo lực và hỗn loạn gây ra. Nổi bật trong bố cục là một con ngựa bị húc, một con bò đực, những người phụ nữ đang la hét, một đứa bé chết, một người lính bị chặt chân tay và những ngọn lửa. Vào tháng 1/1937, khi Pablo Picasso đang sống ở Paris trên đường Rue des Grands Augustins, ông được chính phủ Cộng hòa Tây Ban Nha ủy nhiệm tạo ra một bức tranh tường lớn cho gian hàng Tây Ban Nha tại Hội chợ Thế giới Paris năm 1937. Từ tháng 1 đến cuối tháng 4 Picasso làm trên những bản phác thảo ban đầu của dự án, mô tả chủ đề lâu năm của ông về xưởng vẽ của một nghệ sĩ. Sau đó, ngay khi nghe về vụ đánh bom Guernica ngày 26/4/1937, nhà thơ Juan Larrea đã đến thăm nhà Picasso để thúc giục ông coi vụ đánh bom là chủ đề của mình. Vài ngày sau, vào ngày 1/5, Picasso đọc lời kể của nhân chứng George Steer về vụ tấn công, vốn đã được đăng trên cả The TimesThe New York Times vào ngày 28/4, và từ bỏ ý tưởng ban đầu của mình. Thực hiện theo gợi ý của Larrea, Picasso bắt đầu phác thảo một loạt bản vẽ sơ bộ cho Guernica. Picasso làm việc với bức tranh này trong 35 ngày và hoàn thành vào ngày 4/6/1937. Cho dù có rất nhiều phân tích và lý giải về các biểu tượng trong bức tranh, nhưng Picasso chỉ nói rằng “... con bò đực này là một con bò đực và con ngựa này là một con ngựa... Nếu bạn gán một ý nghĩa cho những điều nhất định trong tranh của tôi thì điều đó có thể rất đúng, nhưng tôi không có ý tưởng đưa ra ý nghĩa này. Tôi cũng đã thu được những ý tưởng và kết luận nào, nhưng theo bản năng, một cách vô thức. Tôi vẽ tranh cho bức tranh. Tôi vẽ các đồ vật đúng như bản chất của chúng.” Picasso sống ở Paris trong thời kỳ Đức chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai. Một câu chuyện được kể lại rộng rãi là một sĩ quan Đức nhìn thấy bức ảnh của Guernica trong căn hộ của Picasso và hỏi: “Vậy là anh đã vẽ bức tranh này?”, và Picasso trả lời: “Không, anh đã làm vậy.”

3.5.24

Thời đại Khai Sáng – Bài học nào có ích cho chúng ta?

THỜI ĐẠI KHAI SÁNG – BÀI HỌC NÀO CÓ ÍCH CHO CHÚNG TA?

Tác giả: Tôn Thất Thông

Thế giới cần được cai trị bởi lý trí và phẩm hạnh để con người có thể sống tự do và hạnh phúc. Giấc mơ này không có gì mới, nhưng hình thái mà trào lưu khai sáng tự diễn đạt và phong thái dấn thân mà nó xuất hiện đã làm cho thời đại khai sáng vượt hẳn lên trên mọi kỷ nguyên khác. Thuật ngữ khai sáng tự nó đã là thước đo của tính hiện đại.[1]

Werner Schneiders, giáo sư triết đại học Münster  

* * *

Bên cạnh khái niệm khá phổ biến là thời đại khai sáng, còn có nhiều tên gọi khác để chỉ giai đoạn đặc thù của hai thế kỷ 17 và 18. Có thể gọi đó là thế kỷ ánh sáng, là thời đại khai minh, thời đại lý tính, thời đại giác ngộ hoặc thời đại phê phán. Có nhiều lý do sinh ra sự thiếu thống nhất về một khái niệm chung. Nhiều người xem tư tưởng của thời đại đó là lời giải vạn năng để phát triển mọi xã hội, trong mọi thời kỳ. Người khác, nhất là các triết gia thuộc trường phái phê phán của thế kỷ 20, tìm thấy trong tư tưởng khai sáng những hệ lụy chưa có lời giải cho xã hội hiện đại.

Thậm chí người khai sinh chủ nghĩa bảo thủ đương thời, Edmund Burke (1729-1797) cũng là người chống cách mạng Pháp, gọi một số nhà khai sáng là những người duy lý chưa chín chắn, thiếu nguyên tắc mà những lời khách sáo mơ hồ và thiếu trách nhiệm về tự do, ý chí cộng đồng và quyền công dân không có mục đích nào khác là lật đổ chế độ cũ, để chỉ thay thế bằng tình trạng vô chính phủ và một chế độ chuyên chế[2].

Tất cả đều không sai, tùy cách nhìn từ thế đứng nào. Nhưng dù nhận định có khác nhau, cũng không ai phủ nhận rằng, thế giới hiện đại phương Tây được khởi đầu bằng thời đại khai sáng ở châu Âu, thời đại phát triển rực rỡ nhất của lịch sử văn minh phương Tây. Dù trào lưu này đã để lại nhiều hệ lụy khó giải quyết cho đến ngày nay, nhưng những thành quả về kinh tế, văn hóa, giáo dục, thể chế chính trị của hàng chục quốc gia phát triển hiện nay không tách rời khỏi các luồng tư tưởng chủ đạo của trào lưu khai sáng.

1.5.24

Trung Quốc: Những người theo chủ nghĩa dân tộc hung hãn trên các trang mạng xã hội, một không khí Cách mạng Văn hóa

TRUNG QUỐC: NHỮNG NGƯỜI THEO CHỦ NGHĨA DÂN TỘC HUNG HÃN TRÊN CÁC TRANG MẠNG XÃ HỘI, MỘT KHÔNG KHÍ CÁCH MẠNG VĂN HÓA

Pierre-Antoine Donnet

Nhà văn Trung Quốc Mặc Ngôn (Mo Yan) và là người nhận giải Nobel văn học trở thành mục tiêu của những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc trên các trang mạng xã hội. (Nguồn: Killeen Daily)

Dưới sự cai trị của Tập Cận Bình, Trung Quốc đang dần dần khép kín với thế giới bên ngoài. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng sâu sắc, xã hội đặt ra nghi ngờ về tương lai của đất nước. Đến mức nhiều nhà quan sát đang tự hỏi: liệu người ta có đang chứng kiến sự xuất hiện một Cách mạng Văn hóa mới để phản ứng lại tất cả những điều nói trên?

Được thúc đẩy bởi chủ nghĩa dân tộc ngày càng gay gắt hơn bao giờ hết, các trang mạng xã hội Trung Quốc đang bùng cháy. Họ cáo buộc tùm lum các nghệ sĩ, nhà văn và doanh nhân là những kẻphản quốc”. Một sự trượt dài đang bắt đầu khiến ngay cả bộ máy Đảng Cộng sản phải lo lắng. Thật vậy, mặc dù được kiểm soát chặt chẽ bởi hàng ngàn người kiểm duyệt hăng máu và phục tùng giới cầm quyền, các trang mạng xã hội này đang tăng gấp đôi sự cường điệu về chủ nghĩa dân tộc, với bối cảnh là sự tự tôn lòng yêu nước được chế độ mong muốn và duy trì một cách cẩn thận.

Gần đây, làn sóng tấn công đã nhắm vào Đại học Thanh Hoa danh tiếng ở Bắc Kinh, bị cáo buộc tội phản quốc với lý do trường này không nằm trong danh sách các mục tiêu trừng phạt của Mỹ. Nhiều cộng đồng mạng Internet khác đã bắt đầu nhắm đến phong cách ăn mặc “quá Nhật Bản” của cựu vận động viên thể dục Lý Ninh (李宁), 61 tuổi, người đã đoạt sáu huy chương ở [Thế vận hội mùa hè] Los Angeles vào năm 1984.

Tất cả đều diễn ra trên mạng [Toile] trong cuộc tranh cãi mang âm hưởng Cách mạng Văn hóa. Ví dụ với thương hiệu thức uống nổi tiếng Nông Phu Sơn Tuyền (农夫山泉), công ty nước đóng chai lớn nhất được thành lập vào năm 1996. Nhà sáng lập công ty, Chung Thiểm Thiểm (睒睒), 70 tuổi, đã trở thành doanh nhân giàu nhất Trung Quốc, với khối tài sản ước tính khoảng 60 tỷ USD. Con trai ông là Chung Thực Tử ( 塾子), người có hộ chiếu Mỹ đã bị tố “không đủ tư cách là người Trung Quốc”.

30.4.24

Cho con tới Brooklyn

CHO CON TỚI BROOKLYN

Nguyễn Hồng Sơn

LTS – Tối thứ sáu 26.4.2024, tại Foyer Vietnam (Paris), gần một trăm bạn bè Pháp và Việt Nam, có người tới từ tỉnh xa, đã dự bữa ăn ủng hộ vụ Trần Tố Nga kiện Monsanto và những công ti hóa chất sản xuất Chất Da Cam – Dioxin. Tham gia cuộc gặp này, còn có phái đoàn của hội VAVA (Hội nạn nhân Chất Da Cam ở Việt Nam), dẫn đầu là bác sĩ quân y, thiếu tướng Nguyễn Hồng Sơn, phó chủ tịch VAVA. Phái đoàn sang Pháp để ủng hộ bà Trần Tố Nga vào dịp Tòa án phúc thẩm Paris sẽ xét xử vào ngày 7.5.2024 tới đây.

Bác sĩ Nguyễn Hồng Sơn còn là một nhạc sĩ nghiệp dư. Cách đây gần 20 năm, khi tòa án Brooklyn (Mỹ) bác bỏ vụ kiện của các nạn nhân Việt Nam, ông đã mượn lời một em bé nói lên nỗi lòng của mấy triệu nạn nhân Chất Da Cam ở Việt Nam – và rộng hơn nữa, ở Mỹ và nhiều nước khác. Lời kêu gọi “xuống đường” và cất tiếng hỏi “vì sao” của em bé trong bài ca đã gặp sự đồng thanh tương ứng ở bên kia bờ Thái Bình Dương: điển hình là cuộc chiến đấu của bà Carol Van Strum (xem bài Hai người phụ nữ, một cuộc gặp, Diễn Đàn 12.4.24). Chắc chắn nó sẽ được cộng hưởng tại Quảng trường La République Paris 15g chiều thứ bảy 4-5-2024, cũng như tại Tòa án Paris sáng ngày 7.5.2024.

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc tác phẩm của Nguyễn Hồng Sơn:

Hai người phụ nữ, một cuộc gặp

HAI NGƯỜI PHỤ NỮ, MỘT CUỘC GẶP

Tác giả: Lam Ngọc

Tại Pháp, có một người phụ nữ người Pháp gốc Việt đã ngoài 80, trong hơn 10 năm qua, đã chấp nhận sống đơn độc, xa gia đình, xa con và cháu để theo đuổi vụ kiện chống lại các tập đoàn hóa chất Mỹ đã sản xuất chất khai quang trong đó có chứa nồng độ dioxine rất cao trong chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Tuổi cao, bệnh nhiều, đã nhiễm chất khai quang trong chiến tranh Việt Nam, bà Trần Tố Nga hội đủ ba điều kiện để kiện: công dân Pháp đang sống trên đất Pháp có bộ luật cho phép luật sư Pháp thực hiện các vụ kiện quốc tế đồng thời là nạn nhân da cam đã có xác nhận của một phòng thí nghiệm.

Đây là vụ kiện duy nhất trong lịch sử về thảm họa da cam không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Philippines, Australia, New Zealand, là những nước đã từng cử các công dân của mình tham gia chiến tranh Việt Nam.

19 công ty hóa dầu Mỹ, đứng đầu là Monsanto, Dow Chemical đã chấp nhận hầu tòa đại hình Evry với 19 phiên tòa phúc thẩm và một phiên tranh tụng mà kết quả là Tòa đại hình Evry tuyên bố “không có quyền thụ lý đơn kiện của bà Trần Tố Nga” dù đã trải qua hơn sáu năm thụ lý từ 2015 đến 2021.

Ngày 7 tháng 5 năm 2024, không mệt mỏi, bà Trần Tố Nga sẽ tiếp tục cuộc chiến đấu của mình tại phiên xử phúc thẩm của tòa án phúc thẩm Paris.

Tại Mỹ, bang Oregon, có một người phụ nữ tên Carol Van Strum.

29.4.24

Hãy hát cùng nhau

HÃY HÁT CÙNG NHAU

Xã hội học karaoke

Christophe Gaudin[*]

Ở Phương Tây, người ta một mình liều lĩnh nhập cuộc với micro trước đám khán giả người lạ. Ở Châu Á, người ta hát cùng nhau, với bạn bè hoặc đồng nghiệp, để tạo ra một nơi náu mình, một bong bóng giữa chúng ta với nhau. Mỗi xã hội đều có van riêng của mình để xả hơi!

-------------------------------------------------------

“Karaoké” là một từ ghép rút gọn, sự kết hợp của karappo, 空っぽ, có nghĩa là trống rỗng và dàn nhạc/orchestra, được phát âm trong tiếng Nhật. Một phép ẩn dụ trong suốt để gợi ý rằng một ca sĩ xuất hiện trên sân khấu mà không cần có nhạc sĩ đi cùng. Nhưng phép ẩn dụ này cũng gây hiểu lầm và đó là lý do khiến nó mang lại nhiều thông tin.

Một sự chuyển dịch nhỏ xảy ra khi chúng ta chuyển dịch từ karaoké sang các ngôn ngữ Phương Tây, một sự chuyển dịch cũng bộc lộ rất rõ cách thức mà khái niệm này được xuất khẩu sang Phương Tây. Không quá đáng khi nói rằng những gì bị bỏ sót trong cách dịch cụm từ “dàn nhạc trống rỗng” theo từng chữ lại chính là điều khiến karaoké trở nên phổ biến ở các xã hội Đông Á.

27.4.24

Đọc sách Dặm đường tôi đi của Võ Quang Huệ

Giới thiệu sách mới

Võ Quang Huệ

DẶM ĐƯỜNG TÔI ĐI[*]

Hành trình từ BMW, BOSCH đến VINFAST

Cuốn sách đã được giới thiệu tại đường sách TP HCM và tại không ít trường đại học cũng như trên nhiều báo, đài (Thời báo Kinh tế SG, Đầu tư, Nhân Dân, Đài Truyền hình Quốc hội...), và tác giả được NXB cho biết hai lần in đầu (mỗi lần 2000 cuốn) đã bán hết, đang chuẩn bị in lần 3... Nhưng người viết bài này vẫn ngậm ngùi với con số mấy ngàn bản ấy đối với một cuốn sách lẽ ra ngay lần đầu phải được in ra vài chục ngàn nếu không muốn nói hàng trăm ngàn bản và mau chóng bán hết trong đất nước 100 triệu dân rất đang cần loại sách hữu ích và hấp dẫn này. 

Tôi đã có dịp biết anh Huệ từ thời anh hoạt động trong phong trào sinh viên phản chiến tại Đức, và vào khoảng năm 2000 nhân một chuyến đi chơi Ai Cập vợ chồng tôi đã được anh lấy một ngày nghỉ (lúc đó anh làm Tổng đại diện hãng xe BMW tại Cairo) đưa đi thăm thành phố và mấy Kim tự tháp gần đó. Nhưng phải đọc sách tôi mới biết nhiều công việc anh làm cho BMW ở nhiều nước và nhiều cương vị, trong đó có giai đoạn làm ở Việt Nam (đề án lắp ráp xe BMW liên doanh với công ty VMC), và nhất là những công việc anh làm với Bosch - tập đoàn sản xuất linh kiện ô tô hàng đầu thế giới (từ 2007 đến 2017, với cương vị Tổng giám đốc Bosch Việt Nam), rồi chuẩn bị về hưu thì được Vingroup mời làm Phó Tổng giám đốc để xây dựng đề án làm ô tô Vinfast (trong 22 tháng trời, từ lúc ông Phạm Nhật Vượng mời anh đến để nói về ý tưởng làm xe tới lúc những chiếc xe Vinfast đầu tiên ra lò). Như tiểu đề của sách cho biết, “Hành trình từ BMW, Bosch đến Vinfast” của tác giả là chủ đề chính của sách, với nhiều câu chuyện lý thú thuật lại quá trình làm việc đó và những kinh nghiệm của anh, một người kỹ sư được đào tạo bài bản và đạt những thành quả đáng kể trong suốt đời hoạt động của mình. Nội dung của nhiều bài học anh rút ra chính là phần hữu ích mà, theo thiển ý, bạn đọc có thể và cần suy ngẫm cho chính mình, dù bạn là một sinh viên mới ra trường, một kỹ sư đứng đầu một ê-kíp trong sản xuất hay điều hành cả một nhà máy, một nhà quản lý cần thương lượng với đối tác trong kinh doanh...

25.4.24

SAINT-SIMON Claude-Henri de, 1760-1825

SAINT-SIMON Claude Henri de, 1760-1726

Sự nghiệp của Saint-Simon diễn ra vào một thời kì quan trọng trong lịch sử ra đời của xã hội học. Xuất thân từ một gia đình quý tộc nhưng bị tước mất tài sản, ông tích cực tham gia vào các cuộc xung đột lớn của thời đại ông: chiến tranh giành độc lập của Hoa Kì khi ông chiến đấu với tư cách sĩ quan từ năm 1777 đến năm 1783 và cuộc cách mạng 1789 mà ông đã tham gia trước khi bị nghi làm giàu bất chính và phải vào tù. Ngay cả trước khi Đế chế Pháp sụp đổ, ông đã quyết định chỉ tập trung vào các công trình khoa học với sự hỗ trợ của hai thư kí, lần lượt là A. Thierry và A. Comte.

Từ công trình đầu tiên công bố năm 1802, ông thiết lập dự án áp dụng cho các sự kiện của con người, “những hiện tượng gọi là đạo đức”, các phương pháp của các khoa học vật lí. Trước tiên, ông chờ đợi từ vật lí chất lỏng những mô hình tư duy cần thiết cho sự hình thành của “Khoa học về Con người”, rồi quay sang sinh học và có tham vọng phân tích những quan hệ xã hội bằng những khái niệm của “sinh lí học”. Con đường vòng qua các khoa học tự nhiên cho phép ông đoạn tuyệt với những giải thích thần học, “có tính ước đoán” và với triết học. Như ông thường lặp lại, mọi tri thức phải “đi từ ước đoán đến thực chứng”.

24.4.24

Mỹ châm thêm lửa ở Trung Đông

MỸ CHÂM THÊM LỬA Ở TRUNG ĐÔNG

Tác giả: Stephen M. Walt (Foreign Policy)

Người dịch: Nguyễn Phú Lộc

Israel đang ngày càng gặp nguy hiểm nhưng trách nhiệm nằm ở Washington nhiều hơn là ở Tehran.

Quyết định của Iran trả đũa cuộc tấn công của Israel vào lãnh sự quán của họ ở Damascus, bằng cách tiến hành các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái và tên lửa cho thấy chính quyền Biden đã xử lý sai vấn đề ở Trung Đông như thế nào. Sau khi tự thuyết phục mình vào đêm trước cuộc tấn công của Hamas vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023 rằng, khu vực này “yên tĩnh hơn so với nhiều thập kỷ trước”, các quan chức Hoa Kỳ kể từ đó đã phản ứng theo những cách khiến tình hình đã tồi tệ càng trở nên tồi tệ hơn. Điều tốt nhất mà người ta có thể nói để bào chữa cho họ là họ có rất nhiều bạn đồng tình: Các chính quyền Trump, Obama, Bush và Clinton vốn cũng đã tạo ra nhiều thứ tương tự.

Phản ứng của chính quyền trước cuộc tấn công tàn bạo của Hamas vào ngày 7 tháng 10 có ba mục tiêu chính. Đầu tiên, họ đã tìm cách truyền đạt sự ủng hộ kiên định dành cho Israel: ủng hộ Israel bằng các tuyên bố, thường xuyên trao đổi với các quan chức hàng đầu của Israel, bảo vệ Israel trước các cáo buộc diệt chủng, phủ quyết các nghị quyết ngừng bắn tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và cung cấp cho nước này nguồn cung ứng vũ khí ổn định, những vũ khí sát thương. Thứ hai, Washington đã cố gắng ngăn chặn xung đột ở Gaza leo thang. Cuối cùng, họ đã cố gắng thuyết phục Israel hành động kiềm chế, vừa để hạn chế gây tổn hại cho dân thường Palestine vừa để giảm thiểu thiệt hại cho hình ảnh và danh tiếng của Hoa Kỳ.

23.4.24

Tác động kinh tế và xã hội của trí tuệ nhân tạo, một cuộc đàm thoại với Martin Tisné, Ann Bradford, Anne Bouverot, Marc Faddoul và Brando Gabriel Ramos

TÁC ĐỘNG KINH TẾ VÀ XÃ HỘI CỦA TRÍ TUỆ NHÂN TẠO, MỘT CUỘC ĐÀM THOẠI VỚI MARTIN TISNÉ, ANU BRADFORD, ANNE BOUVEROT, GABRIELA RAMOS, MARC FADDOUL VÀ BRANDO BENIFEI

ChatGPT mới xuất hiện gần một năm nay. Từ đó, trí tuệ nhân tạo đã trở thành một chủ đề bàn luận toàn cầu. Giữa những vấn đề địa chính trị mà cuộc cách mạng công nghệ này là nguồn gốc và những xáo trộn mà ChatGPT gây ra trong các xã hội Phương Bắc và Phương Nam, trí tuệ nhân tạo làm lung lay mọi điều mà ta đã tin chắc. Liệu chúng ta còn có thể tác động đến tương lai mà trí tuệ nhân tạo dành cho chúng ta? Đó là toàn bộ nội dung của cuộc thảo luận phong phú với sáu người tham gia đã diễn ra trong buổi họp thượng đỉnh năm 2023 của Grand Continent.

Các tác giả: Anu Bradford, Gabriela Ramos, Anne Bouverot, Brando Benifei, Marc Faddoul, Martin Tisné

Cuộc đàm thoại này được ghi lại từ bàn tròn “Tác động kinh tế và xã hội của trí tuệ nhân tạo” do Martin Tisné điều hành, đã qui tụ Anu Bradford, Anne Bouverot, Gabriela Ramos, Marc Faddoul và Brando Benifei trong lần xuất bản đầu tiên Hội nghị thượng đỉnh của Grand Continent diễn ra tại Vallée d’Aoste, từ 18 đến 20 tháng 12 năm 2023. Chúng tôi công bố kỷ yếu hội nghị và các video của các phiên toàn thể.

21.4.24

Xây dựng một mô hình trung tâm-ngoại vi trong khoa học xã hội

XÂY DỰNG MỘT MÔ HÌNH TRUNG TÂM-NGOẠI VI TRONG KHOA HỌC XÃ HỘI

Các khía cạnh đặt vấn đề trong quan hệ quốc tế trong khoa học xã hội

Wiebke Keim[*]

Mục đích của bài này là phân tích những bất bình đẳng và thứ bậc toàn cầu trong quá trình sản xuất và phổ biến kiến ​​thức xã hội học trong viễn cảnh Nam-Bắc. Bài đề xuất một mô hình trung tâm-ngoại vi để nắm bắt những bất bình đẳng này. Việc giải thích sự phân phối không đồng đều trước hết phải có tính lịch sử: các khoa học xã hội hiện đại xuất hiện trước tiên ở Châu Âu. Nguồn gốc ngoại sinh của các khoa học xã hội ở các quốc gia Phương Nam ngày nay vẫn đặt ra những vấn đề ở nhiều cấp độ. Về mặt phân tích, sự khái niệm hóa mô hình trung tâm-ngoại vi cho phép phân biệt ba chiều kích: chiều kích về cơ sở hạ tầng và tổ chức nội bộ được xác định mạnh mẽ bởi các yếu tố ngoại khoa học, trong khi chiều kích về các điều kiện tồn tại và tái sản xuất cũng như về vị trí và sự công nhận quốc tế trước hết gắn với các vấn đề nội khoa học. Một số chỉ báo thực nghiệm về chiều kích cuối cùng này được trình bày ở đây. Nếu việc thiết lập một mô hình trung tâm-ngoại vi để nắm bắt các cấu trúc quốc tế trong xã hội học có vẻ thích đáng, càng quan trọng hơn nữa là cần phải kết thúc bằng một giọng điệu lạc quan hơn, bằng cách chỉ ra rằng, ngày nay, có nhiều sự phát triển khác nhau đặt ra thách thức đối với quyền bá chủ về mặt lịch sử của các cách tiếp cận từ góc độ Bắc Đại Tây Dương.

Từ khóa: xã hội học quốc tế, lịch sử các khoa học xã hội, quan hệ Bắc-Nam, trung tâm-ngoại vi, phát triển khoa học, chủ nghĩa lấy châu Âu làm tâm điểm.

DÀN BÀI

Dẫn nhập

Xây dựng mô hình trung tâm-ngoại vi trong nghiên cứu về khoa học

-          Khái niệm hóa mô hình trung tâm-ngoại vi

Trung tâm-ngoại vi: chiều kích phụ thuộc - tự chủ

Trung tâm và ngoại vi: chiều kích ngoài lề - trung tâm

-          Cơ sở dữ liệu thư mục: các chỉ báo và các công cụ loại trừ

-          Phân công lao động nhận thức không đồng đều trong các khoa học xã hội

-          Tính bản địa, tính hướng ngoại và tính ngoại lai kỳ lạ (exotisme), đặc điểm của các khoa học xã hội ngoài lề

-          Các giả định tiến hóa vốn có trong khoa học xã hội

Các cuộc tấn công chống lại bá quyền Bắc Đại Tây Dương

20.4.24

Peter Higgs: Tôi sẽ không đủ năng suất cho hệ thống học thuật ngày nay

PETER HIGGS: TÔI SẼ KHÔNG ĐỦ NĂNG SUẤT CHO HỆ THỐNG HỌC THUẬT NGÀY NAY

Nhà vật lý nghi ngờ khả năng đạt được những công trình như xác định boson Higgs trong môi trường học thuật ngày nay, khi mà các học giả được kỳ vọng "sản xuất bài báo hàng loạt".

Decca Aitkenhead

Peter Higgs: 'Giờ tôi sẽ không kiếm nổi việc làm trong lĩnh vực học thuật. Đơn giản là thế'. Ảnh: David Levene chụp cho Guardian

Lời của Phân Tích Kinh Tế: Peter Higgs vừa qua đời vào ngày 8 tháng 4 năm 2024 ở tuổi 94. Ông là nhà vật lý lý thuyết người Anh nổi tiếng với dự đoán về boson Higgs vào những năm 1960. Lý thuyết của ông và các đồng nghiệp, được biết đến với tên gọi Cơ chế Brout-Englert-Higgs, dự đoán về một trường năng lượng bao trùm khắp vũ trụ, ảnh hưởng đến sự tương tác của các hạt hạ nguyên tử và lý giải tại sao chúng có khối lượng. Công trình tiên phong này mở đường cho một cuộc tìm kiếm kéo dài hàng thập kỷ, cuối cùng dẫn đến việc xác nhận sự tồn tại của boson Higgs tại Máy va chạm Hadron Lớn (LHC) thuộc Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) vào năm 2012. Phát hiện mang tính đột phá trong lĩnh vực vật lý hạt này mang về giải Nobel năm 2013 cho Higgs và đồng nghiệp của ông, François Englert.

Peter Higgs, nhà vật lý người Anh, có tên được dùng để đặt cho boson Higgs, tin rằng không có trường đại học nào sẽ tuyển dụng ông trong hệ thống học thuật ngày nay vì ông sẽ không được coi là đủ "năng suất".

19.4.24

Kỷ yếu Hạt Higgs và Mô hình chuẩn

HẠT HIGGS VÀ MÔ HÌNH CHUẨN

Cuộc phiêu lưu kỳ thú của Khoa học

Nhóm chủ biên:

CAO CHI – CHU HẢO – PIERRE DARRIULAT

NGUYỄN XUÂN XANH – PHẠM XUÂN YÊM

Trong tháng qua tôi đã trải qua một trong những giai đoạn kích động nhất, căng thẳng nhất của đời tôi, nhưng cũng lại là thành công nhất. Tôi không thể nghĩ gì đến việc viết thư được nữa.

Albert Einstein tâm sự với Arnold Sommerfeld sau khi hoàn tất Thuyết tương đối rộng

Dưới ánh sáng của nhận thức đã đạt được thì cái đã may mắn thu hoạch được hiện ra gần như tất nhiên, và mỗi sinh viên thông minh đều hiểu nó không khó nhọc lắm. Nhưng sự tìm kiếm đầy linh cảm, kéo dài nhiều năm trong bóng tối với nhớ nhung căng thẳng của nó, luân phiên giữa sự tin chắc và nỗi tuyệt vọng, rồi với sự bứt phá cuối cùng đạt đến chân lý, những điều đó chỉ có ai đã tự trải nghiệm mới biết được.

Albert Einstein cảm nhận sau khi đã hoàn tất Thuyết tương đối rộng

Lời nói đầu. Nhân bài trả lời phỏng vấn đầy cảm xúc và lôi cuốn của GS Ngô Bảo Châu ngày 4 tháng 9, năm 2020 cho báo LAO ĐỘNG:

“Đó có lẽ là một tình yêu quá lớn”

trong đó ông có nói về ý tưởng từ một bài báo khoa học giúp ông tìm được phương pháp giải bài toán Bổ đề cơ bản Langlands:

Đúng lúc đó thì tôi đọc lại một bài báo nổi tiếng, lúc đầu thì thấy nó bình thường, nhưng đến một lúc, tôi chợt hiểu đấy chính là cái tôi tìm, chính là cái mô hình cho phép tôi có thể áp dụng cái ý tưởng tôi từng có. Và tôi nhớ khoảnh khắc đúng là niềm vui của sáng tạo khi tôi đang làm việc trong một Viện nghiên cứu ở Pháp. Phát hiện đó tuy rất đơn giản, nhưng nó làm sáng tỏ nhiều điều mà tôi chỉ hiểu một cách mù mờ trước đó. Phát kiến toán học đôi khi là thế, nó là một cái gì đó rất đơn giản nhưng nó như là mở mắt mình trong rất nhiều vấn đề khác bằng cách trổ ra một cửa sổ mới và xếp đặt lại một trật tự mới.