18.9.24

Pierre Bourdieu là ai?

PIERRE BOURDIEU LÀ AI?

Nhà xã hội học nổi tiếng thế giới, Pierre Bourdieu (1930-2002) đã phát triển một lý thuyết về thống trị và tái sản sinh xã hội dựa trên các khái niệm “tập tính”, “vốn” (kinh tế, văn hóa, xã hội), “trường” và “bạo lực biểu tượng”. Những suy tưởng lý thuyết của ông dựa trên nghiên cứu thực nghiệm về giáo dục, văn hóa, tôn giáo, giai tầng xã hội, giới tính, chính trị và kinh tế.

Từ triết học đến nhân học: lý thuyết về thực tiễn và khái niệm tập tính

Quỹ đạo xã hội của Pierre Bourdieu được đánh dấu bằng khả năng thăng tiến nhờ Trường học, xếp ông vào loại “kẻ đào tẩu” giai cấp, những “người nhận được phép lạ” như ông gọi họ. Sinh ngày 1 tháng 8 năm 1930 tại Pháp, tại Denguin (Pyrénées-Atlantiques), cha là tá điền, người phát thư rồi người phát thư-thu tiền, và mẹ là nhân viên bưu điện, ông học trung học tại trường trung học Pau, rồi tại trường trung học Louis-le-Grand ở Paris trước khi vào học, năm 1951, Trường Sư Phạm Cao Cấp/École Normale Supérieure trên phố Ulm. Đỗ kỳ thi tuyển thạc sĩ (agrégation) triết học năm 1954, ông được b nhiệm làm giáo sư tại trường trung học Moulins. Bị gọi nhập ngũ đi Algérie vào năm sau, giữa cuộc chiến tranh giành độc lập, ông bắt đầu nghiên cứu về xã hội Algérie, nằm giữa Đông Phương Luận và dân tộc học. Nghiên cứu này dẫn đến cuốn Xã hội học về Algérie/Sociologie de l’Algérie trong tủ sách “Que sais-je?”, xuất bản vào năm 1958, năm ông được bổ nhiệm phụ tá cho giảng viên trường Đại học Alger.

Tập trung vào vấn đề chuyển dịch từ nền kinh tế tiền tư bản sang nền kinh tế tư bản, nghiên cứu của ông dựa trên ba cuộc khảo sát: cuộc khảo sát thứ nhất, được thực hiện vào năm 1958, liên quan đến xã hội Kabyle truyền thống; cuộc khảo sát thứ hai, được thực hiện vào năm 1960, về công nhân Algérie ở môi trường thành thị [Lao động và người lao động ở Algérie/Travail et travailleurs en Algérie, 1963; Algérie 60, 1977]; cuộc khảo sát thứ ba, cũng được thực hiện vào năm 1960, về các trung tâm tập hợp lại và, tổng quát hơn, về hệ quả của chủ nghĩa thực dân [Le Déracinement/Đánh mất gốc rễ/Sự bật rễ, 1964 với Abdelmalek Sayad]. Cùng với nghiên cứu mà ông đã tiến hành tại quê hương Béarn về tình trạng độc thân của nông dân sau khi trở về Pháp năm 1959, những cuộc điều tra này là nguồn gốc của lý thuyết về thực tiễn và tập tính của ông [Phác thảo một lý thuyết về hành động thực tiễn/Esquisse d’une théorie de la pratique, 1972; Cảm thức thực tiễn/Le Sens pratique, 1980].

Trong các nghiên cứu ông thực hiện về xã hội Kabyle và xã hội nông dân ở Béarn, Bourdieu đã quan sát thấy khó khăn mà các cá nhân gặp phải trong việc thích nghi với các tình huống mới trong các giai đoạn chuyển đổi xã hội, khi các cấu trúc xã hội không còn tương ứng với các cấu trúc mà họ đã nhập tâm hóa trong quá khứ, và khi hệ thống giá trị không còn như cũ nữa. Những tình huống mới tiết lộ khoảng cách giữa nhận thức chủ quan và cấu trúc khách quan trong một thế giới đang chuyển đổi. Thật vậy, việc không thể thích ứng với những thay đổi này là kết quả của sự mâu thuẫn giữa các giá trị truyền thống (quyền sở hữu di sản không phân chia, logic danh dự không thừa nhận sự tính toán và sự hợp lý hóa các trao đổi kinh tế, quan hệ với thời gian, v.v.) và logic tư bản. Sức ì của quá khứ được cảm nhận thông qua những thói quen bị đọng lại, điều mà Bourdieu gọi là tập tính. Mô tả dân tộc học về một vũ hội nơi những người độc thân bị trói buộc vào ruộng đất tụ tập ở một góc trong khi các cô gái quê khiêu vũ với các chàng trai thành thị cho thấy sự mất giá của c giá trị nông dân ngay trong lòng vùng Béarn. Nhưng cơ thể cũng là nơi của thực tiễn, của sự phát minh và của sự ứng biến những hành vi ít nhiều phù hợp với hoàn cảnh. Như vậy, khi tính đến khả năng ứng biến này, khái niệm tập tính, vốn chỉ định những khuynh hướng tiềm tàng được sáp nhập cấu trúc nên hành động và thế giới quan của các cá nhân và nhóm, vạch ra các giới hạn của quyền tự do hành động, trái ngược với triết lý tự do của Sartre, với xã hội học về vai trò của Goffman hoặc với lý thuyết về tác nhân duy lý.

Émile Durkheim (1858-1917)
Max Weber (1864-1920)

Bắt nguồn từ sự phê phán kép chủ nghĩa chủ quan và chủ nghĩa khách quan, khái niệm tập tính cho phép Bourdieu tích hợp, ở cấp độ lý thuyết, những thành tựu của các truyền thống xã hội học khác nhau: truyền thống của Durkheim về nghiên cứu các hình thái phân loại như nó được cấu trúc luận điều chỉnh, truyền thống mác xít nhắc lại rằng các hình thái ý thức xã hội được phân biệt theo các điều kiện sinh sống, và sự phê phán của Weber đối với chủ nghĩa duy vật mác xít, tái lập vị trí của thế giới quan của các nhóm xã hội trên định hướng hành động của họ.

Quyền lực biểu tượng

Marcel Mauss (1872-1950)

Khái niệm tập tính cũng là trọng tâm trong lý thuyết về thống trị của Bourdieu, dựa trên khái niệm “quyền lực biểu tượng”. Quan niệm của ông về quyền lực này nằm trong truyền thống duy lý của chủ nghĩa tân Kant vốn coi, chống lại truyền thống theo chủ nghĩa kinh nghiệm, rằng thế giới quan được cấu trúc bởi các phạm trù nhận thức - một truyền thống được thể hiện trong lĩnh vực xã hội học bởi Émile Durkheim và Marcel Mauss và trong lĩnh vực triết học bởi Ernst Cassirer. Tuy nhiên Bourdieu, tiếp nối Karl Marx và Max Weber, nhắc lại rằng những phạm trù này không trung tính mà đảm nhận các chức năng về mặt ý thức hệ, và chúng thiết lập cơ sở cho các cơ chế thống trị [PB 1977e]. Thật vậy, sức mạnh của quyền lực biểu tượng nằm ở chỗ nó được khắc sâu vào cơ thể, dưới hình thức các khuynh hướng tạo nên tập tính. Ví dụ, điều này được chứng minh bằng sự trao đổi ngôn ngữ, được phân tích trong Phát biểu có ý nghĩa nào/Ce que parler veut dire (1982).

Suy nghĩ của Bourdieu về chiều kích biểu tượng của những trao đổi và những quan hệ quyền lực trong xã hội bắt nguồn từ sự quan sát của ông về các xã hội truyền thống. Trong nền kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa, nơi mà việc tái sản sinh phương thức thống trị không được đảm bảo, quyền lực chính trị bắt nguồn từ sự bất cân xứng trong trao đổi, tức là từ sự tái phân phối phô trương, nhưng cũng từ một tập hợp các chiến lược hướng tới sự thống trị những con người; một sự thống trị vận hành thông qua các cơ chế đặc thù của bạo lực biểu tượng [Phác thảo một lý thuyết về thực tiễn; Cảm thức thực tiễn/Esquisse d’une théorie de la pratique; Le Sens pratique]. Nhận xét này khiến Bourdieu bác bỏ chủ nghĩa duy kinh tế vốn quy giản sự trao đổi trong lợi ích vật chất, kể cả trong các xã hội tư bản. Vốn biểu tượng cấu thành tín dụng theo nghĩa rộng, dựa trên niềm tin của nhóm. Nếu, ở Kabylie, nó mang hình thức của danh dự, thì chính vốn văn hóa là hiện thân mang tính hệ hình của vốn biểu tượng trong các xã hội tư bản, như được thể hiện qua các cuộc điều tra mà ông đã thực hiện về xã hội Pháp đương đại kể từ khi ông trở về Pháp để làm việc tại Trung tâm Xã hội học Châu Âu, được Raymond Aron thành lập, mà ông trở thành phó giám đốc vào năm 1965, một năm sau khi được bổ nhiệm làm giám đốc nghiên cứu tại École Pratique des Hautes Études (sau khi làm giảng viên chính ở Lille từ năm 1961 đến năm 1964). Các cuộc điều tra này được tiếp tục tại Trung tâm Xã hội học Giáo dục và Văn hóa mà ông thành lập cùng với nhóm của mình vào năm 1969 và được ông chỉ đạo cho đến năm 1984 (trung tâm này trở thành Trung tâm Xã hội học Châu Âu vào năm 1997, sau đó vào năm 2010 - sau khi sáp nhập với Trung tâm Nghiên cứu Chính trị và Xã hội của Sorbonne – là Trung tâm Xã hội học và Khoa học Chính trị Châu Âu). Kết quả của các trung tâm này được xuất bản trong bộ sưu tập mà ông ra mắt năm 1964 tại NXB Éditions de Minuit, “Le sens commun/Lí lẽ thông thường”, và được ông chỉ đạo cho đến năm 1992 (nó sẽ được tiếp nối từ năm 1997 bởi bộ sưu tập “Liber” tại NXB Seuil), cũng như trong tạp chí Actes de la recherche en Sciences Sociales/Kỷ yếu về nghiên cứu khoa học xã hội do ông thành lập năm 1975.

Khái niệm “vốn văn hóa” và lý thuyết về giai tầng xã hội

Với các công cụ của xã hội học thực nghiệm, Bourdieu đề cập đến các chủ đề “nóng” hoặc thời sự chẳng hạn như sự bất bình đẳng xã hội của sinh viên trước văn hóa khi quá trình “dân chủ hóa” trường đại học bắt đầu [Les Héritiers/Những kẻ kế thừa, 1964], các thực tiễn văn hóa mới như nhiếp ảnh [Un art moyen/Một nghệ thuật trung bình, 1965] hoặc thậm chí là việc tham quan các viện bảo tàng vào thời điểm mà chính sách của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, André Malraux, nhắm mục đích thúc đẩy khả năng tiếp cận văn hóa cho tất cả mọi người [L'Amour de l’art/Tình yêu nghệ thuật, 1966]. Chống lại quan niệm mác xít đặt nền tảng của sự khác biệt giai cấp chỉ trên việc sở hữu duy nhất các tư liệu sản xuất vật chất, ông phát triển lý thuyết về bạo lực biểu tượng được thực hiện thông qua việc sở hữu và áp đặt “vốn văn hóa”.

Jean Claude Passeron (1930-)

Trong Les Héritiers/Những kẻ kế thừa (1964), viết cùng với Jean-Claude Passeron, ông đã đổi mới xã hội học về giáo dục bằng cách đề xuất một phương pháp thích hợp hơn để tính toán cơ hội thành công trong học tập. Thật vậy, xác định sự bất bình đẳng xã hội ở Nhà trường mà chỉ tính đến tỷ lệ sinh viên đăng ký vào đại học theo phân loại nghề nghiệp xã hội của phụ huynh là chưa đủ mà cần phải liên hệ tỷ lệ đăng ký này với tỷ lệ của những phân loại này trong dân số. Lúc đó, chúng ta thấy rằng cơ hội vào đại học tăng từ dưới 1% đối với con em của công nhân nông nghiệp hoặc 1,4% đối với con em của công nhân đến gần 60% đối với con em của những người làm nghề tự do và cán bộ cao cấp. Tại sao con em thuộc tầng lớp thống trị lại thành công hơn ở trường học? Trước hết, vì văn hóa được dạy ở trường gần hơn với văn hóa của các giai cấp thống trị. Nhưng đó không phải là tất cả. Ở đây có sự phân tích về tính võ đoán của mối quan hệ sư phạm sẽ được phát triển với Passeron trong La Reproduction/Sự tái sản sinh (1970). Thật vậy, giáo viên có xu hướng coi trọng những năng lực ít nặng tính học tập hơn (chẳng hạn như khoảng cách với văn hóa học đường) và văn hóa được thừa hưởng từ môi trường gia đình, khiến cho văn hóa học đường bị thiệt thòi. Do đó, mối quan hệ quyền lực xã hội không bình đẳng này được chính đáng hóa bởi hệ tư tưởng về “năng khiếu”, giải thích thành công trong học tập bằng khả năng bẩm sinh và tài cán cá nhân. Do đó, chống lại quan niệm mác xít đặt nền tảng cho sự khác biệt giai cấp trên việc sở hữu duy nhất các tư liệu sản xuất vật chất, Bourdieu nhấn mạnh tầm quan trọng của “vốn văn hóa” được kế thừa như một điều kiện cho sự thành công về mặt học vấn, từ đó góp phần tái sản sinh các giai cấp thống trị. Trước biến cố tháng 5 năm 68, tác phẩm này đã gây được tiếng vang rộng rãi trong giới sinh viên và giảng viên, những người hàng ngày phải trải nghiệm sự bùng nổ về nhu cầu giáo dục và sự bất cập của hệ thống để đáp ứng những hy vọng mà hệ thống giáo dục này đã khơi dậy.

Kết quả của cuộc điều tra này về các phương thức chính đáng hóa sự thống trị giai cấp được tiếp nối và khái quát hóa trong cuộc điều tra về thị hiếu và lối sống vốn là trọng tâm của cuốn sách chủ yếu của Bourdieu, La Distinction/Sự Ưu biệt (1979). Các giai tầng thống trị tự phân biệt mình với các giai tầng bị thống trị bằng cách khẳng định sự xa cách đối với sự thiết yếu trong thị hiếu văn hóa và lối sống của họ. Vốn văn hóa, và nói chung hơn là vốn biểu tượng, thể hiện như là phương thức chính đáng hóa tiêu biểu nhất của sự thống trị xã hội. Cách tiếp cận của Bourdieu cũng nổi bật so với lý thuyết mác xít về các giai cấp xã hội thông qua phân tích của ông về lối sống phân biệt các bộ phận giai tầng không chỉ theo tổng khối lượng vốn mà còn theo kết cấu của vốn. Nghiên cứu thực nghiệm mà Bourdieu thực hiện cho thấy rằng với mức thu nhập ngang nhau, lối sống (thực tiễn văn hóa, loại chi tiêu và đầu tư) khác nhau tùy thuộc vào việc mỗi người có vốn văn hóa hay không.

Do đó, theo Bourdieu, cấu trúc xã hội xuất hiện như một cấu trúc đối ngẫu chéo (chiasme). Các giai tầng thống trị được phân biệt với các giai tầng bị thống trị bởi tổng khối lượng vốn mà họ nắm giữ. Nhưng không gian thứ bậc này cũng có sự khác biệt tùy thuộc vào loại vốn nắm giữ. Chẳng hạn như các giai cấp thống trị được phân bổ giữa một bên là các thành phần nắm giữ vốn chủ yếu là vốn kinh tế và vốn chính trị, mặt khác là những thành phần chủ yếu nắm giữ vốn văn hóa (các ngành nghề tự do và trí tuệ) và bị thống trị trong “trường quyền lực”. Chúng ta cũng tìm thấy nguyên tắc phân biệt này trong các giai cấp bị thống trị, chẳng hạn giữa giai cấp tiểu tư sản trí thức (giáo viên, thủ thư, v.v.) và giai cấp tiểu tư sản thương gia. Sự phân hóa các loại vốn dẫn đến sự khác biệt về tập tính giữa các phân khúc giai tầng.

Sự tách biệt này theo kiểu đối ngẫu chéo kết quả của quá trình khẳng định vốn văn hóa, được áp đặt và trở thành tự chủ với hệ tư tưởng dựa trên tài cán. Trong khi dưới thời Chế độ Cũ, hệ thống tái sản sinh trực tiếp chiếm ưu thế, khiến hệ thống phân cấp xã hội phụ thuộc vào nguồn gốc và sự chỉ định trực tiếp của những người thừa kế trong các gia đình (do đó con cả là người thừa kế, con út trở thành linh mục, con gái được trao đổi giữa các gia đình hoặc vào tu viện, v.v.), cũng như việc truyền nghề từ cha sang con, chúng ta chuyển sang hệ thống tái sản sinh với một “thành phần có học thức”, thay thế giới quý tộc cũ bằng “quý tộc Nhà nước”, xuất phát từ một quá trình tuyển chọn bề ngoài dựa trên tài cán, nhưng trên thực tế lại góp phần chính đáng hóa sự tái sản sinh xã hội. Bằng chứng là sự sàng lọc xã hội quá mức các sinh viên tại các Trường Lớn (Grandes Écoles) ở Pháp, được bộc lộ qua cuộc khảo sát mà ông dành cho họ, một cuộc khảo sát kết hợp những suy tưởng về hệ thống giáo dục và trường quyền lực [Quý tộc Nhà nước/La Noblesse d'Etat, 1989]. Cũng vào thời điểm này Bourdieu đã đưa vào lý thuyết của ông khái niệm vốn xã hội, một khái niệm sẽ trở thành khái niệm trung tâm trong xã hội học về các mạng lưới vào những năm 1990 [PB 1980a].

Lý thuyết trường

Từ những năm 1970, Bourdieu đã phát triển lý thuyết trường của mình trong các hội thảo [PB 2013a] và trong các bài viết được gộp lại trong Questions de sociologie (1980)/Những vấn đề của xã hội học. Quá trình khẳng định vốn văn hóa tương ứng với quá trình lịch sử của sự khác biệt hóa và chuyên môn hóa sự thống trị, thông qua, như Max Weber đã phân tích trong trường hợp tôn giáo, sự thành lập một nhóm chuyên gia. Điều này cũng áp dụng cho luật pháp, vốn sẽ thiết lập tính chính đáng của quyền lực bằng cách thay thế nguyên tắc tôn giáo, và cho các không gian khác của sản sinh trí tuệ, khoa học, văn học, nghệ thuật, âm nhạc, mà Bourdieu định nghĩa là các trường do tính tự chủ tương đối của chúng và quy tắc hoạt động đặc thù của chúng. Các trường sản sinh văn hóa là không gian quy định của cuộc đấu tranh cạnh tranh để giành độc quyền về vốn đặc thù của hoạt động liên quan. Đầu tư vào trò chơi đòi hỏi là trước đó phải tin tưởng vào luật chơi, illusio. Các trường được cấu trúc xung quanh hai mặt đối lập chính, tương đồng với cấu trúc không gian xã hội: mặt thứ nhất đối lập những kẻ thống trị với những kẻ bị trị dựa trên tổng khối lượng vốn đặc thù, thường chồng chéo với sự đối lập giữa những người mới gia nhập và những người đã có địa vị; mặt thứ hai đối lập những người bảo vệ vốn đặc thù, được đảm bảo bởi sự đánh giá của những người đồng đẳng, với những người hoạt động sáng tạo dựa trên các tiêu chí bên ngoài, kinh tế hoặc hệ tư tưởng. Sau trường trí tuệ và trường tôn giáo (là ma trận), Bourdieu quan tâm đến trường khoa học [PB 1975e; 1976c; Science de la science et réflexivité/Khoa học về khoa học và tính phản tư] và trường chính trị, mà sự vận hành và sự khép kín bị ông phê phán thông qua việc loại trừ “người ngoại đạo, phàm tục” để ủng hộ “các chuyên gia” [PB 1972d; 1977a; 1981a; Propos sur le champ politique/Bình luận về lĩnh vực chính trị. Những suy nghĩ này sẽ tạo thành một chương trình nghiên cứu thực sự, khơi dậy sự nghiên cứu trong các ngành khác nhau, đặc biệt là khoa học chính trị và xã hội học văn học, ở Pháp và ở các nơi khác.

Năm 1981, Bourdieu được bầu làm giáo sư xã hội học thực thụ tại Collège de France, khi đó là học viện danh tiếng nhất ở Pháp (bài giảng đầu tiên của ông, đọc vào ngày 23 tháng 4 năm 1982, xuất bản với tựa đề Bài giảng về bài giảng/Leçon sur la leçon). Áp dụng cách tiếp cận phản tư, ông thực hiện một cuộc điều tra thực nghiệm cho trường học thuật. Ông cho thấy trường này nói chung được cấu trúc bởi sự đối lập giữa các khoa thống trị về mặt quyền lực thế tục (luật học và y học) và các khoa bị thống trị (khoa học và khoa học nhân văn), nơi vốn biểu tượng chiếm ưu thế. Nhưng chúng ta nhận thấy trong mỗi bộ môn đều có sự đối lập giữa một cực dị trị hướng tới việc tích lũy quyền lực thế tục thông qua việc kiểm soát việc tái sản sinh định chế và một cực tự trị hướng tới việc tích lũy vốn biểu tượng. Trong cuốn sách rút ra từ cuộc điều tra này [Homo Academicus/Con người hàn lâm), 1984], ông cũng phát triển một mô hình phân tích cho xã hội học lịch sử thông qua nghiên cứu về “thời điểm quyết định” của Tháng 5 năm 68, mà ông cố gắng làm sáng tỏ những nguyên nhân mang tính cấu trúc. Theo Bourdieu, “sự kiện” trên thực tế là sự gặp gỡ giữa các chuỗi nhân quả độc lập, tạo nên một thời cơ. Sự chính trị hóa cũng dẫn đến sự đồng bộ hóa của các trường khác nhau.

Bourdieu hệ thống hóa lý thuyết của mình về các trường trong Les Règles de l’art/Những quy tắc của nghệ thuật (1992), trong đó ông tập hợp các công trình dành cho trường văn học từ những năm 1960. Ông vạch lại quá trình lịch sử của sự tự trị hóa trường văn học vào thế kỷ 19, với sự hình thành của một chu trình sản sinh hạn chế, dựa trên sự công nhận của các chủ thể đồng đẳng, chống lại chu trình sản sinh lớn bị chi phối bởi logic thị trường và số doanh thu. Đề xuất những nền tảng của khoa học về tác phẩm, Bourdieu cho thấy việc sử dụng khái niệm trường có thể giúp vượt qua việc lựa chọn giữa sự phân tích bên trong các tác phẩm, như được chủ nghĩa cấu trúc khuyến nghị, và sự phân tích bên ngoài, quy giản hóa tác phẩm, chẳng hạn như lý thuyết mác xít về sự phản ánh, vào điều kiện sản sinh ra tác phẩm.

Cách tiếp cận này cũng áp dụng cho các lĩnh vực sản sinh văn hóa khác. Bourdieu đặc biệt đã áp dụng nó trong nghiên cứu mà ông thực hiện từ những năm 1980 về Manet, đối tượng của khóa giảng của ông tại Collège de France vào năm 1998-1999. Khóa giảng này, cũng như bản thảo chưa hoàn thành của một cuốn sách có chữ ký chung với Marie-Claire Bourdieu, vợ ông, đặt câu hỏi về các điều kiện của các cuộc cách mạng biểu tượng [Manet, 2014]. Bourdieu xây dựng lại hệ thống hàn lâm độc quyền về đào tạo nghệ thuật và thị trường nghệ thuật vào thời Manet. Hệ thống này do Viện Hàn Lâm Mỹ thuật quản lý, hoạt động như một cơ quan được định chế hóa để tự tái sản sinh các thành viên. Thẩm mỹ hàn lâm bắt nguồn từ điều này. Manet sẽ phá hủy quy tắc thẩm mỹ này. Khuynh hướng tiềm tàng, vốn (kinh tế, văn hóa, xã hội) và tập tính “bị tách biệt” giữa hai cực, kinh tế và văn hóa, của trường quyền lực, của Manet giải thích tại sao Manet đã có thể đưa cuộc cách mạng này đến hồi kết, trong tình huống khủng hoảng của hệ thống hàn lâm.

Lý thuyết về bạo lực biểu tượng

Nghiên cứu về giáo dục và hệ thống hội họa hàn lâm là một phần trong suy tưởng tổng quát hơn của Bourdieu về Nhà nước và vai trò của nó trong việc khắc sâu các phạm trù tư tưởng làm nền tảng cho trật tự xã hội. Ông đã dành bài giảng của mình tại Collège de France từ năm 1989 đến 1992 [Sur l'Etat, 2012] cho chủ đề này. Hoàn thiện định nghĩa mà Max Weber đã đề xuất về Nhà nước, Bourdieu định nghĩa nó không chỉ bằng sự độc quyền của bạo lực chính đáng, mà còn bằng sự độc quyền của bạo lực mang tính biểu tượng chính đáng, hơn nữa, bạo lực này là đủ, khi mà bạo lực mang tính biểu tượng hợp pháp hóa bạo lực thể chất. Ngược lại với truyền thống marxist vốn giản lược nó thành một kiến ​​trúc thượng tng, Nhà nước, trên thc tế, theo Bourdieu, là nơi to ra nhng bn sc chính đáng vn bin minh cho các th tc hi nhp và loi tr. Nếu hot động độc quyn bo lc mang tính biu tượng như vy phi được nghiên cu t góc độ xã hi hc lch s, bng cách tp trung vào vai trò ca mt s nhóm xã hi nht định như gii luật sư, thì bạo lực này được quan sát thấy hàng ngày trong những hành vi bình thường nhất như mua một căn nhà, được bộc lộ qua cách tiếp cận dân tộc học. Là nơi sản sinh ra “sự công cộng” và “tính chính thức”, Nhà nước còn được xác định rõ hơn bởi độc quyền của nó về cái phổ quát: nó có quyền phổ cập các thực tiễn hoặc đặc điểm nhất định để gây bất lợi cho những thực tiễn khác, bị gắn với tính đặc thù của chúng, chẳng hạn như giọng nói tỉnh lẻ so với giọng của giới thượng lưu Paris, cái gọi là văn hóa đại chúng so với văn hóa chính đáng được hệ thống trường học thừa nhận, hay thậm chí cái gọi là đặc điểm nữ tính so với đặc điểm nam tính. Đây là cách Nhà nước tạo ra các hệ thống phân loại và thứ bậc được nội tâm hóa bởi các cá nhân dưới sự giám hộ của Nhà nước, bao gồm cả những người nổi dậy chống lại hệ thống này. Tuy nhiên, đối với Bourdieu, Nhà nước không phải là một thứ trừu tượng và ông mời gọi một môn xã hội học về các thể chế và cá nhân tạo nên siêu trường mà Nhà nước hợp thành.

Khái niệm bạo lực biểu tượng nhằm mục đích vượt ra ngoài thế đôi ngả giữa sự cưỡng bức/sự ưng thuận để hiểu các cơ chế thống trị. Hoạt động của bạo lực biểu tượng được xác định bởi ba thành tố hoạt động đồng thời: thiếu hiểu biết về tính võ đoán của sự thống trị; công nhận sự thống trị này là chính đáng; nội tâm hoá sự thống trị bởi kẻ bị thống trị.

Claude Lévi-Strauss (1908-2009)

Cách thức vận hành này hoạt động trong sự thống trị của nam giới, chủ đề được Bourdieu dành một cuốn sách vào năm 1998. Dựa trên những nghiên cứu mà ông thực hiện ở Kabylie, ông cho thấy rằng sự đối lập nam/nữ là một trong những nguyên tắc cơ bản của thế giới quan và sự phân chia thế giới, vốn tổ chức các phạm trù vũ trụ thần thoại của nhận thức về không gian và thời gian: thượng/hạ, trên/dưới, phải/trái, bên ngoài/bên trong, không liên tục/liên tục, đặc biệt/bình thường, sự kiện/thời gian. Sự đối lập nam/nữ cũng làm nền tảng cho những đối lập chính tổ chức đời sống xã hội: văn hóa/tự nhiên, công cộng/riêng tư, chủ động/thụ động. Không phải là biểu hiện của sự khác biệt sinh học, bản sắc giới tính hay “giới tính” là những bản sắc xã hội được xây dựng và được khắc sâu qua quá trình rèn luyện cơ thể. Như vậy, những bản sắc xã hội được kiến tạo này bị đồng nhất với tự nhiên, sự tùy tiện văn hóa mang dáng vẻ của cái tự nhiên. Trong các xã hội đương đại, những bản sắc này được tái tạo không chỉ bởi giáo dục gia đình, mà còn bởi các thể chế, trước hết là Nhà thờ, Nhà nước và Nhà trường. Bằng cách biến việc trao đổi phụ nữ thành cơ sở giao tiếp giữa nam giới, Claude Lévi-Strauss đã che khuất chiều kích chính trị của hành động nền tảng này của đời sống xã hội, bao gồm việc thể chế hóa bạo lực đối với phụ nữ, được coi là đối tượng/đồ vật. Cách tiếp cận này có thể khắc phục được vấn đề về sự ưng thuận - sự cưỡng bức vốn thường là nền tảng cho các cuộc tranh luận về sự thống trị của nam giới. Bạo lực biểu tượng bao hàm sự phục tùng đồng lõa của những người bị thống trị, đây không phải là kết quả của một hành động tự do và tự nguyện, mà là sự sáp nhập của thế giới quan lấy nam giới làm trung tâm. Không có gì tiết lộ những cơ chế này tốt hơn logic về việc phụ nữ tự loại mình khỏi không gian công cộng. Trong phụ lục của Sự thống trị của nam giới, Bourdieu xuất bản một văn bản ủng hộ phong trào đồng tính nam và đồng tính nữ, đây là một phần trong cam kết của ông với tư cách là một trí thức đăc thù.

Tính phản và cam kết: một trí thức toàn cầu

Giai đoạn cuối cùng trong cuộc đời của Bourdieu được đánh dấu bằng quá trình quốc tế hóa và sự dấn thân chính trị, tuy không bắt nguồn từ những năm đó mà có từ các công trình đầu tiên của ông về Algérie, đã đạt được một sự hiển thị chưa từng có. Cho đến những năm 1980, sự tiếp nhận quốc tế đối với những nghiên cứu của Bourdieu, mặc dù quan trọng, vẫn chỉ giới hạn trong xã hội học về giáo dục, nghệ thuật và văn hóa (đôi khi đã trỗi dậy dựa vào những nghiên cứu này, ví dụ như ở Hoa Kỳ đối với xã hội học về văn hóa), cũng như trong nhân học (ví dụ: lý thuyết thực tiễn). Sự tiếp nhận này được thống nhất sau bản dịch tiếng Anh cuốn La Distinction/Sự Ưu biệt của Nhà xuất bản Đại học Harvard năm 1984, nhận được sự hưởng ứng rộng rãi, nâng Bourdieu lên hàng nhà lý luận về thế giới xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự tiếp nhận này khiến Bourdieu suy ngẫm về sự lưu thông quốc tế của các ý tưởng và về các điều kiện của chủ nghĩa so sánh, vốn phải vận hành từ hệ thống này sang hệ thống khác bằng cách tái lập các nguyên tắc phân hóa của các xã hội theo từng loại vốn. Cách tiếp cận so sánh này cũng làm tăng tính phản tư về các xã hội của chúng ta.

Đồng thời, do càng ngày càng được thỉnh cầu, Bourdieu đã gia tăng việc bày tỏ lập trường của mình về các vấn đề thời sự trong những năm 1990. Năm 1993, năm ông được trao huy chương vàng của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (ông là nhà xã hội học đầu tiên có được huy chương này), ông xuất bản Sự Khốn khổ của thế giới/La Misère du monde, một tuyển tập các cuộc phỏng vấn được thực hiện bởi một nhóm các nhà nghiên cứu lên tiếng cho tất cả những người không có quyền phát biểu công cộng. Cuốn sách này đã đạt được thành công rất lớn trong công chúng. Ông đã thành lập một phương thức can thiệp chính trị tập thể mới trên cơ sở những công trình khoa học, đặc biệt hình thành vào thời điểm ông tham gia phong trào xã hội vào tháng 12 năm 1995 ở Pháp, sau đó với việc thành lập tập thể Raisons d'agir và các nhà xuất bản Éditions Liber-Raisons d'agir. Cuốn sách Sur la télévision/Về truyền hình (1996) của ông, mang tính phê phán đối với các phương tiện truyền thông đại chúng, đặt nền móng cho việc phân tích trường báo chí, sẽ là tựa sách đầu tiên trong bộ sưu tập này. Được dịch sang 25 thứ tiếng, cuốn sách nhỏ này đã gây ra một chiến dịch dữ dội chống lại ông ở Pháp. Từ năm 1995, Bourdieu tham gia chống lại chủ nghĩa tân tự do [Contre-feux 1 và 2]. Ghi lại những cam kết của mình trong khuôn khổ của sự suy nghĩ khoa học sâu sắc hơn, ông xuất bản song song Các cấu trúc xã hội của kinh tế/Les Structures sociales de l' économique (2001), một tác phẩm cho thấy sự cần thiết phải kết hợp phân tích kinh tế với phân tích xã hội và kết thúc bằng một sự mô tả quá trình toàn cầu hóa trường kinh tế. Được khuếch đại bởi sự tiếp nhận rộng rãi về mặt truyền thông cuốn Sur la télévision, danh tiếng quốc tế của ông đảm bảo cho sự cam kết của ông một tác động toàn cầu, điều này khiến ông trở thành một “trí thức toàn cầu” thực sự.

Theo truyền thống của các trí thức Pháp kể từ Voltaire, Émile Zola, Jean-Paul Sartre và Michel Foucault, Bourdieu đặt vốn biểu tượng của mình để phục vụ các mục tiêu chính trị nhân danh các nguyên tắc phổ quát. Nhưng không giống như Sartre, hiện thân của nhân vật “trí thức toàn diện” bị chỉ trích, Bourdieu can thiệp với tư cách là một “trí thức đặc thù” theo định nghĩa của Foucault, giới hạn bản thân trong các lĩnh vực chuyên môn của mình với tư cách là một nhà xã hội học. Bourdieu còn đi xa hơn Foucault khi đặt ra khái niệm “trí thức tập thể”, có tính đến sự phân công lao động khoa học và tính cộng dồn.

Khóa giảng cuối cùng của Bourdieu tại Collège de France, năm 2000-2001, tập trung vào khoa học [Science de la science et réflexivité]. Về mặt xã hội học, chúng ta có thể giải thích sự vận hành của vũ trụ này (khoa học) mà không rơi vào thuyết tương đối không? Đây chính là câu hỏi định hướng cho cách tiếp cận phản tư mà Bourdieu đề xuất về thực tiễn của sự nghiên cứu. Đưa ra nguyên tắc là cần nghiên cứu “khoa học đang hình thành” hơn là “khoa học làm sẵn”, ông nhìn thấy chủ đề khoa học, chứ không phải ở các nhà khoa học biệt lập, mới là “chủ thể” của khoa học. Chính là trường, thông qua việc điều phối các cuộc đấu tranh cạnh tranh theo các quy tắc đặc thù, mới mang lại cho khoa học tính hiệu lực của nó, bất chấp các yếu tố xã hội quyết định và tương quan quyền lực đưa vào các nhân tố dị trị. Chống lại các hướng chệch đường của chủ nghĩa tương đối hậu hiện đại, Bourdieu tái khẳng định một “chủ nghĩa duy lý lịch sử” không dựa trên một quan niệm mê hoặc về thế giới khoa học. Trong bài giảng cuối cùng của mình, ông tiến hành một sự tự phân tích, cố gắng giải thích về mặt xã hội học quỹ đạo của chính mình dựa trên tập tính “phân đôi” của mình. Suy tưởng về quỹ đạo của chính mình, mà ông đã không thể hoàn thành trước khi qua đời sớm vào ngày 23 tháng 1 năm 2002, đã được xuất bản, dưới dạng phiên bản chưa hoàn chỉnh, với tựa đề Esquisse pour une auto-analyse/Phác thảo cho sự tự phân tích (2004).

Bourdieu để lại những tác phẩm chưa được xuất bản mà việc xuất bản vẫn tiếp tục kể từ khi ông qua đời[1]. Ngoài các bài giảng tại Collège de France, vẫn tiếp tục được xuất bản, một tác phẩm được mong đợi về khái niệm trường mà ông đã không thể hoàn thành khi còn sống, mà các đoạn trích từ các cuộc hội thảo về khái niệm này được xuất bản năm 2013 trên Actes de la recherche en sciences sociales/Kỷ yếu về nghiên cứu khoa học xã hội cung cấp một cái nhìn bao quát [PB 2013a]. Hơn nữa, những công trình về sự nghiệp và quỹ đạo của ông, cũng như về các cuộc điều tra mà ông đã thực hiện, đang gia tăng và dự kiến ​​s m rng hơn na khi kho lưu tr ca ông có th được truy cp. Đồng thi, vic chiếm lĩnh các khái nim và phương pháp ca ông cũng như các cuc tranh lun phê phán mà chúng đã gây ra đã hình thành nên mt d án rng ln Pháp và nước ngoài như được minh chng, mà không làm cn kit chúng, bi các tài liu tham kho được trích dẫn trong thư mục về Bourdieu nằm ở cuối tập này và những thư mục tiếp theo sau mỗi ghi chú của cuốn từ điển. Dự án này một phần tập trung tại Trung tâm Xã hội học và Khoa học Chính trị Châu Âu/Centre européen de sociologie et de science politique, xung quanh tạp chí Kỷ yếu về nghiên cứu khoa học xã hội/Actes de la recherche en Sciences Sociales và một mạng lưới xuyên quốc gia như các dự án Châu Âu ESSE (Vì một không gian khoa học xã hội ở Châu Âu) và INTERCO-SSH (Hợp tác quốc tế trong khoa học xã hội và nhân văn) đã tạo điều kiện để thắt chặt và hỗ trợ. Từ điển này cũng là kết quả của những điều trên.

Gisèle Sapiro

Phạm Như Hồ dịch

Thư mục

a) Tác phẩm tiếng Pháp

P. BOURDIEU, (1958), Sociologie de l’Algérie, Paris, PUF, “Que sais-je”, rééd. 1960, 2001

P. BOURDIEU, (1963), Travail et travailleurs en Algérie (avec A. Darbel, J.-P. Rivet et C. Seibel), Paris, La Haye, Mouton.

P. BOURDIEU, (1964), Le Déracinement. La crise de l’agriculture traditionnelle en Algérie (avec A. Sayad), Paris, Minuit.

P. BOURDIEU, (1964), Les Héritiers. Les étudiants et la culture (avec J.-C. Passeron), Paris, Minuit.

P. BOURDIEU, (1965), Un art moyen. Essai sur les usages sociaux de la photographie (avec L. Boltanski, R. Castel et J.-C. Chamboredon), Paris, Minuit.

P. BOURDIEU, (1966), L’Amour de l’art. Les musées d’art européens et leur public (avec A. Darbel), Paris, Minuit.

P. BOURDIEU, (1992), Les Règles de l’art. Genèse et structure du champ littéraire, Paris, Seuil, rééd. “Points” 1998, 2015.

P. BOURDIEU, (1970), La Reproduction. Éléments pour une théorie du système d’enseignement (avec J.-C. Passeron), Paris, Minuit.

P. BOURDIEU, (1972), Esquisse d’une théorie de la pratique. Précédée de trois études d’ethnologie kabyle, Genève, Droz, rééd. Paris, Seuil, “Points”, 2000.

P. BOURDIEU, (1977), Algérie 60. Structures économiques et structures temporelles, Paris, Minuit.

P. BOURDIEU, (1979), La Distinction. Critique sociale du jugement, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une introduction, 1982.

P. BOURDIEU, (1980), Le Sens pratique, Paris, Minuit, rééd. 1989.

P. BOURDIEU, (1980), Ce que parler veut dire, Paris, Minuit, rééd. 1989.

P. BOURDIEU, (1980), Questions de sociologie, Paris, Minuit, rééd. 2002.

P. BOURDIEU, (1984), Homo academicus, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une postface, 1992.

P. BOURDIEU, (1989), La Noblesse d’État. Grandes Écoles et esprit de corps, Paris, Minuit.

P. BOURDIEU, (1996), Sur la télévision, Paris, Raisons d’agir.

P. BOURDIEU, (1998), Contre-feux 1. Propos pour servir à la résistance contre l’invasion néolibérale, Paris, Raisons d’agir.

P. BOURDIEU, (2000), Les Structures sociales de l’économie, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2014.

P. BOURDIEU, (2001), Science de la science et réflexivité. Cours du Collège de France 2000-2001, Paris, Raisons d’agir.

P. BOURDIEU, (2001), Contre-feux 2. Propos pour servir à la résistance contre l’invasion néolibérale, Paris, Raisons d’agir.

P. BOURDIEU, (2004), Esquisse pour une auto-analyse, Paris, Raisons d’agir.

P. BOURDIEU, (2012), Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.

P. BOURDIEU, (2013), Manet. Une révolution symbolique. Cours au Collège de France, 1998-2000, suivis d’un manuscrit inachevé de Pierre et Marie-Claire Bourdieu, éd. établie par P. Casanova, P. Champagne, C. Charle, F. Poupeau et M.-C. Rivière, Paris, Raisons d’agir/Seuil.

P. BOURDIEU, Sociologie générale, vol. 1, éd. établie par P. Champagne, J. Duval, F. Poupeau et al., Paris, Raisons d’agir/Seuil, rééd. “Points”, 2019.

P. BOURDIEU, Sociologie générale, vol. 2, éd. établie par P. Champagne et J. Duval, avec la collaboration de F. Poupeau et M.-C. Rivière, Paris, Raisons d’agir/Seuil, rééd. “Points”, 2019.

P. BOURDIEU, Anthropologie économique. Cours au Collège de France, 1992-1993, éd. établie par P. Champagne et J. Duval, avec la collaboration de F. Poupeau et M.-C. Rivière; postface de R. Boyer, Paris, Raisons d’agir/Seuil.

CHAUVIRÉ C. et S. CHEVALLIER (dir.), 2010, Dictionnaire Bourdieu, Paris, Ellipses.

J. HEILBRON, R. LENOIR et G. SAPIRO (dir.), Pour une histoire des sciences sociales. Hommage à Pierre Bourdieu, Paris, Fayard

L. PINTO, G. SAPIRO et P. CHAMPAGNE, Pierre Bourdieu, sociologue, Paris, Fayard.

b) Tác phẩm tiếng Anh

1986i

“An antinomy in the notion of collective protest”, in A. FOXLEY, M. S. MCPHERSON et G. O’DONNELL (éd.), Development, democracy and the art of trespassing: essays in the honor of Albert O. Hirschman, Notre Dame (Indiana), University of Notre Dame Press, p. 301-302. (Traduit en français in P. Bourdieu, Propos sur le champ politique, Lyon, PUL, 2000, p. 89-91.)

c) Bài viết tiếng Pháp

[1972d] “L’opinion publique n’existe pas”, Les Temps Modernes, no 318, p. 1292-1309.

[1975e] “La spécificité du champ scientifique et les conditions sociales du progrès de la raison”, Sociologie et sociétés, vol. 7, no 1, p. 91-118.

[1976a] “Le sens pratique”, ARSS, no 1, p. 43-86.

[1976c] “Le champ scientifique”, ARSS, no 2-3, p. 88-104.

[1977e] “Sur le pouvoir symbolique”, Annales. Économies, Sociétés, Civilisations, vol. 32, no 3, p. 405-411.

[1980a] “Le capital social. Notes provisoires”, ARSS, no 31, p. 2-3.

[1981a] “La représentation politique. Éléments pour une théorie du champ politique”, ARSS, no 36-37, p. 3-24.

[2013a] “Séminaires sur le concept de champ, 1972-1975”, ARSS, no 200, p. 4-37.

Nguồn: Dictionnaire international Bourdieu, Paris, CNRS Éditions, 2020.

----

Bài có liên quan:




Chú thích:

[1] Franck Poupeau và Julien Duval, thành viên ban biên tập từ điển, cũng như Pascale Casanova, Christophe Charle và Patrick Champagne, thành viên ủy ban khoa học, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc xuất bản những tác phẩm chưa được xuất bản này.

Print Friendly and PDF