BÍ ẨN CỦA Ý THỨC CHO THẤY CÓ LẼ CÓ MỘT GIỚI HẠN CHO NHỮNG GÌ MÀ KHOA HỌC TỰ NÓ CÓ THỂ ĐẠT ĐƯỢC
![]() |
Nguồn ảnh: Anton Jankovoy |
Sự tiến bộ của khoa học trong 400 năm qua thật đáng kinh ngạc. Ai có thể nghĩ ta có thể lần theo dấu vết lịch sử vũ trụ của chúng ta tới tận những khởi nguồn của nó cách đây 14 tỷ năm? Khoa học đã giúp ta kéo dài tuổi thọ và làm tăng chất lượng cuộc sống của mình, và công nghệ vốn từng giống với vị thế của ma thuật đối với tổ tiên ta nay đã trở nên bình thường trong thế giới hiện đại.
Vì tất cả những lý do này và nhiều lý do khác, khoa học được ca tụng và tôn kính một cách chính đáng. Tuy nhiên, một thái độ lành mạnh ủng hộ khoa học không giống với “thuyết duy khoa học” |scientism|, tức quan niệm cho rằng phương pháp khoa học là cách duy nhất để xác lập chân lý |truth|. Khi vấn đề về sự nhận thức được bộc lộ, có lẽ có một giới hạn cho những gì ta có thể học được nếu chỉ đi qua mỗi con đường khoa học.
Có lẽ hình thức của thuyết duy khoa học được sử dụng nhiều nhất là phong trào đầu thế kỷ XX có tên gọi là thuyết thực chứng logic. Những nhà thực chứng logic luận đồng ý với “nguyên tắc có thể chứng thực” |verification principle|, theo đó một câu mà tính đúng của nó không thể được kiểm nghiệm thông qua việc quan sát và những cuộc thực nghiệm thì hoặc là tầm thường về mặt logic hoặc là vô ý nghĩa. Với vũ khí này, họ hy vọng sẽ gạt bỏ tất cả mọi câu hỏi siêu hình học không chỉ sai mà còn vô nghĩa.
Ngày nay, thuyết thực chứng logic hầu như bị các triết gia bác bỏ hoàn toàn. Trước hết, thuyết thực chứng logic mang tính tự hủy hoại chính nó, vì ta chẳng thể kiểm nghiệm về mặt khoa học chính nguyên tắc có thể chứng thực, và do đó nó chỉ có thể đúng nếu nó vô ý nghĩa. Quả thực, là có điều gì đó hệt như vấn đề này ám ảnh tất cả các hình thức không đủ tiêu chuẩn của thuyết duy khoa học. Chẳng có cuộc thực nghiệm khoa học nào mà ta có thể tiến hành để chứng minh rằng thuyết duy khoa học là đúng; và thế nên nếu thuyết duy khoa học là đúng, thì chân lý mà nó mang lại chẳng thể được xác lập.
Bất chấp tất cả những vấn đề chuyên sâu này, phần lớn xã hội cho rằng thuyết duy khoa học là đúng. Hầu hết mọi người ở vương quốc Anh hoàn toàn chẳng hề hay biết rằng “siêu hình học” diễn ra ở hầu hết các bộ môn triết học trong cả nước. Khi đề cập tới siêu hình học, các triết gia chẳng có ý nói đến bất cứ điều gì ma quái hay siêu nhiên cả; đây đơn thuần là thuật ngữ kỹ thuật chỉ sự tìm tòi triết học, trái với sự tìm tòi khoa học, về bản chất của thực tại.
Tìm kiếm chân lý mà không cần khoa học dẫn lối
Làm sao ta có thể tìm hiểu thực tại mà không cần tiến hành hoạt động khoa học? Điểm đặc biệt của các triết thuyết là chúng “tương đương về mặt thực nghiệm”, nghĩa là bạn chẳng thể phân định giữa chúng bằng một cuộc thực nghiệm.
Hãy lấy ví dụ về lĩnh vực nghiên cứu của tôi: triết học về ý thức. Một số triết gia cho rằng ý thức xuất hiện từ các quá trình vật lý trong não – đây là luận điểm “duy vật lý luận” |physicalist|. Những triết gia khác lại nghĩ ngược lại: ý thức là chính yếu, còn thế giới hữu hình xuất phát từ ý thức. Một phiên bản của quan niệm này là quan niệm “toàn tâm luận” |panpsychist| cho rằng ý thức đi sâu vào các khối cơ bản của thực tại, gốc rễ của từ này bắt đầu từ hai từ tiếng Hy Lạp là pan (tất cả) và psyche (linh hồn hoặc thần trí |mind|).
Những người khác lại cho rằng cả ý thức lẫn thế giới hữu hình đều là những yếu tố cơ bản song lại khác biệt hoàn toàn – đây là quan niệm của “nhà nhị nguyên luận”. Quan trọng là bạn chẳng thể phân biệt giữa các quan niệm này bằng một cuộc thực nghiệm, bởi vì, đối với bất kỳ dữ liệu khoa học nào, mỗi quan niệm đều sẽ diễn giải dữ liệu đó theo cách của riêng chúng.
Ví dụ, giả sử ta khám phá ở phương diện khoa học rằng một dạng thức hoạt động não nào đó có mối tương quan với sự trải nghiệm có ý thức của một thể hữu cơ |organism|. Nhà duy vật lý luận sẽ diễn giải điều này như một hình thức tổ chức [não] biến các quá trình vật lý không có ý thức – như tín hiệu điện giữa các tế bào não chẳng hạn – thành trải nghiệm có ý thức, trong khi nhà toàn tâm luận sẽ diễn giải nó như một hình thức tổ chức [não] thống nhất các hạt riêng lẻ có ý thức thành một hệ có ý thức lớn hơn. Vì thế, ta tìm thấy hai cách diễn giải triết học rất khác nhau về cùng một dữ liệu khoa học.
![]() |
Liệu các hạt có ý thức hay không? Nguồn ảnh: D-VISIONS/Shutterstock |
Nếu không thể tìm ra quan niệm nào là đúng đắn bằng một cuộc thực nghiệm, thì làm sao ta có thể phân định [chọn ra quan niệm nào là đúng] giữa chúng? Trên thực tế, quá trình chọn lọc [các quan niệm này] chẳng khác mấy so với những gì ta tìm thấy trong khoa học. Giống như việc bị thu hút vào dữ liệu thực nghiệm, các nhà khoa học cũng bị thu hút vào các phẩm tính lý thuyết của một lý thuyết, chẳng hạn như nó có tính đơn giản, trang nhã và được thống nhất ra sao.
Các triết gia cũng có thể viện dẫn tới các phẩm tính lý thuyết để biện minh cho luận điểm ưa thích của họ. Ví dụ, những cân nhắc về tính đơn giản dường như chống lại lý thuyết nhị nguyên luận về ý thức, vốn kém đơn giản hơn so với các lý thuyết đối trọng của nó ở chỗ nó đặt ra 2 loại chất cơ bản – chất vật lý và ý thức – trong khi thuyết duy vật lý và thuyết toàn tâm cả hai cũng đơn giản như nhau khi chỉ đặt ra một loại chất cơ bản (hoặc là chất vật lý hoặc là ý thức).
Cũng có thể có vài lý thuyết không mạch lạc, song lại theo những phương thức tinh tế, điều này đòi hỏi ta phải phân tích kỹ lưỡng để làm sáng tỏ. Ví dụ, tôi đã lập luận rằng quan niệm duy vật lý luận về ý thức là không mạch lạc (mặc dù - giống như nhiều quan niệm khác trong triết học - điều này gây tranh cãi).
Chẳng có gì đảm bảo rằng những phương pháp này sẽ mang lại một thắng lợi rõ ràng cho một quan niệm nhất định. Có thể là đối với một vài vấn đề triết học cần bàn thảo, có nhiều lý thuyết đối trọng, mạch lạc và đơn giản như nhau, trong trường hợp đó, ta nên là một nhà bất khả tri luận để nhận định lý thuyết nào là chuẩn xác. Bản thân điều này chính là một phát hiện triết học quan trọng liên quan tới những giới hạn của tri thức con người.
Triết học có thể gây nản lòng vì có quá nhiều điểm bất đồng đến thế. Tuy nhiên, điều này cũng đúng trong nhiều lĩnh vực của khoa học, chẳng hạn như sử học hay kinh tế học. Và có một số câu hỏi mà chúng ta đạt được sự đồng thuận khiêm tốn, chẳng hạn, về chủ đề ý chí tự do.
Xu hướng trộn lẫn triết học với phong trào phản khoa học đang gia tăng đã làm suy yếu mặt trận thống nhất chống lại sự phản đối thực sự và gây hại đối với khoa học mà ta tìm thấy trong các thuyết âm mưu phủ nhận tình trạng biến đổi khí hậu và chống vắc-xin.
Dù muốn hay không, ta chẳng thể né triết học. Khi ta gắng làm như vậy, tất cả những gì xảy ra là ta kết thúc với triết học tồi tệ. Dòng đầu tiên của cuốn sách Đại Thiết kế [The Grand Design] của Stephen Hawking và Leonard Mlodinow đã liều lĩnh bày tỏ rằng: “triết học đã chết”. Sau đó, cuốn sách tiếp tục đắm chìm trong vài cuộc thảo luận triết học cực kỳ thô thiển về ý chí tự do và tính khách quan.
Nếu tôi viết một cuốn sách trình bày những tuyên bố gây tranh cãi về vật lý hạt, thì nó sẽ bị chế giễu một cách chính đáng, vì tôi chưa được đào tạo về các kỹ năng liên quan, chưa đọc tài liệu và chưa có những quan niệm nào của tôi trong lĩnh vực này chịu sự theo dõi chặt chẽ của các đồng nghiệp. Tuy nhiên, có rất nhiều ví dụ về những nhà khoa học không được đào tạo về triết học nhưng lại xuất bản các cuốn sách rất kém về những chủ đề triết học mà không tác động tới uy tín của họ.
Điều này có thể nghe có vẻ cay đắng. Nhưng tôi thực sự tin rằng xã hội sẽ trở nên phong phú hơn nhiều nếu ta am tường hơn về triết học. Tôi hy vọng rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ vượt qua giai đoạn lịch sử này “mang đặc trưng của thuyết duy khoa học” và hiểu được vai trò hệ trọng của cả khoa học lẫn triết học trong dự án cao cả là tìm câu trả lời cho câu hỏi thực tại là như thế nào.
Các từ khóa: Triết học, Khoa học, Ý thức, Giáo dục chính mình
Tác giả
Phó Giáo sư Triết học, Đại học Durham [Anh quốc]
Phát biểu công khai
Philip Goff đã nhận được tài trợ từ Quỹ Templeton.
Nguyễn Việt Anh dịch
Source: The mystery of consciousness shows there may be a limit to what science alone can achieve, The Conversation, Mar 15, 2024.