3.10.25

Cách mạng văn hoá của Donald J. Trump

CÁCH MẠNG VĂN HOÁ CỦA DONALD J. TRUMP

Tác giả: Michel Bonnin

Có phải Trump đang làm như Mao?

Chúng tôi đã đề nghị một trong những chuyên gia lớn về cách mạng văn hoá Trung Quốc xem xét nghiêm túc về tình hình tương tự.

Kết quả thật đáng lo ngại.

Hình ảnh: Knowledge Bennett, “Mao Trump”, 2016 © The Know Contemporary

Những tuần đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai của Donald Trump với tư cách là tổng thống của nước Mỹ đã nhanh chóng gây ra một cảm giác về những điều đã từng thấy nơi những người có hiểu biết về Cách mạng văn hoá của Mao.

Các mạng xã hội Trung Quốc vội vàng khuếch đại những sự tương tự này, thường là trong một tinh thần châm biếm.

Lúc đầu, những nét tương đồng này dường như không có thật – vì sự khác biệt quá lớn giữa Trung Quốc cộng sản những năm 1960-1970 và nước Mỹ của Donald Trump giữa thập niên 2020.

Tuy nhiên, những sự tương đồng này là rất rõ ràng.

Một số thức giả đã mô tả sự tương đồng về tâm lý giữa Trump và Mao vào đầu nhiệm kỳ tổng thống thứ nhất của Trump[1].

Nhưng kể từ năm 2025, sự đối chiếu với Cách mạng văn hoá Trung Quốc còn được khẳng định một cách mạnh mẽ hơn vì nhiều lý do.

Trong cả hai trường hợp, ta chứng kiến một dạng đảo chính gây ra bởi một người lãnh đạo chống lại hệ thống chính trị mà người đó là lãnh đạo tối cao – cái mà ta gọi trong tiếng Tây Ban Nha là autogolpe, có nghĩa là một cuộc đảo chính tự lật đổ[2].

Mặt khác, nhiệm kỳ thứ hai của Trump nhấn mạnh nhiều hơn nhiệm kỳ thứ nhất các vấn đề ý thức hệ - chính thuật ngữ “cách mạng văn hoá” đã được các cố vấn của Trump trực tiếp sử dụng.

Print Friendly and PDF

1.10.25

Albert Einstein, Từ những năm sau của đời tôi ra mắt

ALBERT EINSTEIN, Từ những năm sau của đời tôi

Out of my later years/Aus meinen späten Jahren

Sách mới ra mắt Tháng 9, 2025 tại IRED Books & Nxb Tri Thức

VỚI SỰ TÀI TRỢ CỦA VIỆN VĂN HÓA GOETHE THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Xuân Xanh chủ trương và cùng dịch với Đỗ Thị Thu Trà

Với Tiểu luận Dẫn nhập và Tiểu sử Einstein viết mới đặc biệt dành cho bản tiếng Việt

Cay đắng và ngọt ngào đến từ bên ngoài, sự cứng cỏi đến từ bên trong, từ những nỗ lực của chính mình. Tôi chủ yếu đã làm những gì bản chất tự nhiên của tôi thôi thúc. Thật hỗ thẹn khi vì điều đó mà nhận được quá nhiều sự kính trọng và yêu thương. Những mũi tên thù ghét cũng được bắn về phía tôi; nhưng chúng chưa bao giờ trúng đích, vì theo nghĩa nào đó, chúng thuộc về một thế giới khác mà tôi không có chút liên quan.

Tôi sống trong cô đơn, điều từng là đau đớn khi còn trẻ, nhưng lại ngọt ngào trong những năm tháng trưởng thành.

— Albert Einstein

Trong tất cả các gương mặt có tiếng tăm trong xã hội mà tôi biết được thì Einstein là người đã chiếm được trọn vẹn sự ngưỡng mộ trong tim tôi. …Einstein không những là một nhà khoa học vĩ đại, ông còn là một con người vĩ đại. Ông đấu tranh cho hoà bình trong một thế giới đang tiến dần về chiến tranh. Ông vẫn thánh thiện trong một thế giới điên loạn, và phóng khoáng trong tư duy trong một thế giới của những người cuồng tín.

Einstein không những là nhà khoa học có năng lực nhất của thế hệ ông. Ông còn là – điều không phải là đương nhiên – một người hiền.

Einstein là con người tuyệt vời. Mặc cho tài năng và tên tuổi, ông vẫn luôn luôn vô cùng khiêm tốn. Mỗi một yêu sách cho mình siêu việt là xa lạ với ông. Không bao giờ tôi thấy ở ông một dấu hiệu dù là nhỏ nhất của sự hám danh hay ganh tị, những tật xấu mà ngay những bộ óc vĩ đại như Newton và Leibniz cũng mắc phải.

— Bertrand Russell

Einstein đã làm việc với tất cả sức lực cho đến hết đời mình. Trong những ngày cuối cùng của ông, gương mặt ông mệt nhọc. Tất cả những gì ông cần phải dâng hiến cho những lý tưởng của mình thì ông đã hiến dâng, và trong số đó có lý tưởng vĩ đại nhất trong tất cả lý tưởng mà vì nó ông đã leo lên rất cao, cái đỉnh cao tuyết phủ kia, nơi mà ánh sáng rực rỡ của nó hôm nay tỏa sáng hơn bao giờ hết: “Một giấc mơ hài hòa toàn diện của sự tồn tại”.

Ông không còn thuộc về một quốc gia nào, nhóm người nào, thời đại nào nữa, mà thuộc về tất cả những người bạn của tương lai. Einstein hầu như không còn thuộc về Einstein nữa. Ông thuộc về thế giới.

— John Wheeler

Print Friendly and PDF

29.9.25

Cỗ máy siêu phàm

CỖ MÁY SIÊU PHÀM

Tương lai với trí tuệ nhân tạo

Tác giả: Simon Book, Angela Gruber, Marc Hasse, Max Hoppenstedt, Martin Schlak – SPIEGEL Số 37/2025.
Biên dịch: Tôn Thất Thông.

Giới thiệu: Nhiều đại gia công nghệ như Google, Meta…, đang đánh trống thổi kèn, quảng cáo rằng “siêu trí tuệ nhân tạo” hiện đang ở trong tầm tay. Có thực như thế không, hay chỉ là tự quảng cáo để nâng quyền lực thị trường? Mô hình ”ma thuật” họ dùng là “mạng lưới nơ-ron nhân tạo”. Trong lúc đó, chuyên gia về khoa học thần kinh, giáo sư Jie Mei của đại học Linz, Áo thì mỉa mai: “chúng là một sự đơn giản hóa thô thiển so với bản gốc”. Bài biên khảo sau đây hé mở nhiều điều lý thú.

***

Các tập đoàn công nghệ muốn tạo ra một trí tuệ nhân tạo cấp cao hơn. Nó được kỳ vọng sẽ giải quyết các vấn đề lớn của nhân loại và trở thành một trợ lý toàn năng cho mỗi chúng ta. Trong khi đó, các nhà phê bình lo ngại rằng một AI như vậy có thể trở nên không thể kiểm soát được.

A person standing on top of a finger

AI-generated content may be incorrect.

Print Friendly and PDF

27.9.25

AI: Trung Quốc có đang vượt qua Hoa Kỳ không?

AI: TRUNG QUỐC CÓ ĐANG VƯỢT QUA HOA KỲ KHÔNG?

Các cuộc phỏng vấn của mục Puissances de l'IA

Tác giả: Gilles Gressani Victor Storchan

Andrew Ng - Một loạt sai lầm chiến lược do Nhà Trắng gây ra và động năng của hệ sinh thái Trung Quốc có thể đã làm giảm đáng kể lợi thế của Hoa Kỳ so với Trung Quốc trong cuộc đua trí tuệ nhân tạo.

Câu trả lời từ Andrew Ng[*], một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực nghiên cứu AI.

Yang Yongling, “Parallel Metropolis, Coney Island 极乐岛”, 2024 © Yang Yongliang Studio”

Bài phỏng vấn này là một phần trong loạt đóng góp gần đây của Ng, đặc biệt ba bài viết được đăng trên blog trên mạng DeepLearning.AI (số 312 ra ngày 30 tháng 7, số 306 ra ngày 18 tháng 6 và số 303 ra ngày 28 tháng 5 năm 2025). Bằng cách nhấp vào từng số, bạn có thể truy cập phiên bản đầy đủ bằng tiếng Anh.

----------------------------------------------

Trong cuộc đua trí tuệ nhân tạo, Hoa Kỳ có còn dẫn đầu không?

Còn, nhưng nếu tiếp tục đà phát triển hiện tại, Trung Quốc rất có thể sẽ vượt qua họ.

Hiện tại, Hoa Kỳ vẫn còn dẫn trước một bước. Nhưng trong thế giới khởi nghiệp, điều đó không có ý nghĩa gì nhiều: chúng ta biết rằng thời cơ/momentum là yếu tố quyết định, và một đội ngũ nhỏ, năng động có thể trở thành một thế lực không thể ngăn cản chỉ trong vài năm.

Cho dù cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều là những gã khổng lồ, nhưng những gì đang diễn ra ở đây không khác biệt nhiều: được thúc đẩy bởi một hệ sinh thái mã nguồn mở năng động, hệ thống Trung Quốc hoạt động trong một môi trường siêu cạnh tranh, nơi tri thức lan tỏa nhanh chóng, và có những đột phá mạnh mẽ trong cả thiết kế và sản xuất chất bán dẫn - mang lại cho hệ thống nguồn năng lượng đáng kể giữa những sai lầm tự gây ra của chính quyền Hoa Kỳ.

Print Friendly and PDF

25.9.25

Ông Chiến sĩ Erwin Borchers

Ông Chiến sĩ Erwin Borchers

Nguyễn Xuân Thọ

1. Tái ngộ

Đầu năm 1968, chúng tôi vừa học xong sáu tháng tiếng Đức, bắt đầu vào học nghề điện tử ở trường Bưu điện Königs Wusterhausen, Cộng hòa Dân chủ Đức thì bỗng một hôm có hai chị em người Đức đến thăm bọn tôi ở ký túc xá. Lúc này chúng tôi mới sang được hơn nửa năm, tiếng còn ú ớ nên vớ được hai chị em đều giỏi cả tiếng Đức và tiếng Việt thì rất mừng.

Hai chị em đó là Claudia, tên Việt là Việt Đức, và cậu em trai Hansi, tên Việt là Đông Quân, con ông Erwin Borchers, một người Đức từng chiến đấu cho Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Ông được phong hàm trung tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, mang tên Việt là Nguyễn Chiến Sĩ. Ông rất thích cái tên này vì “Chiến Sĩ” dịch ra tiếng Đức là “Kämpfer”, bên cạnh cái ý nghĩa người lính còn là người chiến đấu vì một điều gì đó. Ông lấy vợ Việt Nam và cả sáu người con của ông đều sinh ra ở đó. Năm 1966, gia đình ông hồi hương về CHDC Đức. Khi ở Việt Nam, Claudia học phổ thông ở trường cấp ba Kim Liên, cùng lớp với chị Kim Dung trong đoàn chúng tôi. Nhận được thư của Kim Dung, hai chị em Claudia đến trường tôi trên Đồi Điện tín (Funkerberg) để thăm.

Ba tôi khi làm việc ở Việt Nam Thông tấn xã (VNTTX) có biết ông Chiến Sĩ Erwin Borchers. Từ cuối những năm 1950 ông đã ra khỏi Quân đội Nhân dân Việt Nam, trở thành phóng viên thường trú hãng thông tấn ADN (Allgemeiner Deutscher Nachrichtendienst) của CHDC Đức tại Hà Nội. Vì gia đình tôi ở ngay trong cơ quan VNTTX, số 5 Lý Thường Kiệt, nên tôi có lần thấy ông đến thăm. Vào những năm 1960 ở Việt Nam có hai ông nhà báo nước ngoài mà người Việt đều gọi là ông Bớc-Sét, đó là nhà báo Đức Erwin Borchers và nhà báo Úc Wilfred Burchett, nên tôi hay nhầm lẫn. Tôi cũng đã nhìn thấy cả hai ông đến thăm VNTTX ở số 5 Lý Thường Kiệt mà không nhớ ông Bớc-Sét nào là ông Chiến Sĩ.

Vậy nên khi Claudia và Hansi đến thăm chúng tôi ở Königs Wusterhausen, tôi chợt thấy cậu Hansi có khuôn mặt khá giống một ông Bớc-Sét mà tôi từng nhìn thấy.

Claudia ngồi chơi với nhóm các bạn nữ. Còn đám con trai thì rủ cậu Hansi sang phòng câu lạc bộ để tán dóc, vì thấy cu cậu vừa láu cá kiểu Việt Nam vừa chững chạc kiểu con Tây. Hansi nói tiếng Việt như gió và phát âm tiếng Đức chẳng khác gì đám bạn Đức trong ký túc xá. Thế là đám con trai chúng tôi bám lấy hắn để hỏi về các từ bậy bạ trong tiếng Đức mà bà giáo không bao giờ dạy. Hansi lúc đó mới 13 tuổi nhưng đã rời Việt Nam sang Đức hai năm, lại có bố người Đức nên vốn từ “đen” khá nhiều, đáp ứng được sự tò mò của đám thanh niên Việt đang bí đủ thứ. Sau khi hỏi được những từ “hiếm” dành cho việc trai gái, thằng Châu chỉ vào cặp mắt cận thị lòi trố của tôi và hỏi Hansi: “Mắt như thằng này tiếng Đức gọi sao?”

“Froschaugen (mắt con ếch).”

“Thế còn cái mũi tẹt của nó?”

“Plattnase!”

Cả bọn cười bò.

Hơn nửa thế kỷ sau, nhờ mạng xã hội và bạn bè, tôi lại kết nối được với Claudia Borchers, hiện là một họa sĩ đang sống và sáng tác ở Berlin. Giữa tháng 9/2024, chúng tôi hẹn gặp nhau cùng một số bạn bè tại một quán ăn Việt Nam ở quận Weissensee, Berlin.

Họa sĩ Claudia Borchers (thứ hai từ phải sang) cùng tác giả (ngoài cùng bên phải) và bạn bè tại Berlin, tháng 9/2024

Sau 56 năm, Claudia không thay đổi mấy ngoài những dấu ấn của tuổi tác. Chị nói tiếng Việt vẫn chuẩn, không pha chút giọng nào của người Âu. Chị kể, sau mấy chục năm ở Đức, chị đã chuyển tư duy bằng tiếng Việt sang tiếng Đức, nhưng đếm và tính nhẩm vẫn bằng tiếng Việt. Claudia vẫn nhớ đến cái tên Bản Mù, Thái Nguyên nơi chị sinh ra. Tôi tra bản đồ Google thì thấy mấy nơi mang tên Bản Mù. Nếu gọi là Bản Mù vì quanh năm lúc nào cũng sương mù thì ở Việt Bắc chắc có nhiều nơi như vậy.

Print Friendly and PDF

23.9.25

Khủng hoảng gia tăng: khoa học có thể giúp những người ra quyết định công vụ như thế nào

KHỦNG HOẢNG GIA TĂNG: KHOA HỌC CÓ THỂ GIÚP NHỮNG NGƯỜI RA QUYẾT ĐỊNH CÔNG VỤ NHƯ THẾ NÀO

Tác giả:

John N. Lavis

Giáo sư, chủ nhiệm Nghiên cứu Canada 

về Hệ thống Hỗ trợ Chứng cứ, 

McMaster University

Mathieu Ouimet

Giáo sư Khoa học chính trị, Đại học Laval

Hành động của chính phủ khi đối mặt với những khủng hoảng ngày càng gia tăng phải được làm sáng tỏ bởi những dữ liệu chứng cứ. La Presse canadienne/Ryan Remiorz

Nhà ở, khí hậu, chi phí sinh hoạt, sức khoẻ… Tình hình trầm trọng đến nỗi một thuật ngữ mới trở nên thịnh hành để mô tả nhiều cuộc khủng hoảng liên kết với nhau mà thế giới đang đối mặt: “khủng hoảng đa chiều” (polycrise)

Báo cáo về các rủi ro tổng thể năm 2023 của Diễn đàn kinh tế thế giới xác định đó là “toàn bộ các rủi ro tổng thể liên kết với nhau mà các hiệu ứng cộng dồn lại khiến cho tác động tổng thể vượt hơn tổng cộng các thành phần rủi ro”.

Báo cáo mô tả khủng hoảng chi phí sinh hoạt là rủi ro toàn cầu gần nhất ngay trước mắt, và khủng hoảng khí hậu là mối đe doạ lớn nhất trong tương lai mà thế giới phải đối mặt.

Hãy thêm vào đó sự phân cực xã hội và chính trị ngày càng tăng (càng ngày càng được dung dưỡng bởi những chiến dịch thông tin sai lệch), sự cạn kiệt nguồn dự trữ thực phẩm và năng lượng, tăng trưởng kinh tế thấp, cùng với những xung đột và rối loạn địa chính trị đang gia tăng, và chúng ta có môt thế giới đang bên bờ thảm hoạ.

Print Friendly and PDF

21.9.25

Về một số mục liên quan đến giai cấp trong Từ điển quốc tế về Bourdieu

VỀ MỘT SỐ MỤC LIÊN QUAN ĐẾN GIAI CẤP TRONG TỪ ĐIỂN QUỐC TẾ VỀ BOURDIEU:

CLASSES/CLASSIFICATION 

[LOẠI-GIAI CẤP-GIAI TẦNG/PHÂN LOẠI]

Ở cấp độ lịch sử, chương trình về một xã hội học về các phân loại (classification) tập thể tìm thấy điểm khởi đầu chính trong xã hội học của Durkheim, và cụ thể hơn là trong bài viết của Émile Durkheim và Marcel Mauss “Về một số hình thức phân loại nguyên thủy/De quelques formes primitives de classification” [1903]. Hai tác giả khảo sát “nguồn gốc” của logic (phân loại), của các loại và các thao tác của logic này, lấy “chức năng phân loại” làm đối tượng, tức là “quá trình bao hàm việc phân loại các sinh vật, các biến cố, các sự kiện của thế giới thành các thể loại và các loài, để bao hàm chúng trong những nhóm, để xác định mối quan hệ bao gồm hoặc loại trừ chúng” [Durkheim và Mauss 1903: 2]. Họ muốn chứng minh rằng những “nhóm sự vật” này, tức là các “loại” không phải là những phạm trù tự nhiên của trí tuệ con người mà là một sự kiện xã hội, nghĩa là sản phẩm của một sự “giáo dục” vốn “tự nó là kết quả của một sự phát triển mang tính lịch sử”; và rằng chúng không phải là sự phản ánh của “sự phân loại có trước của các sự vật” dựa trên đó các sự phân chia giữa con người được đồ lại mà, ngược lại, là sản phẩm của sự phóng chiếu lên thế giới của các phạm trù phát sinh từ những sự phân chia xã hội [Durkheim và Mauss 1903: 5, 67]. Chương trình này sau đó đã trải qua những phát triển và cải cách đáng kể trong nhân học, đặc biệt được minh chứng qua cuốn La Pensée sauvage/Tư tưởng hoang dã của Claude Lévi-Strauss [Lévi-Strauss 1962; Keck 2004].

Phân loại tập thể như một đối tượng

Việc nghiên cứu các phân loại tập thể được hiểu theo nghĩa trên, hay nghiên cứu về điều mà Pierre Bourdieu thường gọi phổ biến hơn là “sự xếp hạng (classement)”, chiếm vị trí trung tâm trong toàn bộ các công trình của ông, từ “ngôi nhà Kabyle” [Esquisse d’une théorie de la pratique: 61- 82] đến La domination masculine, sau khi đánh giá thị hiếu (La Distinction) hoặc “các hình thái phân loại trong trường học”, chủ đề của phần đầu tiên của La Noblesse d’Etat [xem thêm PB 1975g]. Bourdieu thậm chí còn coi “sự quan tâm của mình đến các cấu trúc nhận thức, các nguyên tắc phân loại và hoạt động phân loại của các tác nhân xã hội” là một trong những yếu tố chính của sự liên tục giữa các tác phẩm đầu tiên của ông về Algérie với những tác phẩm dành cho trường học và xã hội Pháp [Choses dites: 34]. Giống như Mauss và Durkheim mà chương trình lý thuyết được ông xem là gần gũi với công trình nghiên cứu về các hình thái biểu tượng do Ernst Cassirer phát triển [ví dụ: PB 1977e; Di: 545-546; Sur L’État: 262], Bourdieu, qua đó, đã giới thiệu một mối quan hệ phê phán với thuyết tiên nghiệm của Kant, vì sự xếp hạng không phải là “một hệ thống các hình thái và phạm trù phổ quát mà là một hệ thống các sơ đồ vốn, hình thành trong quá trình lịch sử tập thể, lại được thủ đắc trong suốt lịch sử “cá thể” [Di: 545]. Là sản phẩm và biểu hiện của sự phân chia xã hội mà chúng chính đáng hóa bằng cách đồng hóa, các hệ thống xếp hạng này “ít nhiều đề cập một cách kín đáo đến những sự đối lập cơ bản nhất của trật tự xã hội”, sự đối lập giữa “kẻ thống trị và người bị thống trị”, và sự đối lập “giữa hai nguyên tắc thống trị, hai quyền lực, […] thế tục và tinh thần, vật chất và trí tuệ, v.v.” [Di: 547]. Dù chúng là sản phẩm của lịch sử chứ không phải là những phạm trù của hiểu biết phổ quát, nhưng việc xếp hạng các tác nhân vẫn dựa trên “một tập hợp các sơ đồ nhận thức cơ bản”, chung cho “tất cả các tác nhân của một hình thái xã hội nhất định”, “là sản phẩm” của sự sáp nhập các cấu trúc cơ bản” của hình thái xã hội này [Di: 546]. Do đó, chúng là một trong những vectơ chính của điều mà Bourdieu, tiếp theo Durkheim, gọi là “sự sáp nhập logic” và “sự sáp nhập đạo đức” của xã hội [SÉ: 265]. Là một uyển ngữ diễn đạt những đối lập xã hội cơ bản nhất, đặc biệt là “giữa các giai cấp, nhóm tuổi và giới tính” [Di: 544], các hệ thống xếp hạng có thể được nắm bắt thông qua “các cặp tính từ đối kháng thường được sử dụng để xếp hạng và định tính con người hoặc đồ vật trong hầu hết các lãnh vực khác nhau của thực tiễn” [Di: 546], vốn thiết lập mối quan hệ giữa hàng loạt đối lập bằng một quan hệ tương tự [Le Sens Pratique: 146-148]. Do đó, việc tổ chức “căn nhà Kabyle” bộc lộ một hệ thống những biểu tượng trong đó “lửa” và “nước” đối lập nhau như “chín” và “sống”, “cao” và “thấp”, “ánh sáng” và “bóng tối”, “ngày” và “đêm”, “nam tính” và “nữ tính”, “văn hóa” và “thiên nhiên”, “ngôi nhà” và “thế giới bên ngoài”, v.v. [“La maison ou le monde renversé” trong Esquisse d’une théorie de la pratique: cụ thể là 68-69]. Nếu sự quan tâm đến các việc xếp hạng là một cách để sáp nhập vào sự phân tích thế giới xã hội những kiến ​​thức mà các tác nhân có được về thế giới này, thì Bourdieu vẫn nhấn mạnh vào tính sáp nhập của chúng và vào các hình thức thường là phi ngôn ngữ của các biểu hiện và các phương thức thủ đắc của chúng [SP: 125-126]. Đây là lý do tại sao đôi khi ông thích chỉ định những cấu trúc nhận thức cấu thành tập tính như là những “sơ đồ phân loại” hơn là những “hệ thống xếp loại”, dành thuật ngữ sau cho các phân loại dựa trên “các nguyên tắc rõ ràng và được phối hợp rõ ràng” như các nguyên tắc của diễn ngôn khoa học hoặc triết học [Di: 550]. Đây cũng là điều khiến ông thích, trong bài “La Production de l’idéologie dominante”, viết cùng với Luc Boltanski, hình thức từ điển như một phương thức trình bày: “Chỉ riêng việc thay thế sự tiếp nối nhau thường là hỗn loạn những chủ đề và biến thể […] bằng một chuỗi “các lập luận có thứ bậc và được tổ chức” có thể làm biến mất những gì là đặc trưng bất biến của việc áp dụng không liên tục một số nhỏ những sơ đồ phát sinh” [PB 1976b: 5]. 

Print Friendly and PDF

19.9.25

Từ Adam Smith đến Ludwig Erhard (Trò chuyện với A. Smith phần III)

TỪ ADAM SMITH ĐẾN LUDWIG ERHARD

Cuộc trò chuyện với Adam Smith Phần III

Nguyễn Xuân Xanh

Tượng Adam Smith được xây dựng vào năm 1867–1870 tại trụ sở cũ của Đại học London, số 6 Burlington Gardens (Wiki)

Lời nói đầu

Tiêu đề Từ Adam Smith đến Ludwig Erhard nghe có vẻ “giật tít” một chút, nhưng tôi muốn có một bài khảo luận với nội dung phù hợp như thế. Ludwig Erhard được xem người thực hiện thể chế Kinh tế thị trường xã hội (Soziale Marktwirtschaft) một mô hình kinh tế đặc biệt ở những phần đất sau này gọi là Cộng hòa Liên Bang Đức thời hậu chiến. Ông là Bộ trưởng Kinh tế từ năm 1949 đến năm 1963, một giai đoạn mà sự tăng trưởng kinh tế hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ như một hiện tượng thần kỳ, mặc dù ông không nhận cách gọi như thế. Ông cũng giữ chức Phó Thủ tướng từ năm 1957 đến năm 1963 trước khi chính thức trở thành Thủ tướng Đức. Park Chung Hee từng nghiên cứu mô hình kinh tế Đức và đã đến Đức hai lần trong những năm 1960 để ký kết các thỏa thuận hợp tác kinh tế và quân sự với Đức.

Nhưng trước nhất, cuộc trò chuyện với Adam Smith xin tiếp tục bắt đầu bằng một số chủ đề khác, như quan điểm của Adam Smith đối với giới công nhân lao động, và giới doanh nghiệp tư nhân.

Tôi viết bài này trong thời gian eo hẹp, xin bạn độc cảm thông nếu thấy nó còn luộm thuộm.

Nguyễn Xuân Xanh

Print Friendly and PDF

17.9.25

Trump có đẩy Modi vào vòng tay Tập Cận Bình? Hiểu về sự xích lại gần nhau giữa Trung Quốc và Ấn Độ

TRUMP CÓ ĐẨY MODI VÀO VÒNG TAY TẬP CẬN BÌNH? HIỂU VỀ SỰ XÍCH LẠI GẦN NHAU GIỮA TRUNG QUỐC VÀ ẤN ĐỘ

Trung Quốc đã thắng một trận chiến ngoại giao mấu chốt vào mùa hè này.

Trong khi Modi sẽ gặp Tập Cận Bình vào cuối tuần này, Bắc Kinh đang thành công trong việc ép buộc Ấn Độ trở thành đồng minh của mình - phá vỡ cơ sở chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Washington.

Trong một nghiên cứu sâu sắc, Christophe Jaffrelot xem xét nguyên nhân của sự xích lại gần nhau dưới hình thức từ bỏ.

Tác giả: Christophe Jaffrelot[*]

--------------------------------------

Năm mùa hè trước, quan hệ Trung-Ấn đã rơi vào một trong những cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ cuộc chiến năm 1962 đã dẫn đến việc Trung Quốc xâm chiếm một phần vùng Jammu và Cachemire.

Sau những cuộc giao tranh giáp lá cà giữa binh lính Trung Quốc và Ấn Độ tại Thung lũng Galwan vào tháng 6 năm 2020, khiến 20 binh sĩ Ấn Độ thiệt mạng, chính phủ Ấn Độ đã áp đặt một thủ tục đặc biệt đối với tất cả đầu tư nước ngoài từ một quốc gia láng giềng - thực chất là nhắm vào Trung Quốc - khiến thị thực cho du khách Trung Quốc giảm mạnh và cấm gần 60 ứng dụng và trang web của Trung Quốc. Các cuộc đàm phán giữa quân đội hai nước, thông qua đó Ấn Độ hy vọng sẽ giành lại ít nhất một số lãnh thổ bị Trung Quốc chiếm đóng, đã kéo dài mà không mang lại kết quả nào.

Print Friendly and PDF

15.9.25

Kỷ Nhân sinh chia rẽ cộng đồng khoa học

KỶ NHÂN SINH CHIA RẼ CỘNG ĐỒNG KHOA HỌC

Jan Piotrowski

Giáo sư địa chất học kỷ Đệ tứ

Đại học Aarhus và Đại học Nicolaus Copernicus de Toruń (Ba Lan)

Michel Magny

Giám đốc nghiên cứu danh dự CNRS, phòng thí nghiệm Chrono-environnement

Erle Ellis

Giáo sư Địa lý và các hệ thống môi trường, Đại học Maryland

Tóm tắt

  • Khái niệm kỷ Nhân sinh nói đến một thời kỳ địa chất mới, với đặc điểm bị tác động quan trọng và tổng thể của hoạt động của con người trên hành tinh.
  • Năm 2023, một nhóm nghiên cứu về kỷ Nhân sinh đã ấn định mốc ranh giới địa tầng toàn cầu giữa hai thời kỳ địa chất - còn gọi là “clou d’or”: mốc vàng - vào năm 1952, trong trầm tích của hồ Crawford ở Canada, đặc biệt là do các dấu ấn hạt nhân.
  • Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi bởi cộng đồng khoa học, nhưng nó gây tranh luận trong địa chất học và đã bị Uỷ ban quốc tế về địa tầng học bác bỏ.
  • Trong những lý do bác bỏ, có sự khó khăn của việc xác định một cách chặt chẽ điểm khởi đầu của kỷ Nhân sinh và mốc ranh giới địa tầng toàn cầu được đề xuất không đáp ứng các tiêu chuẩn của thang thời gian địa chất.
  • Tuy nhiên, khái niệm này vẫn còn được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là vì nó nhấn mạnh đến hành động cấp bách để đối phó với biến đổi khí hậu và chỉ rõ một xã hội mà những biến đổi tổng thể của hành tinh là do con người gây ra.

Thuật ngữ này có mặt khắp nơi: từ Trường Kỷ Nhân sinh ở Lyon (École de l’Anthropocène) đến tập bản đồ của Viện Địa lý Quốc gia[1] (Institut national de l'information géographique et forestière -IGN-) và cho đến cả hai tạp chí khoa học[2] chuyên biệt, tất cả mọi người – kể cả các nhà khoa học – đều dùng khái niệm kỷ Nhân sinh. Thời kỳ địa chất mới này được đặc trưng bởi một dấu ấn quan trọng và tổng thể của nhân loại trên hành tinh. Nhưng thuật ngữ này không được chính thức công nhận. Vào tháng ba năm 2024, Uỷ ban quốc tế về địa tầng học – tổ chức đảm nhận trách nhiệm xác định thang thời gian địa chất – đã bác bỏ việc chính thức thêm vào một thời kỳ địa chất mới[3]. Do đó chúng ta vẫn còn trong kỷ nguyên Holocène một cách chính thức, từ 11.700 năm nay. Quyết định này đã không khép lại cuộc tranh luận trong cộng đồng khoa học.

Print Friendly and PDF