HỒI ỨC ĐẾN
TƯƠNG LAI
của TRẦN VĂN
THỌ
MỘT LUỒNG GIÓ MỚI

Tôi
sinh ra ở nông thôn miền Trung, một trong những vùng nghèo của đất nước. Thời
tôi còn nhỏ, thập niên 1950 và 1960, cha mẹ, bà con và hàng xóm ai cũng đầu tắt
mặt tối, vất vả ngoài đồng ruộng. Mùa đông gió rét mặc không đủ ấm, mùa hè nóng
không ngủ được. Qua sách vở, tôi cũng thấy những hình ảnh đó ở hầu hết các vùng
khác của đất nước.
Từ nhỏ,
tôi biết nhiều nhạc khúc ca tụng đồng quê, nhưng phần lớn nói lên cuộc sống
nghèo khó của người dân Việt Nam. Những ca khúc như Nắng lên xóm nghèo, Quê
nghèo, Tình nghèo, v.v. đều phản ánh tình trạng đó. Tôi luôn mong đất nước sẽ
phát triển, người dân được sống ấm no, hạnh phúc. Tôi nghĩ mong ước đó cũng thể
hiện lòng yêu quê hương đất nước một cách cụ thể. Thời trung học, đọc tiểu thuyết
Đoạn tuyệt của Nhất Linh, qua suy nghĩ của nhân vật Dũng, tôi bắt gặp một định
nghĩa về lòng yêu nước rất phù hợp với mục tiêu phát triển cần có của Việt Nam
lúc ấy: “Chiều hôm ấy, Dũng như cảm thấy tâm hồn của đất nước, mà biểu hiện cho
đất nước ấy không phải là những bậc vua chúa danh nhân, chính là đám dân hèn
không tên không tuổi. Dân là nước. Yêu nước chính là yêu chung đám thường dân,
nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân”. Đây là định nghĩa về lòng yêu nước rất
hay, rất thiết thực, in sâu vào tâm trí tôi, cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ gần
như nguyên văn.
—Trần Văn Thọ
![]() |
Trần Văn Thọ tại một buổi họp mặt ăn tối và làm văn nghệ tại TP Hồ Chí Minh |
Sau hơn mười ngày giới thiệu tác
phẩm Hồi ức đến Tương lai, tác giả Trần Văn Thọ đã gặt hái liên tiếp
những thành công nức lòng có lẽ ngoài sức tưởng tượng. Cộng đồng cảm thấy một
luồng gió mới thổi qua Việt Nam. Chỉ trong hai tuần, sách anh đã bán hết. Nhiều
tờ báo đưa tin rất tích cực và có những bài điểm sách rất hay.
Một sự tình cờ hay hẹn hò âm thầm
từ lâu của người thành phố đối với anh Thọ? Phải chăng họ chờ đợi những “tráng
sĩ” thời đại mới của khoa học, kinh tế, văn hóa trở về tiếp sức? Phải chăng họ
đã nhìn Trần Văn Thọ như một mẫu người như thế? Anh đi du học từ miền Nam vào
những năm cuối của thập niên 1960 thuộc thế hệ đầu tiên. Sau nửa thế kỷ anh “trở
về” với bản sắc vẫn rất Việt Nam, càng Việt Nam hơn, càng yêu nước nồng nàn
hơn, nhưng không phải sự trở về với cánh đồng, con trâu và cái cày của Phạm
Duy, mà với quyển sách, biểu tượng của tri thức mà anh đã tích lũy nửa thế kỷ
qua tại nước người với định hướng cho Việt Nam.
Quyển sách của anh là một tác phẩm
khai sáng và của lòng yêu nước, cho thấy người Việt Nam có thể sống thế nào để
bản sắc văn hóa không bị lu mờ ở xứ người. Lòng tự trọng có lẽ đã đánh thức cuộc
sống nội tâm và ý chí vươn lên học hỏi, như lớp sinh viên Nhật Bản Minh Trị. Học
hỏi ngành chuyên môn cho đất nước, và văn hóa nước sở tại để làm phong phú thêm
văn hóa của mình. Trần Văn Thọ bảo anh “Có hai quê để về”. Tôi nghĩ nhiều hơn.
Anh cũng là “sản phẩm của hai nền văn hóa Việt-Nhật” trong sự hài hòa, nói như
nhà vật lý Mỹ-Trung giải Nobel Dương Chấn Ninh (C. N. Yang) nói.
Cụ Phan Châu Trinh từng trách
nghiêm khắc khi ông nói: “Hay là người mình như kẻ đã hư phổi rồi, cho nên một
nơi có thanh khí như nước Nhật mà cũng không thở nổi chăng?” Sau chuyến thăm Nhật
Bản đầu thế kỷ XX, cụ Phan kêu gọi người Việt hay nhanh chóng thay đổi văn
hóa để phát triển như người Nhật. Ông nhìn thấy sự chênh lệch quá lớn.
Nay hậu duệ Trần Văn Thọ cho thấy, có một người Việt Nam đã biết sống khác, và
hít thở khí trời trong lành của Nhật Bản để làm giàu cho văn hóa và tri thức
khoa học của mình, một người Việt Nam đạt tới status của giới tinh hoa Nhật Bản
về nghiên cứu kinh tế và lúc nào cũng đau đáu với vận mệnh của đất nước. Anh xuất
bản nhiều sách kinh tế, viết bài cho nhiều báo, góp ý cho nhà nước đều đặn ngay
từ thời khó khăn của Đổi mới. Trong Trần Văn Thọ tôi thấy bóng dáng của một
Phan Châu Trinh trẻ tuổi đã kiên trì truyền bá khai sáng, “khai dân trí, chấn
dân khí” nhiều thập niên liền. Chúng ta thua người Nhật Minh Trị về nhiều mặt,
trong đó quan trọng nhất là thiếu một tầng lớp trí thức khai sáng có lý tưởng
yêu nước nồng nàn, giàu trí tuệ, nhận ra vấn đề ở tầm vóc thế giới và nhìn thấy
con đường tất yếu phải đi, như Trần Văn Thọ hôm nay.
“Thế là tôi suy nghĩ về những điều kiện sâu xa hơn, cơ bản
hơn của phát triển, những điều kiện thuộc phạm trù văn hóa, tình tự, khát vọng,
hoài bão. Nghiên cứu trường hợp Nhật Bản, tôi rút ra một khái niệm tổng hợp nhất:
năng lực xã hội. Năng lực xã hội là năng lực và tố chất của
các nhân tố cấu thành xã hội, cụ thể là chính trị gia, quan chức, lãnh đạo kinh
doanh, trí thức và tầng lớp lao động. Mỗi nhân tố này phải có những tố chất nào
để thúc đẩy kinh tế phát triển. Dĩ nhiên, tố chất quan trọng của chính trị gia
là năng lực lãnh đạo, của quan chức là năng lực quản lý hành chính, của giới
kinh doanh là tinh thần doanh nghiệp. Nhưng trong trường hợp Nhật Bản, không phải
chỉ có các tố chất đó. Tôi nghiệm thấy rằng tố chất chung nhất của chính trị
gia, của quan chức, của nhà kinh doanh Nhật Bản là lòng yêu nước, lòng
tự hào dân tộc và phải là những người có văn hóa, có giáo dưỡng (nghiêng
được thêm vào). Tố chất này biểu hiện rất rõ qua những câu chuyện về lãnh đạo
chính trị, quan chức, và những nhà kinh doanh tiêu biểu thời Minh Trị, cũng như
thời phục hưng hậu chiến và khởi đầu giai đoạn phát triển thần kỳ 1955-1973.
— Trần Văn Thọ
Nhật Bản là đất nước từng sớm chọn Văn
minh-Khai sáng (Bunmei-Kaika) làm khẩu hiệu của đổi mới, của khát vọng
thực hiện “Khoa học phương Tây, Đạo đức phương Đông”, đẩy mạnh ngay công nghiệp
hóa, để bắt kịp phương Tây, điều mà thế hệ của cụ Phan Châu Trinh đã từng mơ ước.
Họ từng có một văn hóa đọc và giáo dục nổi tiếng thuộc hàng đầu thế giới, cũng
như nghệ thuật rất phát triển trong thời Edo (1615-1868) với vô số tác phẩm hội
họa nổi tiếng, như tấm bình phong hoa Diên Vĩ của Ogata Kōrin,
tấm bình phong Một trăm chàng trai trẻ của nghệ nhân Kano
Einō, hoặc Phong cảnh dưới ánh trăng của Kanō Tan’yū, Bộ mười
hai tập “Truyện tranh cuộn Yamanaka Tokiwa” của nghệ sỹ Iwasa Matabei, Ba
mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ của Katsushika Hokusai, Các tuyệt tác của
Utagawa Hiroshige như Cơn mưa bất chợt trên cầu, Tuyết buổi
tối ở Kanbara từ loạt tranh “Năm mươi ba chặn của (con đường)
Tōkaidō”, vân vân. Tất cả đều cực kỳ sáng tạo và lôi cuốn. Nghệ thuật thời Edo
của một Nhật Bản tỏa quốc, yên bình, với kinh tế, văn hóa thành thị, giáo dục,
nghệ thuật đều đồng loạt phát triển, là một kỳ quan. Thời gian đóng kín cửa 250
năm cũng là thời gian bừng dậy sức sống sáng tạo mãnh liệt nhất của dân tộc Nhật.
Từ đó chúng ta dễ hiểu sức sống mãnh liệt của giai đoạn Minh Trị khi đất nước mở
cửa phát triển toàn diện trện tất cả các lãnh vực khoa học, công nghệ, sản xuất,
kinh tế, văn hóa. (Xem bài Nghệ thuật thời kỳ Edo (1615-1868) và
bài Tại sao người Nhật mê đọc sách?)
Thời đổi mới Minh Trị, người Nhật
từng có tham vọng lớn bắt kịp nền văn hóa phương Tây “tạo dựng sự hài hoà của
hai nền văn hoá này và nâng cao nền văn minh phương Đông lên tầm cao của nền
văn hoá phương Tây để cho hai nền văn hoá cùng tồn tại trong hài hoà” như nhà
sáng lập Đại học Waseda Ōkuma Shigenobu tuyên bố, trường mà Trần Văn Thọ đã
nghiên cứu và giảng dạy nhiều thập kỷ. Sự thật họ đã thực hiện được những điều
kỳ diệu đó. Lịch sử của Nhật Bản là một chuỗi những thành tựu kỳ diệu. Trần Văn
Thọ là người đã trưởng thành trong nền văn hóa sáng tạo của Nhật Bản, và tiếng
nói của anh có ẩn chứa di sản đó.
Xin xem Phần 1: Hồi ức về Tương lai (Trần Văn Thọ. Phần 1)
![]() |
![]() |
Toàn cảnh buổi giới thiệu sách |
Tôi ao ước hàng triệu người Việt
đang làm ăn nhỏ trên đường phố, các shopkeepers, số phận bấp bênh, hãy đọc Hồi
Ức Đến Tương Lai của Trần Văn Thọ để tâm hồn ươm mầm hy vọng
rằng có một lối thoát nghèo bằng tri thức kinh tế, khoa học, công nghệ, để tiến
lên “dân giàu nước mạnh, dân chủ, văn minh”, là điều hoàn toàn có thể đạt được,
để tìm lại con người thiên phú, sống đúng theo calling của mình. Trời không
sinh ai trên, ai dưới, như nhà khai sáng Fukuzawa Yukichi một thế kỷ rưỡi trước
tuyên bố như một khẳng định sự bình đẳng và quyết tâm của dân tộc Nhật. Số mệnh
con người hoàn toàn do chính con người định đoạt, bằng ý chí, bằng con đường học
hỏi, làm giàu tri thức và đức hạnh. Không định mệnh nào bắt chúng ta phải lạc hậu,
nghèo nàn mãi nếu chúng ta không muốn. Họ sẽ thấy giá trị lao động của họ, gdp
của họ lớn hơn nhiều không phải nhỏ bé như hôm nay. Họ sẽ thấy bầu trời mở rộng
ra nhiều, không chật hẹp như hôm nay. Và kèm theo đó, cơ hội của họ mở rộng hơn
nhiều. “Trở ngại trên con đường cũng chính là con đường“,
như vị hoàng đế La Mã Marcus Aurelius viết trong tác phẩm Suy ngẫm của mình như
một sự chấp nhận thách thức của hoàn cảnh, Một dân tộc sinh ra là con cháu của
anh hùng, không thể để mình lạc hậu vì kém hiểu biết, thiếu dũng cảm để tự đổi
mới và vươn lên cất cánh. Dân tộc đó cần ý thức lại di sản tinh thần to lớn của
mình để ngẩng mặt đi tới, như một dân tộc có văn hóa, điều mà Trần Văn Thọ có lẽ
muốn truyền đạt qua tác phẩm của anh.
Dưới đây, chúng tôi giới thiệu
bài điểm sách trên báo “Theleader” viết rất công phu và xuất sắc, đi sát với
hành trình của Trần Văn Thọ. Xin cảm ơn tác giả Công Hiếu và báo Theleader:
‘Hồi ức đến
tương lai’ của giáo sư Trần Văn Thọ
Tác giả: Công Hiếu (TheLeader)
Cuốn sách “Hồi ức đến tương
lai” của GS. Trần Văn Thọ tái hiện hành trình ký ức, những trải nghiệm sống và
triết lý sống sâu sắc của một trí thức Việt Nam.
Trong hơn nửa thế kỷ sống và làm
việc tại Nhật Bản, GS. Trần Văn Thọ luôn mang theo một phần quê hương trong tâm
tưởng. “Hồi ức đến tương lai”, cuốn sách mới nhất của ông, là nơi những ký ức
cá nhân giao thoa với dòng chảy lịch sử – văn hóa Việt Nam và thế giới.
Đặc biệt, phần 1 cuốn sách – Nhớ
về ký ức mang dáng dấp của một hồi ký văn hóa, ghi lại hành trình hình thành
nhân cách và tư duy của một trí thức Việt kiều qua nhiều tầng lớp xã hội và trải
nghiệm.
Gia đình – Hạt nhân nhân cách
Trong “Hồi ức đến tương lai”, GS.
Trần Văn Thọ đã dành những trang đầu tiên để nói về gia đình – nơi ông coi là
“hạt nhân nhân cách” và nền tảng sâu xa dẫn dắt cả đời mình.
Qua hai chương “Ông nội tôi” và
“Người anh kết nghĩa”, người đọc có thể cảm nhận một cách rõ nét vai trò của
gia đình truyền thống Việt Nam trong việc nuôi dưỡng ý chí, hình thành lý tưởng
sống và bồi đắp tinh thần học tập bền bỉ.
Ông nội hiện lên như một biểu tượng
đạo đức, đại diện cho lớp trí thức Nho học cuối thời phong kiến – thanh liêm, mẫu
mực và luôn đặt việc học lên hàng đầu.
Dù cuộc sống vất vả, ông vẫn chắt
chiu từng đồng lo cho con cháu ăn học, không ngừng nhắc nhở về sự liêm chính và
lòng tự trọng.
Hình ảnh ấy đã in đậm trong tâm
trí cậu bé Thọ thuở nhỏ, trở thành kim chỉ nam suốt cuộc đời ông sau này – cả
khi sống, học và làm việc ở Nhật Bản.
Bên cạnh đó, câu chuyện về người
anh kết nghĩa, người bạn thân từ thuở niên thiếu, lại là minh chứng sống động
cho tinh thần vượt khó, gắn bó và chia sẻ trong cộng đồng làng quê Việt.
Trong bối cảnh chiến tranh, thiếu
thốn và chia cắt, hai anh em đã cùng nhau nuôi dưỡng ước mơ học tập, vượt lên
nghịch cảnh bằng sự hỗ trợ tinh thần lặng lẽ mà bền chặt.
Những kỷ niệm ấy không chỉ đơn
thuần là hoài niệm cá nhân, mà còn phản ánh rõ mối liên kết giữa văn hóa gia
đình và sự hình thành của một trí thức.
Gia đình theo GS. Trần Văn Thọ
không chỉ là nơi nuôi dưỡng thể chất, mà còn là cái nôi đạo đức và khởi điểm
cho hành trình tri thức.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay, ông cho rằng một người Việt dù đi xa đến đâu, làm việc ở môi trường nào, nếu
giữ được nền tảng nhân cách gia đình thì vẫn có thể đứng vững, phát triển và
đóng góp có trách nhiệm cho xã hội.
Văn chương và hành trình học
thuật từ những trang sách đầu đời
Trong “Hồi ức đến tương lai”, GS.
Trần Văn Thọ dành nhiều trang viết để gợi lại ký ức gắn liền với văn chương, từ
những bài Quốc văn đầu tiên ở trường làng, những trang thơ Đinh Hùng, cho đến
các tác phẩm của Tự lực Văn đoàn.
Đây không đơn thuần là những mảnh
ghép hoài niệm, mà là nền móng sâu xa hình thành nên tư duy học thuật, cảm xúc
thẩm mỹ và động lực vượt khó suốt cuộc đời ông.
Ngay từ nhỏ, ông đã sớm tiếp xúc
với sách vở như một người bạn thân thiết.
Trong hoàn cảnh đất nước còn
nghèo nàn, chiến tranh liên miên, việc đọc sách, nhất là sách văn chương, không
chỉ là thú vui, mà còn là nơi để tìm thấy hy vọng, khám phá thế giới và tự giáo
dục bản thân.
Đáng chú ý, tác giả dành sự trân
trọng đặc biệt cho các nhà văn Tự lực Văn đoàn – nhóm trí thức đầu thế kỷ XX chủ
trương duy tân văn hóa, khai phóng tư tưởng, và đề cao tinh thần tự lực, đúng
như tên gọi của họ.
Theo ông, những giá trị nhân văn,
độc lập và lý tưởng sống mà nhóm nhà văn này truyền tải đã ảnh hưởng sâu sắc đến
thế hệ thanh niên miền Nam trước 1975, trong đó có chính bản thân ông.
Những câu thơ, dòng văn ấy không
chỉ khơi gợi cảm xúc thẩm mỹ, mà còn gieo vào lòng người trẻ một loại “vốn văn
hóa nền tảng” – thứ hành trang đặc biệt quý giá cho hành trình học tập và hội
nhập về sau.
Bên cạnh tình yêu văn chương, phần
hồi ức này còn thể hiện rõ cách ông nhìn nhận văn học như một phần trong hành
trình học thuật.
Những cảm xúc đẹp đẽ từ thơ ca –
dù là thơ cũ, thơ mới hay thơ tân hình thức, giúp ông duy trì sự cân bằng giữa
tư duy lý tính và đời sống nội tâm. Chính sự hài hòa này tạo nên một con người
trí thức không chỉ giỏi nghiên cứu, mà còn biết sống sâu sắc, có chiều sâu văn
hóa.
Có thể nói, phần viết về văn
chương và ký ức học thuật trong “Hồi ức đến tương lai” đã gợi mở một mối liên hệ
đáng suy ngẫm: hành trình tri thức không bắt đầu từ phòng thí nghiệm hay hội
trường khoa học, mà khởi nguồn từ những trang sách giản dị, từ tình yêu đối với
cái đẹp và chân lý.
Âm nhạc và cảm xúc lưu đày
trong tâm hồn một trí thức xa xứ
Giữa những trang viết về ký ức
gia đình và hành trình học thuật trong “Hồi ức đến tương lai”, GS. Trần Văn Thọ
dành một phần đặc biệt để nói về âm nhạc, thứ ngôn ngữ không lời của cảm xúc,
nhưng lại có sức mạnh nâng đỡ tâm hồn xuyên suốt cuộc đời lưu lạc nơi đất
khách.
Ở đó, âm nhạc không chỉ là thú
thưởng thức cá nhân, mà còn là nơi neo giữ bản sắc, hoài niệm và những tầng sâu
văn hóa của một trí thức Việt xa quê.
Trong chương “Nhớ lại một thời
Bolero”, ông tái hiện không khí của thập niên 1960-1970, thời kỳ mà âm nhạc đại
chúng, đặc biệt là các tình khúc bolero, trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống người Việt miền Nam.
Những giai điệu ấy, tuy giản dị,
da diết, lại gắn liền với những năm tháng tuổi trẻ, nơi con người sống giữa những
bất định của chiến tranh nhưng vẫn giữ cho mình một vùng cảm xúc riêng, đầy mộng
mơ và nhân bản.
Với GS. Trần Văn Thọ, những bản
tình ca ấy là ký ức không thể thay thế. Dù đã sống tại Nhật Bản hơn nửa thế kỷ,
ông vẫn tìm nghe lại “Người yêu dấu ơi”, “Sương lạnh chiều đông” hay “Chiều mưa
biên giới” – như một cách giữ lấy chất Việt trong tâm hồn.
Đó không chỉ là âm nhạc, mà là lịch
sử cảm xúc, là chiếc cầu nối tinh thần giữa quê hương cũ và cuộc sống mới.
Cũng trong phần này, hình ảnh
dòng sông Kanda – một biểu tượng trong thi ca Nhật Bản – xuất hiện như một điểm
giao thoa giữa hai thế giới văn hóa.
Nếu âm nhạc Việt Nam là nơi lưu
giữ ký ức, thì văn hóa Nhật lại giúp tác giả tái cấu trúc cảm xúc, đưa hoài niệm
trở thành động lực sáng tạo.
Những bản giao hưởng Nhật – trầm
lặng, nội tâm – cùng với giai điệu cổ điển phương Tây, đã giúp ông hình thành một
không gian tinh thần đa chiều: vừa gắn bó với cội nguồn, vừa mở rộng biên độ thẩm
mỹ ra thế giới.
Dưới góc nhìn văn hóa, phần viết
về âm nhạc trong “Hồi ức đến tương lai” mang lại cho độc giả một thông điệp
quan trọng: cảm xúc không đối lập với lý trí, mà chính là nền tảng giúp con người
giữ được bản sắc trong quá trình toàn cầu hóa.
Âm nhạc, không chỉ nuôi dưỡng tâm
hồn mà còn giữ ông không đánh mất chính mình trong hành trình học thuật quốc tế
hóa kéo dài suốt hàng thập kỷ.
Với các nhà quản trị, những người luôn đứng giữa thực tiễn và chiến
lược, giữa tốc độ và áp lực – cuốn sách cho thấy một bài học giản dị nhưng sâu
sắc: muốn phát triển bền vững, không thể thiếu chiều sâu cảm xúc.
Và âm nhạc, chính là một trong những
nguồn lực tinh thần quan trọng, giúp con người trụ vững trong những giai đoạn
chênh vênh, cô đơn và đầy thử thách của cuộc sống toàn cầu.
Vượt khó để khai sáng và hành
trình của một con người mang hai quê hương
Nếu phần đầu của “Hồi ức đến
tương lai” tái hiện nền tảng gia đình và những cảm xúc nuôi dưỡng đời sống tinh
thần, thì những chương cuối lại hé mở một chiều sâu khác – nơi hình thành tinh
thần vượt khó, lý tưởng tri thức và tâm thế sống giữa hai quê hương.
Đó là hành trình vượt lên nghịch
cảnh không chỉ bằng nỗ lực cá nhân, mà bằng một đức tin vào giá trị học thuật
và một cam kết bền bỉ với đất nước – dù ở xa.
Trong chương viết về “Câu thơ hy
vọng vượt đại lục xuyên thế kỷ”, GS. Trần Văn Thọ không nói nhiều về những khó
khăn vật chất, bởi ông đã vượt qua chúng, mà tập trung khắc họa một hình ảnh ẩn
dụ đầy sức nặng: con người với chiếc balô tri thức, bước đi trong hành trình cô
đơn nhưng có mục tiêu rõ ràng.
Hành trình từ một làng quê ở Quảng
Nam sang Tokyo – nơi nền học thuật khắt khe và đầy cạnh tranh, không chỉ là
chuyến đi về không gian địa lý, mà còn là cuộc bứt phá về tư duy và giá trị.
Song song với đó, những chương
như “Tiếng thu Việt Nam và tiếng thu Nhật Bản”, hay “Một cảm nhận về thơ: Thơ
cũ, thơ mới, thơ tân hình thức” cho thấy một chiều sâu văn hóa đặc biệt trong
cách Giáo sư Trần Văn Thọ tiếp cận thế giới.
Dù tiếp xúc với văn hóa Nhật Bản
hiện đại, ông không để bản sắc cá nhân bị xóa nhòa, mà tìm thấy những điểm
tương đồng, từ đó phát triển một tư duy đa chiều nhưng không phân mảnh.
Thơ ca, vốn tưởng chỉ là ký ức thẩm
mỹ, đã trở thành công cụ giúp ông giữ lại sự lặng thầm nội tâm giữa những xô bồ
của học thuật và đời sống quốc tế.
Khi kể lại “Lần đầu viết sách,
báo tại Nhật Bản” và “Hai mươi năm với một tuần báo kinh tế”, độc giả hiểu rõ
hơn về con đường học thuật mà ông đã lựa chọn: không chỉ là nghiên cứu, mà còn
là truyền thông khoa học, phản biện chính sách, đối thoại liên văn hóa.
Từ một học giả, ông dần trở thành
người kiến tạo tri thức công, điều hiếm thấy ở thế hệ trí thức Việt học tập và
làm việc tại nước ngoài vào thời điểm ấy.
Tất cả được khép lại trong hai
chương ngắn nhưng đầy tính biểu tượng: “Một đầu xuân khai bút” và “Có hai quê
hương để về”.
Ở đó, “quê hương” không còn là
nơi chôn nhau cắt rốn hay địa chỉ hộ khẩu, mà là không gian tinh thần, nơi một
con người được nuôi dưỡng và nơi khác họ có thể phụng sự.
Với GS. Trần Văn Thọ, Việt Nam là
cội nguồn văn hóa, còn Nhật Bản là môi trường khai sáng. Ông không chọn một
trong hai, mà học cách gắn kết cả hai – để vừa không đánh mất bản sắc, vừa đóng
góp hiệu quả vào tiến trình phát triển.
Với bạn đọc là các nhà quản trị,
doanh nhân hay trí thức đương đại, phần kết của Phần I trong “Hồi ức đến tương
lai” gợi mở một thông điệp sâu sắc: muốn đi xa, phải có gốc rễ; nhưng muốn đi
đúng, phải có lý tưởng.
Và trong thế giới ngày càng liên
kết chặt chẽ, có “hai quê hương” – nếu biết cách – không phải là gánh nặng, mà
là một lợi thế để nhìn thế giới đa chiều, hành động trách nhiệm và sống một cuộc
đời rộng lớn hơn.
Bản gốc tại đây.
Nguồn bài đăng: Hồi ức đến Tương lai: Một luồng gió mới, rosetta.vn,
8 Tháng Sáu, 2025.
Bài có liên quan