21.9.25

Về một số mục liên quan đến giai cấp trong Từ điển quốc tế về Bourdieu

VỀ MỘT SỐ MỤC LIÊN QUAN ĐẾN GIAI CẤP TRONG TỪ ĐIỂN QUỐC TẾ VỀ BOURDIEU:

CLASSES/CLASSIFICATION 

[LOẠI-GIAI CẤP-GIAI TẦNG/PHÂN LOẠI]

Ở cấp độ lịch sử, chương trình về một xã hội học về các phân loại (classification) tập thể tìm thấy điểm khởi đầu chính trong xã hội học của Durkheim, và cụ thể hơn là trong bài viết của Émile Durkheim và Marcel Mauss “Về một số hình thức phân loại nguyên thủy/De quelques formes primitives de classification” [1903]. Hai tác giả khảo sát “nguồn gốc” của logic (phân loại), của các loại và các thao tác của logic này, lấy “chức năng phân loại” làm đối tượng, tức là “quá trình bao hàm việc phân loại các sinh vật, các biến cố, các sự kiện của thế giới thành các thể loại và các loài, để bao hàm chúng trong những nhóm, để xác định mối quan hệ bao gồm hoặc loại trừ chúng” [Durkheim và Mauss 1903: 2]. Họ muốn chứng minh rằng những “nhóm sự vật” này, tức là các “loại” không phải là những phạm trù tự nhiên của trí tuệ con người mà là một sự kiện xã hội, nghĩa là sản phẩm của một sự “giáo dục” vốn “tự nó là kết quả của một sự phát triển mang tính lịch sử”; và rằng chúng không phải là sự phản ánh của “sự phân loại có trước của các sự vật” dựa trên đó các sự phân chia giữa con người được đồ lại mà, ngược lại, là sản phẩm của sự phóng chiếu lên thế giới của các phạm trù phát sinh từ những sự phân chia xã hội [Durkheim và Mauss 1903: 5, 67]. Chương trình này sau đó đã trải qua những phát triển và cải cách đáng kể trong nhân học, đặc biệt được minh chứng qua cuốn La Pensée sauvage/Tư tưởng hoang dã của Claude Lévi-Strauss [Lévi-Strauss 1962; Keck 2004].

Phân loại tập thể như một đối tượng

Việc nghiên cứu các phân loại tập thể được hiểu theo nghĩa trên, hay nghiên cứu về điều mà Pierre Bourdieu thường gọi phổ biến hơn là “sự xếp hạng (classement)”, chiếm vị trí trung tâm trong toàn bộ các công trình của ông, từ “ngôi nhà Kabyle” [Esquisse d’une théorie de la pratique: 61- 82] đến La domination masculine, sau khi đánh giá thị hiếu (La Distinction) hoặc “các hình thái phân loại trong trường học”, chủ đề của phần đầu tiên của La Noblesse d’Etat [xem thêm PB 1975g]. Bourdieu thậm chí còn coi “sự quan tâm của mình đến các cấu trúc nhận thức, các nguyên tắc phân loại và hoạt động phân loại của các tác nhân xã hội” là một trong những yếu tố chính của sự liên tục giữa các tác phẩm đầu tiên của ông về Algérie với những tác phẩm dành cho trường học và xã hội Pháp [Choses dites: 34]. Giống như Mauss và Durkheim mà chương trình lý thuyết được ông xem là gần gũi với công trình nghiên cứu về các hình thái biểu tượng do Ernst Cassirer phát triển [ví dụ: PB 1977e; Di: 545-546; Sur L’État: 262], Bourdieu, qua đó, đã giới thiệu một mối quan hệ phê phán với thuyết tiên nghiệm của Kant, vì sự xếp hạng không phải là “một hệ thống các hình thái và phạm trù phổ quát mà là một hệ thống các sơ đồ vốn, hình thành trong quá trình lịch sử tập thể, lại được thủ đắc trong suốt lịch sử “cá thể” [Di: 545]. Là sản phẩm và biểu hiện của sự phân chia xã hội mà chúng chính đáng hóa bằng cách đồng hóa, các hệ thống xếp hạng này “ít nhiều đề cập một cách kín đáo đến những sự đối lập cơ bản nhất của trật tự xã hội”, sự đối lập giữa “kẻ thống trị và người bị thống trị”, và sự đối lập “giữa hai nguyên tắc thống trị, hai quyền lực, […] thế tục và tinh thần, vật chất và trí tuệ, v.v.” [Di: 547]. Dù chúng là sản phẩm của lịch sử chứ không phải là những phạm trù của hiểu biết phổ quát, nhưng việc xếp hạng các tác nhân vẫn dựa trên “một tập hợp các sơ đồ nhận thức cơ bản”, chung cho “tất cả các tác nhân của một hình thái xã hội nhất định”, “là sản phẩm” của sự sáp nhập các cấu trúc cơ bản” của hình thái xã hội này [Di: 546]. Do đó, chúng là một trong những vectơ chính của điều mà Bourdieu, tiếp theo Durkheim, gọi là “sự sáp nhập logic” và “sự sáp nhập đạo đức” của xã hội [SÉ: 265]. Là một uyển ngữ diễn đạt những đối lập xã hội cơ bản nhất, đặc biệt là “giữa các giai cấp, nhóm tuổi và giới tính” [Di: 544], các hệ thống xếp hạng có thể được nắm bắt thông qua “các cặp tính từ đối kháng thường được sử dụng để xếp hạng và định tính con người hoặc đồ vật trong hầu hết các lãnh vực khác nhau của thực tiễn” [Di: 546], vốn thiết lập mối quan hệ giữa hàng loạt đối lập bằng một quan hệ tương tự [Le Sens Pratique: 146-148]. Do đó, việc tổ chức “căn nhà Kabyle” bộc lộ một hệ thống những biểu tượng trong đó “lửa” và “nước” đối lập nhau như “chín” và “sống”, “cao” và “thấp”, “ánh sáng” và “bóng tối”, “ngày” và “đêm”, “nam tính” và “nữ tính”, “văn hóa” và “thiên nhiên”, “ngôi nhà” và “thế giới bên ngoài”, v.v. [“La maison ou le monde renversé” trong Esquisse d’une théorie de la pratique: cụ thể là 68-69]. Nếu sự quan tâm đến các việc xếp hạng là một cách để sáp nhập vào sự phân tích thế giới xã hội những kiến ​​thức mà các tác nhân có được về thế giới này, thì Bourdieu vẫn nhấn mạnh vào tính sáp nhập của chúng và vào các hình thức thường là phi ngôn ngữ của các biểu hiện và các phương thức thủ đắc của chúng [SP: 125-126]. Đây là lý do tại sao đôi khi ông thích chỉ định những cấu trúc nhận thức cấu thành tập tính như là những “sơ đồ phân loại” hơn là những “hệ thống xếp loại”, dành thuật ngữ sau cho các phân loại dựa trên “các nguyên tắc rõ ràng và được phối hợp rõ ràng” như các nguyên tắc của diễn ngôn khoa học hoặc triết học [Di: 550]. Đây cũng là điều khiến ông thích, trong bài “La Production de l’idéologie dominante”, viết cùng với Luc Boltanski, hình thức từ điển như một phương thức trình bày: “Chỉ riêng việc thay thế sự tiếp nối nhau thường là hỗn loạn những chủ đề và biến thể […] bằng một chuỗi “các lập luận có thứ bậc và được tổ chức” có thể làm biến mất những gì là đặc trưng bất biến của việc áp dụng không liên tục một số nhỏ những sơ đồ phát sinh” [PB 1976b: 5]. 

Các cuộc đấu tranh xếp hạng

Ngoài việc nhấn mạnh vào vai trò của cơ thể, việc Bourdieu tiếp tục chương trình của Durkheim và Mauss để nghiên cứu các phân loại tập thể không phải là không có sự chuyển dịch. Trong tiểu luận “Pour une praxéologie sociale”, là phần đầu của Invitation à la sociologie réflexive, Loïc Wacquant xác định cụ thể hơn bốn sự chuyển dịch: sự chuyển dịch của cách đặt vấn đề sang các xã hội bị phân hóa, sự vạch rõ các cơ chế qua đó “sự tương ứng giữa các cấu trúc xã hội và các cấu trúc tinh thần” được thiết lập, sự tích hợp của các cấu trúc xã hội và tinh thần này vào sự phân tích quyền lực biểu tượng, và sự quan tâm đến điều mà Bourdieu gọi là “các cuộc đấu tranh xếp hạng” [Wacquant 2014: 49-52]. Hai điểm cuối không phải là không liên quan đến điểm đầu tiên, điều mà chính Bourdieu nhấn mạnh: “Ngay khi chúng ta đặt những vấn đề nhận thức luận về xã hội của chúng ta, hệ thống giáo dục của chúng ta chẳng hạn, những vấn đề về lý luận nhận thức mà Durkheim đặt ra đối với các tôn giáo nguyên thủy trở thành những vấn đề chính trị; chúng ta không thể không thấy rằng các hình thức phân loại là những hình thức thống trị, rằng xã hội học nhận thức không thể tách rời một xã hội học của sự thừa nhận và nhận thức sai, tức là xã hội học của sự thống trị (có tính) biểu tượng” [CD: 35]. Đó là vì sự tương đồng giữa các phân chia xã hội và các sự xếp hạng được sáp nhập tạo thành một cơ chế mạnh mẽ để chính đáng hóa trật tự xã hội, và vì các sự xếp hạng này, và những sự “phán đoán quy kết” mà chúng là nền tảng, bằng cách phân định các tác nhân vào cùng một loại, cũng ấn định chúng vào một vị trí trong “sự phân bổ lợi ích và nghĩa vụ” [Di: 555]. Vấn đề là “Ai phân loại?”“và phải chăng “tất cả các sự phân loại, và do đó tất cả các tổ chức phân loại, đều có cùng trọng lượng xã hội” là rất quan trọng [Sociologie générale 1: 19]. Và vấn đề về mối quan hệ giữa sự xếp hạng do các tác nhân đưa ra và sự xếp hạng do các nhà xã hội học thiết lập không chỉ là một vấn đề nhận thức luận mà còn là một vấn đề chính trị [SG 1: 21-26].

Như vậy các cuộc đấu tranh xã hội cũng mang hình thái của cuộc “đấu tranh xếp hạng”, mỗi bên đấu tranh để áp đặt hệ thống phân loại có lợi nhất cho tính chất của mình hoặc xác định cho hệ thống xếp hạng thống trị nội dung phù hợp nhất để làm nổi bật về những gì bên mình có và bên mình là ai/gì [Di: 554]. Bourdieu nhấn mạnh, những cuộc đấu tranh này có thể liên quan đến chính những sự phân chia, ví dụ bằng cách đối lập các liên kết giai cấp với các liên kết quốc gia [Di: 559], hoặc đến việc sử dụng chúng, như được thể hiện qua các định nghĩa cạnh tranh nhau về tuổi trẻ và tuổi già [Di: 556 - 557; Questions de sociologie: 143-154]. Trong các xã hội bị phân hóa, Nhà Nước, có xu hướng tự coi mình là nắm độc quyền về bạo lực biểu tượng chính đáng, đóng một vai trò nổi bật, theo Bourdieu, trong việc tạo ra những sự xếp hạng, cũng như trong việc áp đặt những sự xếp hạng này lên toàn bộ xã hội. đặc biệt là thông qua các nghi thức định chế mà nó thực hiện và hệ thống trường học [: 262-269]. Khi tìm cách tập hợp xã hội học tri thức xuất phát từ Durkheim và các phân tích hệ tư tưởng lấy cảm hứng từ chủ nghĩa Marx hoặc Weber, xã hội học của Bourdieu do đó đã nỗ lực nắm bắt các sự xếp hạng ở cấp độ chúng được diễn đạt thành từ ngữ trong thế giới vi mô của trí tuệ, tôn giáo, chính trị hoặc hành chính, cũng như như trong trải nghiệm thông thường và trực tiếp nhất về thế giới xã hội, hoặc thông qua sự lưu chuyển hai chiều có thể xảy ra giữa hai cấp độ này [PB 1977e].

Mathieu Hauchecorne

Phó giáo sư khoa học chính trị ở l’Université Paris 8 Vincennes-Saint Denis

DURKHEIM É. et M. MAUSS, 1903, “De quelques formes primitives de classification: contribution à l’étude des représentations collectives”, L’Année sociologique, vol. 6, p. 1-72. – KECK F., 2004, Lévi-Strauss et la pensée sauvage, Paris, PUF. – LÉVI-STRAUSS C., 1962, La Pensée sauvage, Paris, Plon. – WACQUANT L., 2014, “Pour une praxéologie sociale. Structure et logique de la sociologie de Bourdieu”, in P. BOURDIEU et L. WACQUANT, Invitation à la sociologie réflexive, Paris, Seuil, p. 35-100.

AGENT(S), ALGÉRIE, ANALOGIE, BOLTANSKI, CASSIRER, CATÉGORIE(S), CIRCULATION, CORPS, DISTINCTION (LA), DOMINATION, DOMINATION MASCULINE (LA), DURKHEIM, ÉDUCATION, ENSEIGNEMENT, ÉTAT, FORME, GOÛT, HABITUS, HOMOLOGIE(S), IDÉOLOGIE, IMPOSITION, INCORPORATION, INTÉGRATION, INVITATION À LA SOCIOLOGIE RÉFLEXIVE, JEUNESSE, LÉGITIMATION, LÉVI-STRAUSS, LUTTE(S), MAISON, MARXISME, MAUSS, MÉCONNAISSANCE, NATURALISATION, NOBLESSE D’ÉTAT (LA), ORDRE SOCIAL, PERCEPTION, POUVOIR SYMBOLIQUE, PRATIQUE, RECONNAISSANCE, RITES D’INSTITUTION, SCHÈME(S), STRUCTURE(S), SYSTÈME, VIOLENCE SYMBOLIQUE, WEBER

Thư mục:

1972 [ETP] Esquisse d’une théorie de la pratique. Précédée de trois études d’ethnologie kabyle, Genève, Droz, rééd. Paris, Seuil, “Points”, 2000.

1979 [Di] La Distinction. Critique sociale du jugement, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une introduction, 1982.

1980 [SP] Le Sens pratique, Paris, Minuit, rééd. 1989.

1987 [CD] Choses dites, Paris, Minuit.

2012 [] Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.

[PB 1976b] “La production de l’idéologie dominante” (avec L. Boltanski), ARSS, no 2-3, p. 4-73. 

[PB 1977e] “Sur le pouvoir symbolique”, Annales. Économies, Sociétés, Civilisations, vol. 32, no 3, p. 405-411.

* * *

CLASSE(S) DOMINANTE(S) 

[(CÁC) GIAI CẤP THỐNG TRỊ]

Trong những năm 1960 và 1970, Pierre Bourdieu thường sử dụng thuật ngữ “giai cấp thống trị” để tập hợp lại, trong cùng một ngữ đoạn, các nhóm khác nhau vốn,”bất chấp sự khác biệt về hoàn cảnh nghề nghiệp và điều kiện kinh tế”, có chung một nền văn hóa [PB 1967c: 377]. Việc sử dụng thuật ngữ này cho phép ông không đề cập đến giới thượng lưu, một thuật ngữ ám chỉ truyền thống tự do hoặc bảo thủ. Mặc dù cụm từ “giai cấp thống trị” có thể gợi lên chủ nghĩa Mác, Bourdieu thường sử dụng nó ở số nhiều để tránh xa một hình thức duy kinh tế luận đồng hóa giai cấp thống trị và giai cấp tư sản kinh tế. Làm như vậy là để nhấn mạnh vai trò của vốn văn hóa trong sự tái sản sinh xã hội [La Reproduction] và do đó, các giáo sư, các cán bộ cao cấp của khu vực công, các ngành nghề tự do và các kỹ sư, cũng như các giám đốc điều hành của khu vực tư nhân và các ông chủ ngành công nghiệp và thương mại, cấu tạo thành các bộ phận của giai cấp thống trị [PB 1971g]. Họ được hưởng lợi từ mối quan hệ đặc quyền tương tự với định chế giáo dục vốn, dần dần theo con đường của sự tuyển lựa xã hội mà định chế vận hành, đào tạo và thừa nhận “những người được kêu gọi gia nhập giai cấp thống trị là nơi xuất thân của đa số trong họ” [PB 1981c: 3].

Tuy nhiên, các giai cấp thống trị vẫn cấu thành những không gian khác biệt. Trong các giai cấp này “sự giàu có về vốn kinh tế và sự giàu có về vốn văn hóa có xu hướng biến đổi theo chiều trái ngược nhau” [PB 1974b: 15]. Cấu trúc giao thòa này bao hàm những thực tiễn văn hóa, những cách chiếm hữu các tác phẩm nghệ thuật và những thế giới quan khác biệt. Các giai cấp thống trị cũng được phân cấp theo uy tín và quyền lực của chúng, tầng lớp trí thức đại diện cho thành phần bị thống trị, trong khi các ông chủ ngành công nghiệp hay các công chức cấp cao thuộc thành phần thống trị [PB 1978b]. Dưới gốc độ này, Bourdieu và Monique de Saint-Martin cho thấy rằng các giám mục chiếm một vị trí nghịch lý: “họ không hoàn toàn sở hữu quyền lực tinh thần thuần túy vốn là độc quyền của các nhà thần học và các nhà tu, cũng như quyền lực trần tục; họ không có quyền lực thực sự cũng như không có uy tín gắn liền với việc từ bỏ quyền lực” [PB 1982a: 45].

Bourdieu dần dần từ bỏ thuật ngữ “giai cấp thống trị” trong những năm 1980 nhường chỗ cho thuật ngữ ưa thích là “trường quyền lực”. Thứ nhất, bởi vì, sau La Distinction, ông đã phải xem lại cách ông quan niệm các giai cấp xã hội. Là sự xích lại gần nhau về mặt lý thuyết của các cá nhân ở những vị trí gần gũi trong không gian xã hội, các giai cấp chỉ có thể tồn tại với tư cách những nhóm được huy động nếu công tác chính trị và các thể chế cho phép điều đó [PB 1984a]. Tuy nhiên, “các bộ phận khác nhau của giai cấp thống trị [là] những tiểu trường cũng là những nơi diễn ra các cuộc đấu tranh, những cuộc đấu tranh giữa các bộ phận này với nhau để giành quyền lực” [Sociologie générale 1: 593]. Để phân tích quyền lực, khái niệm trường chắc chắn tốt hơn khái niệm giai cấp. Khái niệm trường du nhập về một quan niệm có tính quan hệ hơn là có tính nội tại Thật vậy, theo Bourdieu, chúng ta phải chuyển cái nhìn của các cá nhân và nhóm thực thi quyền lực sang các mối quan hệ khách quan được thiết lập giữa các vị trí mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh khó khăn về phương pháp luận của cách tiếp cận này: “phần lớn, chúng ta chỉ có thể nắm bắt các không gian xã hội dưới dạng phân phối các tính chất của các cá nhân, bởi vì thông tin có thể tiếp cận được gắn liền với các cá nhân” [Invitation à la sociologie réflexive: 290].

François Denord

Nhà nghiên cứu CNRS (CESSP)

BOURGEOISIE(S), CAPITAL CULTUREL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CHAMP, CHAMP DU POUVOIR, CHIASME, CLASSE(S) SOCIALE(S), DIFFÉRENCIATION, DISTINCTION (LA), ESPACE SOCIAL, FONCTIONNAIRE, GROUPE(S), HIÉRARCHIE, INDIVIDU(S), INSTITUTION(S), INTELLECTUEL(S), LUTTE(S), MARXISME, PATRONAT, POSITION(S), PROFESSEURS, RELATION(S) OBJECTIVE(S), RELATIONNELLE (APPROCHE), REPRODUCTION (LA), VISION DU MONDE

Thư mục:

2014 [ISR] Invitation à la sociologie réflexive (avec L. Wacquant), Paris, Seuil.

2015 [SG 1] Sociologie générale, vol. 1, éd. établie par P. Champagne, J. Duval, F. Poupeau et all., Paris, Raisons d’agir/Seuil, rééd. “Points”, 2019.

[PB 1967c] “Systèmes d’enseignement et systèmes de pensée, Revue internationale des sciences sociales, vol. 19, no 3, p. 367-388.

[PB 1982a] “La sainte famille. L’épiscopat français dans le champ du pouvoir (avec M. de Saint-Martin), ARSS, no 44-45, p. 2-53.

[PB 1981c] “Épreuve scolaire et consécration sociale. Les classes préparatoires aux Grandes Écoles, ARSS, no 39, p. 3-70.

[PB 1984a] “Espace social et genèse des classes, ARSS, no 52-53, p. 3-15.

* * *

CLASSE(S) MOBILISÉE(S) 

[(CÁC) GIAI CẤP ĐƯỢC HUY ĐỘNG]

Đối với Pierre Bourdieu, ý niệm giai cấp được huy động được đặt trong mối quan hệ của ông với phân tích mác xít về các giai cấp xã hội.

Thật vậy, theo Bourdieu, trước khi nói đến giai cấp, cần phải xây dựng không gian xã hội [Raisons pratiques: 53-54]. Trong không gian này, các tập hợp tương đối đồng nhất có thể được khoanh vùng (ngay cả khi đường viền của chúng vẫn còn mơ hồ do tính chất liên tục của việc phân bổ vốn). Đây là “các giai cấp trên giấy” và có thể là “các giai cấp có thể có” vì các thành viên của chúng chia sẻ điều kiện sống và do đó có khả năng tự huy động (hoặc được huy động thành công) cao hơn bất kỳ nhóm nào. Tuy nhiên, sự huy động không chắc chắn và không bao giờ mang tính tổng quát, sự gần gũi trong không gian cũng tạo ra các mối quan hệ cạnh tranh và đi đôi với những khác biệt nhỏ có khả năng cản trở sự đoàn kết (Le Sens Pratique: 238; PB 1984a: 4]. Theo nghĩa đen một “giai cấp được huy động” không thể nào tồn tại.

Điều có thể tồn tại – và có thể tồn tại trong trường hợp của “giai cấp công nhân” – là niềm tin mà giai cấp này là đối tượng. Khi sự phân tích mác xít nhìn thấy một thực tế có khả năng xảy ra, thì Bourdieu nói về một niềm tin xã hội mà sự hình thành phải được phân tích. Niềm tin là kết quả của hoạt động phát ngôn, luôn có phần tự xưng và của những chuyên gia về việc biểu trưng thế giới xã hội (kể cả các lý thuyết gia của các giai cấp) những người có lợi trong việc tin vào và trong việc chia sẽ niềm tin vào sự tồn tại của giai cấp. Do đó, “giai cấp được huy động” chỉ có thể tồn tại dưới hình thái của “một thực thể thần bí”. Biểu tình và các đoàn người tuần hành không chứng minh cho sự tồn tại của giai cấp, mà cho sự thành công của những người phát ngôn – vốn cũng không bao giờ kết hợp chỉ những tín đồ tin chắc nhất vào sự tồn tại của giai cấp [PB 1984a].

Để làm ví dụ cho lao động thực nghiệm về việc “chế tạo” một giai cấp, Bourdieu đề cập đến cuốn sách của Edward P. Thompson [2017] về giai cấp công nhân Anh.

Julien Duval

Giám đốc nghiên cứu CNRS (CESSP)

 THOMPSON E. P., 2017, La Formation de la classe ouvrière, trad. fr., Paris, Seuil, “Points” (1963).

CAPITAL, CLASSE(S) SOCIALE(S), CROYANCE, ESPACE SOCIAL, MARXISME, THOMPSON

Thư mục:

1994 [RP] Raisons pratiques. Sur la théorie de l’action, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 1996.

[PB 1984a] “Espace social et genèse des classes”, ARSS, no 52-53, p. 3-15.

* * *

CLASSE(S) MOYENNE(S) 

[(CÁC) TẦNG LỚP TRUNG LƯU]

Các thuật ngữ “các tầng lớp trung lưu” và “giai cấp tiểu tư sản” có cùng một tham chiếu vì các nhóm mà chúng chỉ định đều giống nhau (những doanh nhân độc lập nhỏ, những nhà quản lý cấp trung, v.v.). Chúng ta có thể nghĩ rằng, vì đều có tính bao trùm nên chúng có thể thay thế cho nhau. Tuy nhiên, ngay cả khi trong các bài viết mà ông chủ yếu đề cập đến giai cấp tiểu tư sản, Pierre Bourdieu chỉ giữ lại mục “các tầng lớp trung lưu” trong chỉ mục các cuốn sách của mình: đặc biệt đây là trường hợp của La Distinction, một tác phẩm chuẩn của ông về vấn đề giai cấp xã hội. Có nghịch lý hay thậm chí là mâu thuẫn ở đây không?

Câu trả lời là không, bởi vì về một trọng điểm liên quan đến việc phân tích không gian xã hội, Bourdieu chắc chắn không hề do dự hay phân vân. Thật vậy, những lý do có khả năng xảy ra nhất cho sự dao động giữa hai thuật ngữ này thuộc hai loại. Một số gắn với bối cảnh trình bày. Việc sử dụng “tầng lớp trung lưu” có ưu điểm là tương ứng với những cách sử dụng thông thường và do đó sẽ có nhiều cơ hội được hiểu bởi số lượng độc giả lớn nhất ở Pháp và ở nước ngoài. Hơn nữa, mô hình phân loại ba thành phần “thượng lưu, trung lưu, hạ lưu”, bởi vì nó được áp dụng khắp nơi, không dựa trên những tiền giả định nhất định và đáp ứng các ý định có tính tiết kiệm để mô tả, đặc biệt là để gợi lên các xu hướng chính, chẳng hạn như tỷ lệ sinh ở cấp độ tổng hợp cao. Nhưng khi tìm cách nêu bật sự đóng góp riêng của chính mình vào việc phân tích tầng lớp trung lưu, đặc biệt là với công chúng hiểu biết nhiều nhất về công việc của ông với tư cách là một nhà nghiên cứu và nhà lý luận, Bourdieu dễ dàng sử dụng các thuật ngữ “tầng lớp tiểu tư sản” và “con người tiểu tư sản”, những thuật ngữ xuất hiện trong các phân tích chi tiết dựa trên nhiều tài liệu thực nghiệm khác nhau (thống kê, phỏng vấn).

Những lý do khác cho việc sử dụng kép mang tính lý thuyết rõ ràng hơn. Nếu “tầng lớp trung lưu” có thể bị xem như một sự nhượng bộ đối với ngôn ngữ theo chủ nghĩa kinh nghiệm mà mọi người đều có thể hiểu được thì “tầng lớp tiêu tư sản” mang lại lợi ích về tính dễ hiểu trong việc xây dựng đối tượng. Trong khi thuật ngữ đầu tiên có nội dung thuần túy theo thứ tự (chúng ta đi từ trên xuống dưới qua giữa), thuật ngữ thứ hai lại được ghi nhận trong một quan niệm về không gian xã hội dựa trên khối lượng và cơ cấu vốn do các nhóm xã hội khác nhau nắm giữ. Về cơ bản, những nhóm này bao gồm giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản và các giai cấp bình dân và có thể được đặc trưng hóa dưới góc độ của sự thống trị và bạo lực mang tính biểu tượng. “Trung lưu” không chỉ đơn giản có ý nghĩa mô tả về mặt phân phối (thu nhập, trình độ học vấn), mà còn về mặt phân biệt: không phải là nhà tư sản, người tiểu tư sản chỉ có thể hy vọng trở thành tư sản, nhưng để làm được điều đó, anh ta cần nỗ lực, khổ hạnh, và do đó, và trong hiện tại anh ta chỉ là tư sản một cách tần tiện, ở một mức độ thấp. Thuật ngữ “tiểu tư sản” cho phép chúng ta đoạn tuyệt với chủ nghĩa kinh nghiệm vốn coi thuật ngữ năng động này là có nghĩa “trung bình” cả trong vị trí, chiến lược và khuynh hướng và có hàm nghĩa hai mặt, đôi chiều. Đây là lý do vì sao có thể có những “biến thể” của thị hiếu tiểu tư sản. “Cái tham vọng (prétention)” (hoặc, Bourdieu sửa lại, “sự căng thẳng có trước (pré-tension)”) là một nguyên tắc vừa mang tính khách quan vừa chủ quan không thể tách rời trong khả năng thấu hiểu được nhóm. Khung lý thuyết này giúp giải thích sự tập hợp được Viện thống kê và nghiên cứu quốc gia (INSEE) áp dụng khi tiến hành việc tập hợp trong danh mục tiểu tư sản: các doanh nhân vừa và nhỏ và các thợ thủ công được bao gồm trong nhóm này cùng với các viên chức, các nhà quản lý cấp trung, các kỹ thuật viên, các nhân viên y tế và xã hội.

Thật khó để xác định chính xác thời điểm đoạn tuyệt được thể hiện với việc sử dụng thuật ngữ “tiểu tư sản”. Trong các tác phẩm dành cho văn hóa [L’Amour de l’art, Un art moyen], các bảng thống kê sử dụng các thước đo thứ tự (cao, trung bình, thấp): mục đích là chỉ ra những quy luật liên quan đến xác suất của thực tiễn này hoặc thực tiẽn khác. Tuy nhiên, các phân tích tìm cách đi xa hơn bằng cách giải thích các nguyên tắc phát sinh của các thực tiễn này (tập tính) và bằng cách nêu bật các nét đặc trưng như “thiện chí văn hóa” (xin nhắc lại rằng vào năm 1979 thuật ngữ này đã cung cấp tiêu đề cho chương trong La Distinction dành cho các thành phần khác nhau của “giai cấp tiểu tư sản”). Ngay từ rất sớm, Bourdieu đã sở hữu những công cụ để tư duy về nhóm này (“óc thẩm mỹ của người nghèo” hay “óc thẩm mỹ trung bình”). Một thời điểm quan trọng trong tư duy phản tư để vạch rõ khái niệm này là bài viết “Tương lai giai cấp và quan hệ nhân quả có thể xảy ra” [PB 1974a] mà một phần dành cho giai cấp tiểu tư sản và sẽ được tích hợp vào phần cuốn La Distinction: mục tiêu của sự phân tích là giải thích tính đặc thù của một nhóm mà đặc trưng là “tham vọng của hiện thực” [Di: 388], phép biện chứng đặc biệt kỳ lạ và nghịch lý giữa xác suất khách quan và kỳ vọng chủ quan.

Louis Pinto

Giám đốc nghiên cứu CNRS (CESSP)

AMOUR DE L’ART (L’), BONNE VOLONTÉ CULTURELLE, BOURGEOISIE(S), CAPITAL, CATÉGORIE(S), CLASSE(S) SOCIALE(S), CLASSES POPULAIRES, CONSTRUCTION DE L’OBJET, CULTURE, DISPOSITION(S), DISTINCTION (LA), DOMINATION, ENTRETIEN(S), ESPACE SOCIAL, ESPÉRANCES, GOÛT, GROUPE(S), HABITUS, INSTITUT NATIONAL DE LA STATISTIQUE ET DES ÉTUDES ÉCONOMIQUES, PETITE BOURGEOISIE, POSITION(S), PRATIQUE, PRÉTENTION, PROBABILITÉ(S), RÉGULARITÉS, STATISTIQUES, STRATÉGIE(S), TITRE(S), UN ART MOYEN, VIOLENCE SYMBOLIQUE

Thư mục:

1965 [AM] Un art moyen. Essai sur les usages sociaux de la photographie (avec L. Boltanski, R. Castel et J.-C. Chamboredon), Paris, Minuit.

1969 [AA] L’Amour de l’art. Les musées d’art européens et leur public (avec A. Darbel), Paris, Minuit.

1979 [Di] La Distinction. Critique sociale du jugement, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une introduction, 1982.

[PB 1974a] “Avenir de classe et causalité du probable”, Revue française de sociologie, vol. 15, no 1, p. 3-42.

* * *

CLASSE(S) SOCIALE(S) 

[(CÁC) GIAI CẤP/GIAi TẦNG XÃ HỘI]

Xã hội học của Pierre Bourdieu coi trọng vấn đề giai cấp xã hội đến mức đôi khi nó dường như theo dõi một cách có hệ thống những biểu hiện thường ngày và vô hình nhất của cuộc đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, cách đọc này không nên làm lu mờ mối quan hệ đặc biệt, chắc chắn đã trải qua nhiều biến đổi theo thời gian, mà Bourdieu đã duy trì với khái niệm xã hội học về “các giai (tầng) cấp xã hội” theo nghĩa cổ điển của nó: ông đã sử dụng khái niệm này nhưng ông cũng đã xây dựng lại nó trong khuôn khổ của lý thuyết trường của ông, đến mức phát triển khái niệm ấy như là một khái niệm cạnh tranh với khái niệm “không gian xã hội”.

Tầm quan trọng của vị trí (địa vị) giai cấp

Trong những nghiên cứu đầu tiên của Bourdieu ở Algérie, khái niệm giai cấp ít được sử dụng, ít nhất là ít hơn ý niệm “nhóm”, vốn thể hiện một “xã hội truyền thống”, nơi mà sự phân biệt và các thứ bậc còn yếu và ít được định chế hóa. Mối quan hệ giữa quyền lực và sự thống trị vẫn giữ một chiều kích cá nhân mạnh mẽ và những người thống trị, vốn bị ràng buộc bởi nghĩa vụ phân phối lại nếu họ muốn duy trì quyền lực của mình, chỉ có khả năng rất hạn chế tích lũy vốn [Le Sens Pratique]. Trở lại Pháp, Bourdieu nhận thức được rằng từ nay mình làm việc trong một xã hội có giai cấp. Ngay cả khi thế giới nông thôn ở vùng Béarn thể hiện một số đặc điểm nhất định của “xã hội truyền thống”, thế giới này vẫn bị tác động bởi các mối quan hệ mà nó duy trì với lối sống và các giá trị thành thị. Xã hội nông dân trải nghiệm sự thống trị mang tính biểu tượng ngày càng mạnh hơn bao giờ hết trong nội bộ nội bộ xã hội Pháp, một sự thống trị sẽ biến nó (xã hội nông thôn) thành một hệ hình của điều mà Bourdieu gọi là “giai cấp đối tượng”, một giai cấp “không lên tiếng nhưng được nói đến” [PB 1977b].

Khái niệm giai cấp đóng một vai trò trung tâm không kém trong những nghiên cứu được thực hiện vào những năm 1960 tại Trung tâm Xã hội học Châu Âu (CSE). Tại trung tâm này giáo dục và văn hóa chủ yếu được phân tích thông qua sự đóng góp của chúng vào việc tái tạo sự bất bình đẳng giai cấp và tái sản sinh “một giai cấp có văn hóa”. Những nghiên cứu trên được xuất bản trong thời điểm của tiến trình dân chủ hóa giáo dục và của sự nâng cao mức sống chung vốn đã nuôi dưỡng những luận điểm mở đầu cho dự đoán về sự hòa tan của giai cấp công nhân trong một tầng lớp trung lưu rộng lớn. Bourdieu kết luận ngược lại về sức ỳ của sự bất bình đẳng giai cấp, mà trong trường hợp tốt nhất, chỉ bị chuyển đổi. Về mặt văn hóa, các phân tích của ông bộc lộ những trở ngại mà các chính sách dân chủ hóa nhất quán sẽ phải vượt qua và mâu thuẫn với chẩn đoán về sự ra đời của một “nền văn hóa đại chúng” sẽ đánh dấu sự kết thúc của “nền văn hóa có tính giai cấp”.

Trong tất cả các công trình này, giai cấp là một công cụ phân tích thực nghiệm. Sự bất bình đẳng giai cấp được làm nổi bật bằng các quan sát (ví dụ, sự lúng túng mà một số thành viên hiếm hoi của tầng lớp bình dân phải trải qua khi bước vào bảo tàng [L’Amour de l’art]), mà còn bằng số liệu thống kê xác lập sĩ số khác biệt của các giai cấp trong cộng đồng sinh viên hoặc trong công chúng của các viện bảo tàng hoặc tính toán các cơ hội tương phản mà các thành viên của các tầng lớp khác nhau có được để tiếp cận cấp độ này hoặc cấp độ kia của hệ thống giáo dục. Trong những năm 1960, các nhà nghiên cứu CSE nằm trong số những người sử dụng danh mục xã hội-nghề nghiệp (CSP) rất nhiều, do Viện Thống kê và Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (INSEE) thiết kế trong thập kỷ trước theo một cách có phần thủ công và dựa trên nền tảng lý thuyết chiết trung [Amossé 2013]. Các biến thống kê được kết hợp một cách có hệ thống với các biến CSP, được xem như một chỉ báo về sự thuộc về hay nguồn gốc giai cấp, nhưng đồng thời, trong giai đoạn phát triển của thống kê đa biến này, về giới tính, tuổi tác, nơi cư trú… Tuy nhiên, Bourdieu chỉ trích các phân tích xử lý CSP như bất kỳ biến “xã hội-dân số” nào khác. Ông coi đó là một cách để dễ dàng bảo vệ luận điểm sự không tồn tại vĩnh viển của các giai cấp xã hội. Đối với ông, giai cấp là một khái niệm có khả năng giải thích đặc biệt, đến mức nhất thiết, khi đối mặt với mối tương quan kém, phải tự hỏi liệu đó có phải là do (khái niệm) giai cấp bị thiết kế kém hay không. Chính phân tích xã hội học đã làm cho giai cấp trở thành một nhân tố đặc biệt, có khả năng diễn giải lại tất cả những nhân tố khác, hoặc thậm chí còn là nguồn thông tin phong phú nhất và có tính dự đoán cao nhất về thực tiễn của một cá nhân.

Đồng thời Bourdieu tiến hành một sự suy nghĩ lý thuyết trực tiếp hơn về khái niệm này. Từ giữa những năm 1960, ông đã nói về “vị trí giai cấp” để nhấn mạnh rằng một giai cấp không chỉ được xác định bởi các đặc tính về các điều kiện mà còn bởi vị trí của nó trong một cấu trúc, cấu trúc này phát triển theo thời gian [PB 1966f: 201]. Khi làm như vậy, ông đặc biệt khẳng định sự khác biệt với các cách tiếp cận theo tầng lớp phổ biến ở Hoa Kỳ trong những thập kỷ sau chiến tranh vốn, khi phân bổ các cá nhân trên một bậc thang, lại bỏ qua các mối quan hệ mà “tầng lớp” của họ duy trì với các yếu tố khác. Ông cũng xác định quan điểm trong các cuộc tranh luận xã hội học giữa truyền thống mác xít xác định các giai cấp theo vị trí của giai cấp trong quan hệ quyền lực kinh tế và truyền thống theo Weber nhấn mạnh sự tồn tại của “các nhóm địa vị” được đặc trưng bởi lối sống và “uy tín” của các nhóm này. Đối với Bourdieu, các giai cấp theo nghĩa mác xít và theo nghĩa các nhóm địa vị trên thực tế chỉ là “hai phương thức tồn tại của bất kỳ nhóm nào”. Max Weber có lẽ đúng khi tính đến các hiện tượng mang tính biểu tượng nhưng ông lại cho chúng một tự trị quá mức; “uy tín” cũng chỉ là một hình thức bị phủ nhận của vị thế kinh tế và các nhóm địa vị là “những giai cấp bị phủ nhận hoặc, nói một cách khác, được thăng hoa và do đó được chính đáng hóa” [PB 1966f; 1978a].

Trường các tầng lớp (giai cấp) xã hội

Trong những năm 1970, Bourdieu tiếp tục nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về các giai cấp xã hội, nhưng đồng thời phát triển lý thuyết trường của mình ngày càng rõ ràng hơn và chuyển sang các đối tượng mới, chẳng hạn như các quan điểm chính trị [Questions de sociologie: 222 -235] hoặc giới chủ nhân [PB 1978b]. La Distinction là một công trình tổng hợp đề xuất cả lý thuyết về các giai cấp xã hội lẫn thao tác xây dựng các giai cấp này. Nếu cuốn sách dựa trên sự phân tích các giai cấp được phát triển trong các nghiên cứu về giáo dục và văn hóa, thì nó cũng huy động các yếu tố về các thực tiễn kinh tế và chính trị, như để điều chỉnh những sự lệch lạc ​​của một công trình xây dựng mà chỉ dựa độc nhất trên các thực tiễn văn hóa. La Distinction làm sáng tỏ cấu trúc tam nguyên trong đó mỗi giai cấp (thống trị, trung lưu và bình dân) được chia thành các tầng lớp giai cấp. Các tầng lớp giai cấp tạo thành một khái niệm quan trọng và một số thuật ngữ được sử dụng để chỉ định chúng, chẳng hạn như “tầng lớp tiểu tư sản mới”, đã gây ra cuộc tranh luận rộng rãi [Lechien 2013]. La Distinction sử dụng số liệu thống kê, đặc biệt thông qua công cụ mới là phân tích các tương ứng, để xây dựng các tầng lớp xã hội, giống như “các tầng lớp thống kê”, vừa rất khác biệt và vừa rất đồng nhất. Việc thiết kế thực nghiệm các giai cấp đặt ra vấn đề về tiêu chí được sử dụng: Bourdieu, thay vì thiên về quan điểm mác xít nhấn mạnh vị trí trong quan hệ sản xuất, lại xác định giai cấp dựa trên các điều kiện tồn tại và tập tính của giai cấp [Di: 435 ff.].

Những hoạt động thực nghiệm này diễn ra trong suốt những năm 1970 [Saint-Martin 2013] giúp trình bày lại một cách hoàn thiện hơn các vấn đề được đặt ra trong những năm 1960. Ưu thế dành cho giai cấp có nghĩa là, không phải giới tính, tuổi tác, nguồn gốc xã hội hay nơi cư trú là không đáng kể, mà chúng có những hình thái khác nhau trong mỗi giai cấp xã hội. Hơn thế nữa, chúng là các yếu tố góp phần định nghĩa giai cấp hoặc tầng lớp giai cấp. Mối quan hệ giữa giai cấp với các yếu tố này giống như mối quan hệ giữa giới tính và loài [Di: 116-120]. Nghiên cứu thực nghiệm cũng dẫn đến việc đặt câu hỏi về CSP. Năm 1982, INSEE cũng tiến hành điều chỉnh lại danh mục này có tính đến sự phân tích các giai cấp được đề xuất trong La Distinction [Amossé 2013].

Trong La Distinction, sự phân tích các giai cấp xã hội cũng được tái thiết kế trong khuôn khổ của lý thuyết trường mà, chẳng hạn, tính chất “phân dạng” (fractal) thấm sâu vào cấu trúc được cập nhật: sự đối lập giữa những kẻ thống trị và những kẻ bị trị không chỉ tổ chức các giai cấp, mà mỗi giai cấp được chia thành các tầng lớp thống trị (chủ yếu sở hữu loại vốn thống trị là vốn kinh tế) và các tầng lớp bị thống trị (chủ yếu sở hữu loại vốn bị thống trị là vốn văn hóa). Khi nhìn lại, việc phân tích giai cấp thống trị được đề xuất trong La Distinction có thể được xem như là một bước trung gian giữa những phân tích đầu tiên về sự đối ngẫu tréo trong nội bộ các giai cấp thượng lưu [PB 1971g] và sự phân tích về trường quyền lực [La Noblesse d’État]. Tầng lớp trung lưu cũng được phân tích như là một trường tương đồng với trường quyền lực nhưng kém tự trị hơn. Các giai cấp có xu hướng hình thành các không gian trong đó các nhóm sở hữu khối lượng vốn gần như tương đương nhau được phân biệt dựa trên cấu trúc nhóm và quỹ đạo của các nhóm, khi trường các giai cấp xã hội được biểu thị như là “không gian xã hội”, một khái niệm được xem như là một trong những đóng góp lớn của La Distinction về mặt thực nghiệm và lý thuyết. Ý tưởng rằng sự thuộc về một giai cấp là yếu tố xã hội ít mang tính quyết định bằng vị trí và quỹ đạo trong không gian xã hội được nhấn mạnh trong cuốn sách và bản thân giai cấp đôi khi được định nghĩa là một “tập hợp các quỹ đạo” [Di: 123]. Nếu khái niệm không gian xã hội giúp trình bày lại sự phân tích các giai cấp và đặc biệt giúp làm rõ sự phân biệt giữa “các giai cấp được huy động” và “các giai cấp trên giấy tờ” [PB 1984a], thì nó cũng cạnh tranh với sự phân biệt này, bằng cách cấu thành một khái niệm khiêm tốn hơn nhưng cũng thỏa đáng hơn [Pinto 1999: 116].

Julien Duval

Giám đốc nghiên cứu CNRS (CESSP)

AMOSSÉ T., 2013, “La nomenclature socio-professionnelle. Une histoire revisitée”, Annales. Histoire, sciences sociales, vol. 68, no 4, p. 1039-1075. – LECHIEN M.-H., 2013, ““Petite bourgeoisie nouvelle” ou “nouvelles couches moyennes salariées”? Retour sur un débat et sur un enjeu, la domination”, in P. COULANGEON et J. DUVAL (dir.), Trente ans après La Distinction de Pierre Bourdieu, Paris, La Découverte, p. 255-265. – PINTO L., 1999, Pierre Bourdieu et la théorie du monde social, Paris, Albin Michel. – SAINT-MARTIN M. (de), 2013, “Les tentatives de construction de l’espace social, d’”Anatomie du goût” à La Distinction. Quelques repères pour l’histoire d’une recherche”, in P. COULANGEON et J. DUVAL (dir.), Trente ans après La Distinction de Pierre Bourdieu, Paris, La Découverte, p. 29-44.

ALGÉRIE, AMOUR DE L’ART (L’), ANALYSE DES CORRESPONDANCES, AUTONOMIE, CAPITAL, CAPITAL CULTUREL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CATÉGORIE(S), CENTRE DE SOCIOLOGIE EUROPÉENNE, CHAMP, CHAMP DU POUVOIR, CHIASME, CLASSE(S) MOBILISÉE(S), CLASSE(S) MOYENNE(S), CLASSES POPULAIRES, CONSCIENCE DE CLASSE, CULTURE, DIFFÉRENCIATION, DISTINCTION (LA), DOMINATION, ÉDUCATION, ESPACE SOCIAL, ÉTUDIANTS, GROUPE(S), HABITUS, HIÉRARCHIE, INSTITUT NATIONAL DE LA STATISTIQUE ET DES ÉTUDES ÉCONOMIQUES, LÉGITIMATION, LUTTE(S), MARXISME, MUSÉE(S), OBSERVATION(S), OPINION PUBLIQUE, PATRONAT, PAYSANNERIE, PETITE BOURGEOISIE, POSITION(S), STATISTIQUES, STYLE DE VIE, TRAJECTOIRE(S), WEBER

Thư mục:

1969 [AA] L’Amour de l’art. Les musées d’art européens et leur public (avec A. Darbel), Paris, Minuit.

1979 [Di] La Distinction. Critique sociale du jugement, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une introduction, 1982.

1989 [] La Noblesse d’État. Grandes Écoles et esprit de corps, Paris, Minuit.

[PB 1966f] “Condition de classe et position de classe”, Archives européennes de sociologie, vol. 7, no 2, p. 201-223.

[PB 1978a] “Capital symbolique et classes sociales”, L’Arc, no 72, p. 13-19.

[PB 1978b] “Le patronat” (avec M. de Saint-Martin), ARSS, no 20-21, p. 3-82.

[PB 1984a] “Espace social et genèse des classes, ARSS, no 52-53, p. 3-15.

* * *

CLASSES POPULAIRES 

[(CÁC) GIAI CẤP BÌNH DÂN]

Đối với Pierre Bourdieu, ““nhân dân” hay “tính bình dân” là một trong những vấn đề trong cuộc đấu tranh giữa các nhà trí thức”“[PB 1997a: 178]. Đó là cách chúng ta có thể hiểu được những sự tố giác chéo nhau của những khuyết điểm trong “các chủ nghĩa” – “chủ nghĩa tả khổ (misérabilisme)”, “chủ nghĩa chính đáng (légitimisme)”, “chủ nghĩa dân túy (populisme)”, “chủ nghĩa duy công nhân (ouvriérisme)”, v.v. – trong các cuộc tranh luận chính trị-trí tuệ. Trên quan điểm này, chúng ta phải tự hỏi những hình tượng trên về nhân dân bị tác động như thế nào bởi những người tạo ra đã chúng, tức là về vị trí mà họ nắm giữ trong trường sản xuất văn hóa và về quỹ đạo đã đưa họ đến đó [PB 1997a: 180]. Logic của việc đồng nhất hóa với ảo tưởng xem “mối quan hệ mang tính ‘trí tuệ’ là tình trạng của người công nhân như là mối quan hệ của người công nhân với tình trạng này”, có thể tạo ra “một công nhân hoàn toàn dấn thân vào ‘cuộc đấu tranh’ hoặc ngược lại, thông qua sự đảo ngược đơn giản, như trong các huyền thoại, tuyệt vọng cam chịu số phận của chính mình, với “cái bản thể tự thân” của người công nhân” [Méditations pascaliennes: 223].

Điều này cho thấy mệnh lệnh phản tư “được áp đặt lên nhà nghiên cứu một cách đặc biệt thúc bách nếu anh ta muốn thoát khỏi sự lựa chọn thay thế giữa chủ nghĩa lấy giai cấp làm trung tâm (ethnocentrisme de classe) và chủ nghĩa dân túy vốn là hình thức đảo ngược của nó” [PB 1997a: 181]. Để tách biệt những biểu trưng trên vốn phụ thuộc vào quan điểm của những người đại diện hơn là những người được đại diện, chắc chắn không có giải pháp nào khác ngoài việc “yêu cầu nhân dân phân xử theo một cách nào đó những cuộc đấu tranh của các nhà trí thức về chính các biểu trưng này” (về nhân dân) [PB 1997a: 182], bằng cách tiến hành một sự suy nghĩ mang tính phản tư về cuộc điều tra. Nhưng kiểu điều tra này lại vấp phải sự nội tâm hóa các biểu tưởng thống trị bởi những người bị (thống) trị: tiếp nhận những (thành kiến) khuôn mẫu được truyền tải bởi các trung gian văn hóa, “các giai cấp bị thống trị không nói, họ bị lên tiếng ủng hộ” Bourdieu giải thích [PB 1977b: 2-5]. Hơn nữa, chính việc tham gia điều tra chắc chắn đòi hỏi một số đặc tính xã hội đặc thù [Mauger 1991]. Cuối cùng, mọi người đều có thể “một cách vô thức thao túng sự mở rộng [giai cấp bình dân] để điều chỉnh việc mở rộng này cho phù hợp với lợi ích, với thành kiến ​​hoặc ảo ảnh xã hội của mình” [PB 1983a]: “nhận thức và đánh giá về các thành phần khác nhau của giai cấp công nhân - và đặc biệt là giai cấp vô sản và giai cấp bần cố nông – và về sự đóng góp có thể có của họ cho hoạt động cách mạng phụ thuộc […] vào vị trí và quỹ đạo xã hội của những người, trí thức hoặc nhà hoạt động, vốn phải có quan điểm về những vấn đề này và mối quan hệ thân thiết của họ với giai cấp công nhân “đã được xác lập” và những yêu sách của giai cấp này hoặc với giai cấp công nhân “không ổn định” và các cuộc nổi dậy của giai cấp công nhân “không ổn định” [PB 1980: 12].

Trong chương của La Distinction dành cho các giai cấp bình dân, Bourdieu phần nào tiếp nối truyền thống mác xít bằng cách định nghĩa giai cấp xã hội bằng vị trí trong quan hệ sản xuất và bằng “tập tính” giai cấp vốn “thông thường” […] gắn liền với vị trí này” [Di: 434]. Vị trí của giai cấp bình dân trong quan hệ sản xuất được ấn định bởi quan hệ tiền công: mối quan hệ phụ thuộc giữa các tác nhân trong đó một bên nắm giữ các điều kiện của sự tái sản xuất vật chất của bên kia. Đối với tập tính giai cấp, công thức chung của nó là “sự lựa chọn cái cần thiết”: “sự cần thiết áp đặt một thị hiếu về sự tất yếu, hàm ý một hình thức thích ứng với sự tất yếu và, thông qua đó, sự chấp nhận cái cần thiết, sự cam chịu cái không thể tránh khỏi” [Di: 434]. Trong thế giới xã hội được xác định như vậy, Bourdieu bao gồm công nhân cho đến quản đốc và nông dân nhưng ông loại trừ những viên chức: “thực sự có một ranh giới, cả về lối sống lẫn quan điểm chính trị giữa những công nhân có chuyên môn và những người quản đốc vốn vẫn bị chi phối bởi nguyên tắc tuân thủ và những viên chức, những người, ít nhất là về mặt tinh thần, đã bắt đầu tham gia cuộc đua” [Di: 452]. Trong bối cảnh này, ông nhấn mạnh các mối quan hệ khác biệt về mặt xã hội của các giai cấp bình dân đối với tính chính đáng văn hóa: từ sự chống đối công khai đến việc nội tâm hóa tính không xứng đáng (indignité) về văn hóa thông qua logic của “cái riêng của tôi”.

Trong La Distinction, sự tự trị mang tính biểu tượng của các giai cấp bình dân dựa trên cả các giá trị của sự nam tính, trên cái “phản văn hóa” công đoàn và chính trị cũng như trên nền đạo đức kết hợp chủ nghĩa khắc kỷ và chủ nghĩa khoái lạc. Như vậy, Bourdieu mời chúng ta tự hỏi liệu “việc đánh giá cao sức mạnh cơ bắp như là một chiều kích cơ bản của nam tính” [Di: 447], sức lao động và sức chiến đấu, có phải là “một trong những hình thức mang tính tự trị” của sự tự khẳng định bản thân là thành viên của giải cấp bình dân hay không? [Di: 448]. Tương tự như vậy, ông gắn sự tự trị mang tính biểu tượng của các giai cấp bình dân với tất cả những gì liên quan đến chính trị, đến truyền thống đấu tranh của công đoàn vốn là không gian duy nhất của nguyên tắc của điều phản văn hóa”, ngay cả khi ông chỉ rõ rằng “chiều kích văn hóa không ngừng tác động trong không gian đó”. [Di: 459]. Cuối cùng, Bourdieu gợi lên “nghệ thuật sống” của các giai cấp bình dân, trong đó một “chủ nghĩa duy vật hoài nghi” được pha trộn với một loại “chủ nghĩa khắc kỷ bình dân”, “một minh triết có được qua thư thách của tính tất yếu, sự đau khổ, sự tủi nhục” và một “chủ nghĩa hoan lạc thực tế”, “cái cảm thức về sự hoan hỷ và lễ hội thể hiện bản thân và sự đoàn kết trong thực tế với người khác, cảm thức này thể hiện bản thân và sự đoàn kết trong thực tế với người khác, cảm thức này xuất hiện như “một hình thức thích ứng với các điều kiện sống và sự phòng vệ trước những điều kiện này’ [Di: 458-459]. Nhưng ông cũng nhấn mạnh đến tính thiếu tự trị của các giai cấp bình dân như là kết quả của sự tước đoạt về mặt kinh tế và văn hóa. Sự tước đoạt về kinh tế không chỉ áp đặt “phải lựa chon điều tất yếu”: vì mối quan hệ tiền công còn bao hàm sự tách biệt khách quan và chủ quan với các sản phẩm của quá trình sản xuất, khi “lao động và sản phẩm của lao động, (opus proprium), xuất hiện trước mắt người lao động như là sản phẩm của sự tha hóa (opus alienum)” [Di: 450]. Hơn nữa, trong khuôn khổ “phương thức tái sản sinh với thành tố học vấn” [La Noblesse d’État], bạo lực mang tính biểu tượng được thực hiện bởi hệ thống trường học [Di: 450-452] biến trường học thành một trong những định chế cơ bản của việc duy trì trật tự xã hội. và sự tước đoạt về mặt văn hóa của các tầng lớp bình dân mang lại sự biện minh rõ ràng nhất cho sự tước đoạt về mặt kinh tế của họ [Mauger 2013].

Tuy vậy, việc phân tích các giai cấp bình dân, trong La Distinction, dành ít chỗ cho sự đa dạng hơn so với các giai cấp thống trị hoặc tầng lớp tiểu tư sản [Grignon và Passeron 1989: 115]. Claude Grignon đề xuất xem những sự khác biệt do sự sở hữu các tài sản nhỏ tạo ra đóng vai trò tương tự trong nghiên cứu so sánh về các bộ phận khác nhau của giai cấp bình dân giống như sự đối lập giữa các loại vốn khác nhau trong nghiên cứu so sánh về thị hiếu của các thành phần khác nhau của giai cấp thống trị [Grignon và Passeron 1989: 117]. Chính ý tưởng này cũng làm nền tảng cho việc xây dựng “không gian xã hội hai chiều” của Jan C. C. Rupp [1995: 97] để mô tả các giai cấp bình dân, mà theo ông, “là nơi diễn ra một quá trình phân biệt giữa tầng lớp với ưu thế văn hóa và tầng lớp với ưu thế kinh tế “và cũng chính ý tưởng này đã dẫn đến việc phân biệt không phải hai nhưng là ba cực trong không gian lối sống của giới trẻ trong các tầng lớp bình dân [Mauger 2006; 2009].

Chắc chắn, các cuộc điều tra của Bourdieu mang dấu vết của thời gian. Ngoài những biến đổi hình thái sâu sắc (sự gần như biến mất của nông dân nay chỉ chiếm dưới 3% của dân số lao động, sự suy giảm về số lượng của công nhân hiện chiếm ít hơn 23% dân số lao động và sự mở rộng số lượng công nhân viên nay chiếm hơn 29%), những gì đã tạo ra sự tự trị mang tính biểu tượng của các giai cấp bình dân – các giá trị của sự nam tính, nên phản văn hóa chính trị và nghieejo đoàn – ngày nay đã bị loại bỏ. Những gì cơ bản thuộc về nguyên tắc dị biệt hóa của họ ngày càng được củng cố (sự bất an về mặt kinh tế ngày càng gia tăng, cảm thức về sự không xứng đáng về mặt văn hóa mà việc đại chúng hóa giáo dục ngày càng khiến cho không thể tránh khỏi) và những lời kêu gọi tôn trọng nguyên tắc tuân thủ ngày càng trở nên kém hiệu quả trong một thế giới ngày càng bị chia rẽ [Schwartz 1998]. Tuy nhiên, trong bối cảnh của mối quan hệ tiền lương giống nhau, của sự “xói mòn” của điều kiện của những người ăn lương [Castel 1995] và của những bất bình đẳng ngày càng trầm trọng, điều kiện của người công nhân đã tiến gần hơn đến điều kiện của người nhân viên (nói chung, trải nghiệm của người công nhân ngày càng gần với trải nghiệm của các ngành nghề chấp hành khác được xếp trong hạng mục dịch vụ) [Siblot et al. 2015]. Nhưng mặc dù các tầng lớp bình dân ngày nay bị coi như là một thế giới “bị đánh bại (dé-faire)” về mặt chính trị và biểu tượng, nhưng họ vẫn không biến mất khỏi không gian xã hội: sự khuất đi thật ra là về sự tái sản sinh mang tính biểu tượng và chính trị của họ [Mauger 2006b].

Gérard Mauger

Giám đốc nghiên cứu danh dự CNRS (CESSP)

CASTEL R., 1995, Les Métamorphoses de la question sociale. Une chronique du salariat, Paris, Fayard. – GRIGNON C. et J.-C. PASSERON, 1989, Le Savant et le populaire. Misérabilisme et populisme en sociologie et en littérature, Paris, EHESS/Gallimard/Seuil. – MAUGER G., 1991, “Enquêter en milieu populaire”, Genèses, no 6, p. 125-143. – MAUGER G., 2006a, Les Bandes, le milieu et la bohème populaire. Études de sociologie de la déviance des jeunes des classes populaires (1975-2005), Paris, Belin. – MAUGER G., 2006b, “Les transformations des classes populaires en France depuis trente ans”, in J. LOJKINE, P. COURS-SALIES et M. VAKALOULIS (dir.), Nouvelles Luttes de classes, Paris, PUF, p. 29-42. – MAUGER G., 2009, La Sociologie de la délinquance juvénile, Paris, La Découverte. – MAUGER G., 2013, “Bourdieu et les classes populaires. L’ambivalence des cultures dominées”, in P. COULANGEON et J. DUVAL (dir.), Trente ans après La Distinction de Pierre Bourdieu, Paris, La Découverte, p. 243-254. – RUPP J., 1995, “Les classes populaires dans un espace social à deux dimensions”, ARSS, no 109, p. 93-98. – SCHWARTZ O., 1998, La Notion de “classes populaires”, habilitation à diriger des recherches en sociologie, Université de Versailles/Saint-Quentin-en-Yvelines. – SIBLOT Y. et al., 2015, Sociologie des classes populaires contemporaines, Paris, Armand Colin.

AUTONOMIE, CAPITAL, CHAMP, CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE, CLASSE(S) DOMINANTE(S), CLASSE(S) SOCIALE(S), DÉPOSSESSION, DIFFÉRENCE, DIFFÉRENCIATION, DISTINCTION (LA), DOMINATION, ÉDUCATION, ENQUÊTE(S), ESPACE SOCIAL, ETHNOCENTRISME, ETHOS, GOÛT, HABITUS, HÉTÉRONOMIE, INTELLECTUEL(S), INTÉRIORISATION, LÉGITIMATION, LUTTE(S), MARXISME, MISÉRABILISME, ORDRE SOCIAL, PERCEPTION, PETITE BOURGEOISIE, POPULAIRE, POPULISME, POSITION(S), PROLÉTAIRES, RÉFLEXIVITÉ, REPRÉSENTATION(S), SOUS-PROLÉTAIRES, STYLE DE VIE, TRAJECTOIRE (S), VIOLENCE SYMBOLIQUECLASSES /CLASSIFICATION

Thư mục:

1979 [Di] La Distinction. Critique sociale du jugement, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une introduction, 1982.

1997 [MP] Méditations pascaliennes, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2003.

[PB 1977b] “Une classe objet”, ARSS, no 17-18, p. 1-5.

[PB 1980a] “Le capital social. Notes provisoires”, ARSS, no 31, p. 2-3.

[PB 1983a] “Vous avez dit populaire?”, ARSS, no 46, p. 98-105.

[PB 1997a] “Les usages sociaux de la science. Pour une sociologie clinique du champ scientifique”, Paris, INRA.

* * *

CLASSES/CLASSEMENT 

[LOẠI-GIAI CẤP-GIAI TẦNG/PHÂN LOẠI]

Claude Levi-Strauss (1908-2009)

Ở cấp độ lịch sử, chương trình về một xã hội học về các phân loại (classification) tập thể tìm thấy điểm khởi đầu chính trong xã hội học của Durkheim, và cụ thể hơn là trong bài viết của Émile Durkheim và Marcel Mauss “Về một số hình thức phân loại nguyên thủy/De quelques formes primitives de classification” [1903]. Hai tác giả khảo sát “nguồn gốc” của logic (phân loại), của các loại và các thao tác của logic này, lấy “chức năng phân loại” làm đối tượng, tức là “quá trình bao hàm việc phân loại các sinh vật, các biến cố, các sự kiện của thế giới thành các thể loại và các loài, để bao hàm chúng trong những nhóm, để xác định mối quan hệ bao gồm hoặc loại trừ chúng” [Durkheim và Mauss 1903: 2]. Họ muốn chứng minh rằng những “nhóm sự vật” này, tức là các “loại” không phải là những phạm trù bẩm sinh của trí tuệ của con người mà là một sự kiện xã hội, nghĩa là sản phẩm của một sự “giáo dục” vốn “tự nó là kết quả của một sự phát triển mang tính lịch sử”; và rằng chúng không phải là sự phản ánh của “sự phân loại có trước của các sự vật” dựa trên đó các sự phân chia giữa con người được đồ lại nhưng, ngược lại, là sản phẩm của sự phóng chiếu lên thế giới của các phạm trù phát sinh từ những sự phân chia xã hội [Durkheim và Mauss 1903: 5, 67]. Chương trình này sau đó đã trải qua những phát triển và cải cách đáng kể trong nhân học, đặc biệt được minh chứng qua cuốn La Pensée sauvage/Tư tưởng hoang dã của Claude Lévi-Strauss [Lévi-Strauss 1962; Keck 2004].

Phân loại tập thể như một đối tượng

Việc nghiên cứu các phân loại tập thể được hiểu theo nghĩa này, hay nghiên cứu về điều mà Pierre Bourdieu thường gọi phổ biến hơn là “sự xếp hạng (classement)”, chiếm vị trí trung tâm trong toàn bộ các công trình của ông, từ “ngôi nhà Kabyle” [Esquisse d’une théorie de la pratique: 61- 82] đến La domination masculine, qua đến sự phán đoán về thị hiếu (La Distinction) hoặc “các hình thái phân loại trong trường học”, chủ đề của phần đầu của La Noblesse d’Etat [xem thêm PB 1975g]. Bourdieu thậm chí còn coi “sự quan tâm của tôi đến các cấu trúc nhận thức, các nguyên tắc phân loại và hoạt động phân loại của các tác nhân xã hội” là một trong những yếu tố chính của sự liên tục giữa các tác phẩm đầu tiên của ông về Algérie và những tác phẩm dành cho trường học và xã hội Pháp [Choses dites: 34]. Giống như Mauss và Durkheim mà chương trình lý thuyết được ông xem là gần gũi với công trình nghiên cứu về các hình thái biểu tượng do Ernst Cassirer phát triển [ví dụ: PB 1977e; Di: 545-546; Sur L’État: 262], Bourdieu, qua đó, đã đưa vào một mối quan hệ phê phán với thuyết tiên nghiệm của Kant, vì các xếp hạng không phải là “một hệ thống các hình thái và phạm trù phổ quát mà là một hệ thống các sơ đồ được hình thành và tập hợp trong suốt lịch sử tập thể, lại được sở đắc trong suốt lịch sử cá nhân” [Di: 545]. Là các sản phẩm và biểu hiện của sự phân chia xã hội mà chúng chính đáng hóa bằng cách đồng hóa các sản phẩm và biểu hiện này, các hệ thống xếp hạng này “đề cập một cách ít nhiều kín đáo đến những sự đối lập cơ bản nhất của trật tự xã hội”, sự đối lập giữa “kẻ thống trị và người bị thống trị”, và sự đối lập “giữa hai nguyên tắc thống trị, hai quyền lực, […] thế tục và tinh thần, vật chất và trí tuệ, v.v.” [Di: 547]. Dù các xếp hạng là sản phẩm của lịch sử chứ không phải là những phạm trù hiểu biết phổ quát, nhưng việc xếp hạng các tác nhân vẫn dựa trên “một tập hợp các sơ đồ nhận thức cơ bản”, chung cho “tất cả các tác nhân của một hình thái xã hội nhất định”, “là sản phẩm” của sự sáp nhập các cấu trúc cơ bản của hình thái xã hội này” [Di: 546]. Do đó, các xếp hạng là một trong những vectơ chính của điều mà Bourdieu, theo Durkheim, gọi là “sự tích hợp logic” và “sự tích hợp đạo đức” của xã hội [SÉ: 265]. Là một uyển ngữ diễn đạt những đối lập xã hội cơ bản nhất, đặc biệt là “giữa các giai cấp, nhóm tuổi và giới tính” [Di: 544], hệ thống xếp hạng có thể được hiểu thông qua “các cặp tính từ đối kháng thường được sử dụng để xếp hạng và định tính con người hoặc đồ vật trong hầu hết các lãnh vực khác nhau của thực tiễn” [Di: 546], vốn thiết lập mối quan hệ giữa hàng loạt đối lập theo mối quan hệ loại suy [Le Sens Pratique: 146-148]. Do đó, việc tổ chức “căn nhà Kabyle” bộc lộ một hệ thống những biểu tượng trong đó “lửa” và “nước” đối lập nhau như “chín” và “sống”, “cao” và “thấp”, “ánh sáng” và “bóng tối”, “ngày” và “đêm”, “nam tính” và “nữ tính”, “văn hóa” và “thiên nhiên”, “ngôi nhà” và “thế giới bên ngoài”, v.v. [“La maison ou le monde renversé” trong Esquisse d’une théorie de la pratique: cụ thể là 68-69]. Nếu sự quan tâm đến các sự xếp hạng là một cách để sáp nhập vào sự phân tích thế giới xã hội những kiến ​​thức mà các tác nhân có được về thế giới này, thì Bourdieu vẫn nhấn mạnh vào tính sáp nhập của chúng và vào các hình thức thường là phi ngôn ngữ của các biểu hiện và các phương thức thủ đắc của chúng [SP.: 125-126]. Đây là lý do tại sao đôi khi ông thích chỉ định những cấu trúc nhận thức cấu thành tập tính như là những “sơ đồ phân loại” hơn là những “hệ thống xếp loại”, dành thuật ngữ sau cho các phân loại dựa trên “các nguyên tắc rõ ràng và được phối hợp rõ ràng” như những diễn ngôn khoa học hoặc triết học [Di: 550]. Đây cũng là điều khiến ông thích, trong bài viết “La Production de l’idéologie dominante”, với đồng tác giả Luc Boltanski, hình thức từ điển như một phương thức trình bày: “Chỉ việc thay thế một loạt các chủ đề và các biến thể thường là hỗn loạn […] bằng một chuỗi “các lập luận có thứ bậc và được tổ chức” sẽ có thể thay thế một loạt các chủ đề và các biến thể thường là hỗn loạn […] bằng một chuỗi “các lập luận có thứ bậc và được tổ chức” sẽ có thể gây ra sự biến mất của những gì đặc trưng của các sản phẩm mang tính hệ thống thực tế này khỏi việc áp dụng không liên tục một số lượng nhỏ các sơ đồ phát sinh” [PB 1976b: 5].

Các cuộc đấu tranh xếp hạng

Ngoài việc nhấn mạnh vào vai trò của cơ thể, việc Bourdieu tiếp tục chương trình của Durkheim và Mauss để nghiên cứu các phân loại tập thể không phải là không có sự chuyển dịch. Trong tiểu luận “Pour une praxéologie sociale/Vì một hành động xã hội, là phần đầu của Invitation à la sociologie réflexive, Loïc Wacquant xác định cụ thể hơn bốn sự chuyển dịch: sự chuyển dịch của cách đặt vấn đề sang các xã hội bị phân hóa, sự vạch rõ các cơ chế qua đó “sự tương ứng giữa các cấu trúc xã hội và các cấu trúc tinh thần” được thiết lập, sự tích hợp của các cấu trúc tinh thần vào sự phân tích quyền lực biểu tượng, và sự quan tâm đến điều mà Bourdieu gọi là “các cuộc đấu tranh xếp hạng” [Wacquant 2014: 49-52]. Hai điểm cuối không phải là không liên quan đến điểm đầu tiên, điều mà chính Bourdieu nhấn mạnh: “Ngay khi chúng ta đặt câu hỏi về xã hội của chúng ta, hệ thống giáo dục của chúng ta chẳng hạn, những vấn đề về lý luận nhận thức mà Durkheim đặt ra đối với các tôn giáo nguyên thủy trở thành vấn đề chính trị; chúng ta không thể không thấy rằng các hình thức phân loại là những hình thức thống trị, rằng xã hội học nhận thức không thể tách rời một xã hội học của sự thừa nhận và nhận thức sai, tức là của sự thống trị mang tính biểu tượng” [CD: 35]. Đó là vì sự tương ứng giữa các phân chia xã hội và các sự xếp hạng được tích hợp tạo thành một cơ chế mạnh mẽ để chính đáng hóa trật tự xã hội, và vì các sự xếp hạng này, và những sự “phán đoán của đặc quyền” mà chúng là nền tảng, bằng cách phân định các tác nhân vào một loại/giai cấp, cũng ấn định họ vào một vị trí trong “sự phân bổ lợi ích và nghĩa vụ” [Di: 555]. Vấn đề là “Ai phân loại?” và phải chăng “tất cả các sự phân loại, và do đó tất cả các tổ chức phân loại, [có] trọng lượng xã hội tương tự” là rất quan trọng [Sociologie générale 1: 19]. Và vấn đề về mối quan hệ giữa sự xếp hạng do các tác nhân đưa ra và sự xếp hạng do các nhà xã hội học thiết lập không chỉ là một vấn đề nhận thức luận mà còn là một vấn đề chính trị [SG 1: 21-26].

Như vậy các cuộc đấu tranh xã hội cũng mang hình thái của cuộc “đấu tranh xếp hạng”, mỗi người “đấu tranh để áp đặt hệ thống phân loại có lợi nhất cho tính chất của mình hoặc xác định cho hệ thống xếp hạng thống trị nội dung phù hợp nhất để làm nổi bật về những gì anh ta có và anh ta là [Di: 554]. Bourdieu nhấn mạnh, những cuộc đấu tranh này có thể liên quan đến chính những sự chia rẽ, ví dụ bằng cách đối lập các liên kết giai cấp với các liên kết quốc gia [Di: 559], hoặc đến việc sử dụng chúng, như được thể hiện qua các định nghĩa cạnh tranh về tuổi trẻ và tuổi già [Di: 556 - 557; Questions de sociologie: 143-154]. Trong các xã hội bị phân hóa, Nhà Nước, có xu hướng tự coi mình là nắm độc quyền về bạo lực biểu tượng chính đáng, đóng một vai trò nổi bật, theo Bourdieu, trong việc tạo ra những sự xếp hạng, cũng như trong việc áp đặt những sự xếp hạng này lên toàn bộ xã hội. đặc biệt là thông qua các nghi thức thể chế mà nó thực hiện và hệ thống trường học [SÉ: 262-269]. Khi tìm cách tập hợp xã hội học tri thức xuất phát từ Durkheim và các phân tích hệ tư tưởng lấy cảm hứng từ chủ nghĩa Marx hoặc từ Weber, xã hội học của Bourdieu do đó đã nỗ lực nắm bắt các sự xếp hạng ở cấp độ chúng được diễn đạt thành từ ngữ trong thế giới thu nhỏ của các giới trí tuệ, tôn giáo, chính trị hoặc hành chính, cũng như như trong trải nghiệm thông thường và trực tiếp nhất về thế giới xã hội, hoặc thông qua sự lưu chuyển hai chiều có thể xảy ra giữa hai cấp độ này [PB 1977e].

Mathieu Hauchecorne

Phó giáo sư khoa học chính trị đại học Université Paris 8 Vincennes-Saint Denis

DURKHEIM É. et M. MAUSS, 1903, “De quelques formes primitives de classification: contribution à l’étude des représentations collectives”, L’Année sociologique, vol. 6, p. 1-72. – KECK F., 2004, Lévi-Strauss et la pensée sauvage, Paris, PUF. – LÉVI-STRAUSS C., 1962, La Pensée sauvage, Paris, Plon. – WACQUANT L., 2014, “Pour une praxéologie sociale. Structure et logique de la sociologie de Bourdieu”, in P. BOURDIEU et L. WACQUANT, Invitation à la sociologie réflexive, Paris, Seuil, p. 35-100.

AGENT(S), ALGÉRIE, ANALOGIE, BOLTANSKI, CASSIRER, CATÉGORIE(S), CIRCULATION, CORPS, DISTINCTION (LA), DOMINATION, DOMINATION MASCULINE (LA), DURKHEIM, ÉDUCATION, ENSEIGNEMENT, ÉTAT, FORME, GOÛT, HABITUS, HOMOLOGIE(S), IDÉOLOGIE, IMPOSITION, INCORPORATION, INTÉGRATION, INVITATION À LA SOCIOLOGIE RÉFLEXIVE, JEUNESSE, LÉGITIMATION, LÉVI-STRAUSS, LUTTE(S), MAISON, MARXISME, MAUSS, MÉCONNAISSANCE, NATURALISATION, NOBLESSE D’ÉTAT (LA), ORDRE SOCIAL, PERCEPTION, POUVOIR SYMBOLIQUE, PRATIQUE, RECONNAISSANCE, RITES D’INSTITUTION, SCHÈME(S), STRUCTURE(S), SYSTÈME, VIOLENCE SYMBOLIQUE, WEBER

Thư mục:

1972 [ETP] Esquisse d’une théorie de la pratique. Précédée de trois études d’ethnologie kabyle, Genève, Droz, rééd. Paris, Seuil, “Points”, 2000.

1979 [Di] La Distinction. Critique sociale du jugement, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une introduction, 1982.

1980 [QS] Questions de sociologie, Paris, Minuit, rééd. 2002. 

1987 [CD] Choses dites, Paris, Minuit.

2012 [] Sur l’État. Cours au Collège de France, 1989-1992, Paris, Raisons d’agir/Seuil.

2015 [SG 1] Sociologie générale, vol. 1, éd. établie par P. Champagne, J. Duval, F. Poupeau et all., Paris, Raisons d’agir/Seuil, rééd. “Points”, 2019. 

[PB 1975g] “Les catégories de l’entendement professoral” (avec M. de Saint-Martin), ARSS, no 3, p. 68-93.

[PB 1976b] “La production de l’idéologie dominante” (avec L. Boltanski), ARSS, no 2-3, p. 4-73.

[PB 1977b] “Une classe objet”, ARSS, no 17-18, p. 1-5.

[PB 1977e] “Sur le pouvoir symbolique”, Annales. Économies, Sociétés, Civilisations, vol. 32, no 3, p. 405-411.

* * *

CLASSE(S) DOMINANTE(S) 

[(CÁC) GIAI CẤP THỐNG TRỊ]

Trong những năm 1960 và 1970, Pierre Bourdieu thường sử dụng thuật ngữ “giai cấp thống trị” để tập hợp lại, trong cùng một ngữ đoạn, các nhóm khác nhau vốn,”bất chấp sự khác biệt về hoàn cảnh nghề nghiệp và điều kiện kinh tế”, có chung một nền văn hóa [PB 1967c: 377]. Việc sử dụng thuật ngữ này cho phép ông không đề cập đến giới tinh hoa, một thuật ngữ ám chỉ truyền thống tự do hoặc bảo thủ. Mặc dù cụm từ “giai cấp thống trị” có thể gợi lên chủ nghĩa Mác, Bourdieu thường sử dụng nó ở số nhiều để tránh xa một hình thức chủ nghĩa duy kinh tế đồng hóa giai cấp thống trị và giai cấp tư sản kinh tế. Làm như vậy là để nhấn mạnh vai trò của vốn văn hóa trong sự tái sản sinh xã hội [La Reproduction] và do đó, các giáo sư, các cán bộ cao cấp của khu vực công, các ngành nghề tự do và các kỹ sư, cũng như các giám đốc điều hành của khu vực tư nhân và các ông chủ ngành công nghiệp và thương mại, hợp thành các bộ phận của giai cấp thống trị [PB 1971g]. Họ được hưởng lợi từ mối quan hệ đặc quyền tương tự với định chế giáo dục mafsoos, dần dần theo con đường của sự tuyển lựa xã hội mà nó vận hành, đào tạo và thừa nhận “những người được kêu gọi gia nhập giai cấp thống trị là nơi xuất thân của đa số trong số họ” [PB 1981c: 3].

Tuy nhiên, các giai cấp thống trị vẫn tạo thành những không gian khác biệt. Trong nội bộ các giai cấp này” sự giàu có về vốn kinh tế và sự giàu có về vốn văn hóa có xu hướng biến đổi theo hướng trái ngược nhau” [PB 1974b: 15]. Cấu trúc theo phép đối ngẫu tréo này bao hàm những thực tiễn văn hóa, những cách sở hữu các tác phẩm nghệ thuật và những thế giới quan khác biệt. Các giai cấp thống trị cũng được sắp xếp theo thứ bậc xét về mặt uy tín và quyền lực của chúng, tầng lớp trí thức là hiện thân của thành phần bị thống trị, trong khi các ông chủ ngành công nghiệp hoặc các công chức cấp cao thuộc thành phần lãnh đạo [PB 1978b]. Dưới gốc độ này, Bourdieu và Monique de Saint-Martin cho thấy rằng các giám mục giữ một vị trí nghịch lý: “họ không hoàn toàn sở hữu quyền lực tinh thần thuần túy vốn là độc quyền của các nhà thần học và các nhà tu, cũng như quyền lực trần tục; họ không có quyền lực thực sự cũng như không có uy tín gắn liền với việc từ bỏ quyền lực” [PB 1982a: 45].

Bourdieu dần dần từ bỏ thuật ngữ “giai cấp thống trị” trong những năm 1980 để dành ưu thế cho thuật ngữ “trường quyền lực”. Thứ nhất, bởi vì, sau La Distinction, ông đã phải xem lại cách ông quan niệm về các giai cấp xã hội. Là sự xích lại gần nhau về mặt lý thuyết của các cá nhân ở những vị trí gần gũi trong không gian xã hội, các giai cấp chỉ có thể tồn tại với tư cách những nhóm được huy động nếu công tác chính trị và các thể chế cho phép điều đó [PB 1984a]. Tuy nhiên, “các bộ phận khác nhau của giai cấp thống trị [là] những tiểu trường cũng là những nơi diễn ra các cuộc đấu tranh, những tiểu trường đấu tranh lẫn nhau để giành quyền lực” [Sociologie générale 1: 593]. Để phân tích quyền lực, khái niệm trường chắc chắn tốt hơn khái niệm giai cấp. Khái niệm trường nhập vào một quan niệm mang tính quan hệ hơn là quan niệm theo thuyết thực thể. Thật vậy, theo Bourdieu, chúng ta phải chuyển cái nhìn của các cá nhân và nhóm thực thi quyền lực sang các mối quan hệ khách quan được thiết lập giữa các vị trí mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh khó khăn về phương pháp luận của cách tiếp cận này: “phần lớn, chúng ta chỉ có thể nắm bắt các không gian xã hội dưới hình thức của sự phân phối các tính chất giữa các cá nhân, bởi vì thông tin có thể tiếp cận được gắn liền với các cá nhân” [Invitation à la sociologie réflexive: 290].

François Denord

Nhà nghiên cứu CNRS (CESSP)

BOURGEOISIE(S), CAPITAL CULTUREL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CHAMP, CHAMP DU POUVOIR, CHIASME, CLASSE(S) SOCIALE(S), DIFFÉRENCIATION, DISTINCTION (LA), ESPACE SOCIAL, FONCTIONNAIRE, GROUPE(S), HIÉRARCHIE, INDIVIDU(S), INSTITUTION(S), INTELLECTUEL(S), LUTTE(S), MARXISME, PATRONAT, POSITION(S), PROFESSEURS, RELATION(S) OBJECTIVE(S), RELATIONNELLE (APPROCHE), REPRODUCTION (LA), VISION DU MONDE

Thư mục:

2014 [ISR] Invitation à la sociologie réflexive (avec L. Wacquant), Paris, Seuil.

2015 [SG 1] Sociologie générale, vol. 1, éd. établie par P. Champagne, J. Duval, F. Poupeau et all., Paris, Raisons d’agir/Seuil, rééd. “Points”, 2019.

[PB 1967c] “Systèmes d’enseignement et systèmes de pensée”, Revue internationale des sciences sociales, vol. 19, no 3, p. 367-388.

[PB 1974b] “Les fractions de la classe dominante et l’appropriation des œuvres d’art”, Information sur les sciences sociales, vol. 13, no 3, p. 7-32.

[PB 1978b] “Le patronat” (avec M. de Saint-Martin), ARSS, no 20-21, p. 3-82.

[PB 1981c] “Épreuve scolaire et consécration sociale. Les classes préparatoires aux Grandes Écoles”, ARSS, no 39, p. 3-70.

[PB 1982a] “La sainte famille. L’épiscopat français dans le champ du pouvoir” (avec M. de Saint-Martin), ARSS, no 44-45, p. 2-53.

* * *

CLASSE(S) MOBILISÉE(S) 

[(CÁC) GIAI CẤP ĐƯỢC HUY ĐỘNG]

Đối với Pierre Bourdieu, khái niệm giai cấp được huy động được đặt trong mối quan hệ của ông với phân tích mác xít về các giai cấp xã hội.

Thật vậy, theo Bourdieu, trước khi nói đến giai cấp, cần phải xây dựng không gian xã hội [Raisons pratiques: 53-54]. Trong không gian này, các tập hợp tương đối đồng nhất có thể được khoanh vùng (ngay cả khi đường viền của chúng vẫn còn mơ hồ do tính chất liên tục của việc phân bổ vốn). Đây là “các giai cấp trên giấy” và có thể là “các giai cấp có thể có” vì các thành viên của chúng chia sẻ điều kiện sống và do đó có khả năng tự huy động (hoặc được huy động thành công) cao hơn bất kỳ nhóm nào. Tuy nhiên, sự huy động không chắc chắn và không bao giờ mang tính tổng quát, sự gần gũi trong không gian cũng tạo ra các mối quan hệ cạnh tranh và đi đôi với những khác biệt nhỏ có khả năng cản trở sự đoàn kết (Le Sens Pratique: 238; PB 1984a: 4]. Theo nghĩa đen một “giai cấp được huy động” không thể nào tồn tại.

Điều có thể tồn tại – và có thể đã tồn tại trong trường hợp “giai cấp công nhân” – là niềm tin mà nó tạo nên. Khi sự phân tích mác xít nhìn thấy một thực tế có khả năng xảy ra, thì Bourdieu nói về một niềm tin xã hội mà sự hình thành phải được phân tích. Niềm tin là kết quả của hoạt động của người phát ngôn, luôn có phần tự xưng và của những chuyên gia về sự biểu trưng thế giới xã hội (bao gồm cả các lý thuyết gia của các giai cấp), những người có lợi trong việc tin vào và trong việc chia sẽ niềm tin vào sự tồn tại của giai cấp. Do đó, “giai cấp được huy động” chỉ có thể tồn tại dưới hình thái của “một thực thể thần bí”. Cuộc biểu tình và các đoàn người tuần hành chứng minh không phải cho sự tồn tại của giai cấp, mà là cho sự thành công của những người phát ngôn – vốn cũng chỉ kết hợp được những tín đồ tin chắc vào sự tồn tại của giai cấp [PB 1984a].

Để làm ví dụ cho việc “chế tạo” một giai cấp, Bourdieu đề cập đến công trình của Edward P. Thompson [2017] về giai cấp công nhân Anh.

Julien Duval

Giám đốc nghiên cứu CNRS (CESSP)

THOMPSON E. P., 2017, La Formation de la classe ouvrière, trad. fr., Paris, Seuil, “Points” (1963).

CAPITAL, CLASSE(S) SOCIALE(S), CROYANCE, ESPACE SOCIAL, MARXISME, THOMPSON

Thư mục:

1980 [SP] Le Sens pratique, Paris, Minuit, rééd. 1989.

[PB 1984a] “Espace social et genèse des classes”, ARSS, no 52-53, p. 3-15.

* * *

CLASSE(S) MOYENNE(S)

[(CÁC) TẦNG LỚP TRUNG LƯU]

Các thuật ngữ “các tầng lớp trung lưu” và “giai cấp tiểu tư sản” có cùng một tham chiếu vì các nhóm mà chúng chỉ định đều giống nhau (những doanh nhân độc lập nhỏ, những nhà quản lý cấp trung, v.v.). Chúng ta có thể nghĩ rằng, vì các thuật ngữ này có cùng một độ bao phủ nên chúng có thể thay thế cho nhau. Tuy nhiên, ngay cả khi trong các tác phẩm của mình ông chủ yếu bàn về giai cấp tiểu tư sản, Pierre Bourdieu chỉ giữ lại mục “các tầng lớp trung lưu” trong chỉ các mục lục của các cuốn sách của mình: đặc biệt đây là trường hợp của La Distinction, một tác phẩm tham chiếu về vấn đề giai cấp xã hội. Có nghịch lý hay thậm chí là mâu thuẫn ở đây không?

Câu trả lời là không, bởi vì về một trọng điểm liên quan đến việc phân tích không gian xã hội, Bourdieu chắc chắn không hề do dự hay phân vân. Thật vậy, những lý do có khả năng xảy ra nhất cho sự dao động giữa hai thuật ngữ này thuộc hai loại. Một số gắn với bối cảnh trình bày. Việc sử dụng “tầng lớp trung lưu” có ưu điểm là tương ứng với những cách sử dụng thông thường và do đó sẽ có nhiều cơ hội được hiểu bởi số lượng lớn nhất độc giả ở Pháp và ở nước ngoài. Hơn nữa, mô hình phân loại ba thành phần “thượng lưu, trung lưu, hạ lưu”, bởi vì được áp dụng khắp nơi, không dựa trên những tiền giả định nhất định và đáp ứng các ý định mô tả về mặt kinh tế, đặc biệt là gợi lên các xu hướng chính, chẳng hạn như tỷ lệ sinh ở mức tổng gộp cao. Nhưng khi tìm cách nêu bật sự đóng góp riêng của chính mình vào việc phân tích tầng lớp trung lưu, đặc biệt là với công chúng hiểu biết nhiều nhất về công việc của ông với tư cách là một nhà nghiên cứu và nhà lý luận, Bourdieu dễ dàng sử dụng các thuật ngữ “tầng lớp tiểu tư sản” và “con người tiểu tư sản”, những thuật ngữ xuất hiện trong các phân tích chi tiết dựa trên nhiều tài liệu thực nghiệm khác nhau (thống kê, phỏng vấn).

Những lý do khác cho việc sử dụng kép mang tính lý thuyết rõ ràng hơn. Nếu “tầng lớp trung lưu” có thể bị xem như một sự nhượng bộ đối với ngôn ngữ duy nghiệm mà mọi người đều có thể hiểu thì “tầng lớp tiêu tư sản” mang lại lợi ích về tính dễ hiểu trong việc xây dựng đối tượng. Trong khi thuật ngữ đầu có nội dung thuần túy theo thứ tự (chúng ta đi từ trên xuống dưới qua giữa), thuật ngữ thứ hai lại được ghi nhận trong một quan niệm về không gian xã hội dựa trên khối lượng và cơ cấu vốn do các nhóm xã hội khác nhau nắm giữ. Về cơ bản, những nhóm này bao gồm giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản và các giai cấp bình dân và có thể được mô tả dưới gốc độ của sự thống trị và bạo lực mang tính biểu tượng. Là “trung lưu” chỉ có ý nghĩa về mặt phân phối đơn giản (thu nhập, trình độ học vấn), mà còn về mặt phân biệt: không phải tư sản, người tiểu tư sản chỉ có thể hy vọng trở thành tư sản, nhưng để làm được điều đó, anh ta cần nỗ lực, khổ hạnh, và do đó, ở trong hiện tại anh ta chỉ là tư sản một cách tần tiện, ở một mức độ thấp kém. Thuật ngữ “tiểu tư sản” cho phép chúng ta đoạn tuyệt với chủ nghĩa kinh nghiệm khi coi cái trung bình cả trong vị trí, chiến lược và khuynh hướng như là mang tính hai mặt, tính đôi chiều năng động. Đây là lý do vì sao có thể có những “biến thể” của thị hiếu tiểu tư sản. “Cái tham vọng (prétention)” (hoặc, Bourdieu sửa lại, “sự căng thẳng có trước (pré-tension)”) là một nguyên tắc vừa mang tính khách quan và chủ quan không thể tách rời trong khả năng hiểu được nhóm. Khung lý thuyết này giúp giải thích việc danh mục của Viện Thống kê và Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia tập hợp các thành phần sau trong giai tầng tiểu tư sản: các doanh nhân vừa và nhỏ và các thợ thủ công được bao gồm trong nhóm này cùng với các viên chức, các nhà quản lý cấp trung, các kỹ thuật viên, các nhân viên y tế và xã hội.

Thật khó để xác định chính xác thời điểm đoạn tuyệt được thể hiện với việc sử dụng thuật ngữ “tiểu tư sản”. Trong các tác phẩm dành cho văn hóa [L’Amour de l’art, Un art moyen], các bảng thống kê sử dụng các chỉ mục theo thứ tự (cao, trung bình, thấp): mục đích là chỉ ra những quy luật liên quan đến xác suất của thực tiễn này hoặc thực tiẽn khác. Tuy nhiên, các phân tích tìm cách đi xa hơn bằng cách giải thích các nguyên tắc phát sinh của các thực tiễn này (tập tính) và bằng cách nêu bật các nét đặc trưng như “thiện chí văn hóa” (xin nhắc lại rằng vào năm 1979 thuật ngữ này đã cung cấp tiêu đề cho chương trong La Distinction dành cho các thành phần khác nhau của “giai cấp tiểu tư sản”). Ngay từ rất sớm, Bourdieu đã sở hữu những công cụ để tư duy về nhóm này (“óc thẩm mỹ của người nghèo” hay “óc thẩm mỹ trung bình”). Một thời điểm quan trọng trong tư duy phản tư để vạch rõ khái niệm này là bài viết “Tương lai giai cấp và quan hệ nhân quả khả dĩ” [PB 1974a] mà một phần dành cho giai cấp tiểu tư sản và sẽ được tích hợp vào phần cuốn La Distinction: mục tiêu của sự phân tích là giải thích tính đặc thù của một nhóm mà đặc trưng là “tham vọng của hiện thực” [Di: 388], phép biện chứng đặc biệt và nghịch lý giữa xác suất khách quan và kỳ vọng chủ quan.

Louis Pinto

Giám đốc nghiên cứu CNRS (CESSP)

AMOUR DE L’ART (L’), BONNE VOLONTÉ CULTURELLE, BOURGEOISIE(S), CAPITAL, CATÉGORIE(S), CLASSE(S) SOCIALE(S), CLASSES POPULAIRES, CONSTRUCTION DE L’OBJET, CULTURE, DISPOSITION(S), DISTINCTION (LA), DOMINATION, ENTRETIEN(S), ESPACE SOCIAL, ESPÉRANCES, GOÛT, GROUPE(S), HABITUS, INSTITUT NATIONAL DE LA STATISTIQUE ET DES ÉTUDES ÉCONOMIQUES, PETITE BOURGEOISIE, POSITION(S), PRATIQUE, PRÉTENTION, PROBABILITÉ(S), RÉGULARITÉS, STATISTIQUES, STRATÉGIE(S), TITRE(S), UN ART MOYEN, VIOLENCE SYMBOLIQUE

Thư mục:

1965 [AM] Un art moyen. Essai sur les usages sociaux de la photographie (avec L. Boltanski, R. Castel et J.-C. Chamboredon), Paris, Minuit.

1969 [AA] L’Amour de l’art. Les musées d’art européens et leur public (avec A. Darbel), Paris, Minuit.

1979 [Di] La Distinction. Critique sociale du jugement, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une introduction, 1982.

[PB 1974a] “Avenir de classe et causalité du probable”, Revue française de sociologie, vol. 15, no 1, p. 3-42.

* * *

CLASSE(S) SOCIALE(S) 

[GIAI (TẦNG) CẤP XÃ HỘI)]

Xã hội học của Pierre Bourdieu coi trọng vấn đề giai cấp xã hội đến mức đôi khi vấn đề này dường như truy tìm một cách có hệ thống những biểu hiện thường ngày và vô hình nhất của cuộc đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, cách đọc này không nên làm lu mờ mối quan hệ đặc biệt, chắc chắn đã trải qua nhiều biến đổi theo thời gian, mà Bourdieu đã duy trì với khái niệm xã hội học về “các giai (tầng) cấp xã hội” theo nghĩa cổ điển của nó: ông đã sử dụng khái niệm này nhưng ông cũng đã xây dựng lại nó trong khuôn khổ của lý thuyết trường của ông, đến mức phát triển khái niệm có phần mang tính cạnh tranh là khái niệm “không gian xã hội”.

Tầm quan trọng của vị trí (địa vị) giai cấp

Trong những nghiên cứu đầu tiên của Bourdieu ở Algérie, khái niệm giai cấp ít được sử dụng, ít nhất là ít hơn ý niệm “nhóm”, vốn thể hiện một “xã hội truyền thống”, nơi mà sự phân biệt và các thứ bậc còn yếu và ít được thể chế hóa. Mối quan hệ về quyền lực và sự thống trị vẫn giữ một chiều kích cá nhân mạnh mẽ và những người thống trị, vốn bị ràng buộc bởi nghĩa vụ phân phối lại nếu họ muốn duy trì quyền lực của mình, chỉ có khả năng tích lũy vốn rất hạn chế [Le Sens Pratique]. Trở lại Pháp, Bourdieu nhận thức được rằng từ nay mình hiện đang làm việc trong một xã hội có giai cấp. Ngay cả khi thế giới nông thôn ở vùng Béarn thể hiện một số đặc điểm nhất định của “xã hội truyền thống”, nó vẫn bị tác động bởi các mối quan hệ mà thế giới này duy trì với lối sống và các giá trị thành thị. Xã hội nông dân trải nghiệm sự thống trị mang tính biểu tượng ngày càng mạnh hơn bao giờ hết trong xã hội Pháp, một sự thống trị sẽ biến nó (xã hội nông thôn) thành một hệ hình của điều mà Bourdieu gọi là “giai cấp đối tượng”, một giai cấp “không lên tiếng nhưng được nói đến” [PB 1977b].

Ý niệm giai cấp đóng một vai trò trung tâm không kém trong những nghiên cứu được thực hiện vào những năm 1960 tại Trung tâm Xã hội học Châu Âu (CSE). Tại trung tâm này, giáo dục và văn hóa chủ yếu được phân tích thông qua sự đóng góp của chúng vào việc tái tạo sự bất bình đẳng giai cấp và tái sinh “một giai cấp có văn hóa”. Những nghiên cứu này được xuất bản trong thời điểm của tiến trình dân chủ hóa giáo dục và của sự nâng cao mức sống chung vốn đã nuôi dưỡng những luận điểm mở đầu cho dự đoán về sự hoa tan của giai cấp công nhân trong một tầng lớp trung lưu rộng lớn. Bourdieu kết luận ngược lại về sức ỳ của sự bất bình đẳng giai cấp, mà trong trường hợp tốt nhất, chỉ bị chuyển đổi. Về mặt văn hóa, các phân tích của ông tiết lộ những trở ngại mà các chính sách dân chủ hóa nhất quán sẽ phải vượt qua và mâu thuẫn với chẩn đoán về sự ra đời của một “nền văn hóa đại chúng” sẽ đánh dấu sự kết thúc của “nền văn hóa giai cấp”.

Trong tất cả các công trình này, giai cấp là một công cụ phân tích thực nghiệm. Sự bất bình đẳng giai cấp được làm nổi bật bằng các quan sát (ví dụ, sự lúng túng mà một số thành viên hiếm hoi của tầng lớp bình dân phải trải qua khi bước vào bảo tàng [L’Amour de l’art]), mà còn bằng số liệu thống kê xác lập các tỉ số khác biệt của các giai cấp trong cộng đồng sinh viên hoặc trong công chúng của các viện bảo tàng hoặc tính toán các cơ hội tương phản mà các thành viên của các tầng lớp khác nhau có được để tiếp cận cấp độ này hoặc cấp độ kia của hệ thống giáo dục. Trong những năm 1960, các nhà nghiên cứu CSE nằm trong số những người sử dụng danh mục các loại xã hội-nghề nghiệp (CSP), do Viện Thống kê và Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (INSEE) thiết kế trong thập kỷ trước theo một cách có phần thủ công và dựa trên nền tảng lý thuyết chiết trung [Amossé 2013]. Các biến thống kê được kết hợp một cách có hệ thống với biến CSP, được xem như một chỉ báo về sự thuộc về hay về nguồn gốc giai cấp, nhưng đồng thời, trong giai đoạn phát triển của thống kê đa biến này, về giới tính, tuổi tác, nơi cư trú… Tuy nhiên, Bourdieu chỉ trích các phân tích như là bất kỳ biến “xã hội-dân số” nào khác. Ông coi đó là một cách để dễ dàng bảo vệ luận điểm vĩnh cửu về sự không tồn tại của các giai cấp xã hội. Đối với ông, giai cấp là một khái niệm có khả năng giải thích đặc biệt, đến mức nhất thiết, khi đối mặt với mối tương quan kém, phải tự hỏi liệu đó có phải là do (khái niệm) giai cấp bị thiết kế kém hay không. Chính phân tích xã hội học đã làm cho giai cấp trở thành một nhân tố đặc biệt, có khả năng diễn giải lại tất cả những nhân nhân tố khác, hoặc thậm chí còn là nguồn thông tin phong phú nhất và có tính dự đoán cao nhất về thực tiễn của một cá thể.

Bourdieu đồng thời tiến hành một sự suy nghĩ lý thuyết trực tiếp hơn về khái niệm này. Từ giữa những năm 1960, ông đã nói về “vị trí giai cấp” để nhấn mạnh rằng một giai cấp không chỉ được xác định bởi các đặc tính về các điều kiện mà bởi vị trí của nó trong một cấu trúc phát triển theo thời gian [PB 1966f: 201]. Khi làm như vậy, ông đặc biệt khẳng định sự khác biệt với các cách tiếp cận theo tầng lớp phổ biến ở Hoa Kỳ trong những thập kỷ sau chiến tranh vốn, khi phân bổ các cá nhân theo một bậc thang, lại bỏ qua các mối quan hệ mà “tầng lớp” của họ duy trì với các yếu tố khác. Ông cũng xác định quan điểm trong các cuộc tranh luận xã hội học giữa truyền thống mác xít xác định các giai cấp theo vị trí của họ trong quan hệ quyền lực kinh tế và truyền thống Weber nhấn mạnh sự tồn tại của “các nhóm địa vị” được đặc trưng bởi lối sống và “uy tín” của họ. Đối với Bourdieu, các giai cấp theo nghĩa mác xít và theo nghĩa các nhóm địa vị trên thực tế chỉ là “hai phương thức tồn tại của bất kỳ nhóm nào”. Max Weber có lẽ đúng khi tính đến các hiện tượng mang tính biểu tượng nhưng ông lại cho chúng một quyền tự chủ quá mức; “uy tín” cũng chỉ là một hình thức bị che phủ của vị thế kinh tế và các nhóm địa vị là “những giai cấp bị phủ nhận hoặc, nói một cách khác, được thăng hoa và do đó được chính đáng hóa” [PB 1966f; 1978a].

Trường các tầng lớp (giai cấp) xã hội

Trong những năm 1970, Bourdieu tiếp tục nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về các giai cấp xã hội, nhưng đồng thời phát triển lý thuyết trường của mình ngày càng rõ ràng hơn và chuyển sang các đối tượng mới, chẳng hạn như các quan điểm chính trị [Questions de sociologie: 222 -235] hoặc giới chủ nhân [PB 1978b]. La Distinction là một công trình tổng hợp đề xuất cả lý thuyết về các giai cấp xã hội lẫn thao tác xây dựng các giai cấp. Nếu cuốn sách dựa trên sự phân tích các giai cấp được phát triển trong các nghiên cứu về giáo dục và văn hóa, thì nó cũng huy động các yếu tố về các thực tiễn kinh tế và chính trị, như để điều chỉnh những sự lệch lạc ​​của một công trình chỉ xây dựng dựa trên các thực tiễn văn hóa. La Distinction làm sáng tỏ cấu trúc tam nguyên trong đó mỗi giai cấp (thống trị, trung lưu và bình dân) được chia thành các tầng lớp giai cấp. Các tầng lớp giai cấp tạo thành một khái niệm quan trọng và một số thuật ngữ được sử dụng để chỉ định chúng, chẳng hạn như “tầng lớp tiểu tư sản mới”, đã gây ra cuộc tranh luận rộng rãi [Lechien 2013]. La Distinction sử dụng số liệu thống kê, đặc biệt thông qua công cụ mới là phân tích các tương ứng, để xây dựng các tầng lớp xã hội vốn, giống như “các hạng loại thống kê”, vừa rất khác biệt và vừa rất đồng nhất. Việc thiết kế thực nghiệm các giai cấp đặt ra vấn đề về tiêu chí được sử dụng: Bourdieu, thay vì thiên về quan điểm mác xít nhấn mạnh vị trí trong quan hệ sản xuất, lại xác định giai cấp dựa trên các điều kiện tồn tại và tập tính của giai cấp [Di: 435 ff.].

Những hoạt động thực nghiệm này diễn ra trong suốt những năm 1970 [Saint-Martin 2013] giúp trình bày lại một cách hoàn thiện hơn các vấn đề được đặt ra trong những năm 1960. Ưu thế dành cho giai cấp có nghĩa là, không phải giới tính, tuổi tác, nguồn gốc xã hội hay nơi cư trú là không đáng kể, mà chúng có những hình thái khác nhau trong mỗi giai cấp xã hội. Hơn nữa, chúng là các yếu tố góp phần định nghĩa giai cấp hoặc tầng lớp giai cấp. Mối quan hệ giữa giai cấp với các nhân tố này giống như mối quan hệ giữa giới tính và loài [Di: 116-120]. Nghiên cứu thực nghiệm cũng dẫn đến việc đặt câu hỏi về danh mục các CSP. Năm 1982, INSEE cũng tiến hành điều chỉnh lại danh mục này có tính đến sự phân tích các giai cấp được đề xuất trong La Distinction [Amossé 2013].

Trong La Distinction, sự phân tích các giai cấp xã hội cũng được tái thiết kế trong khuôn khổ của lý thuyết trường mà, chẳng hạn, đặc điểm “phân dạng (fractal)” thấm sâu vào cấu trúc được cập nhật: sự đối lập giữa những kẻ thống trị và những kẻ bị trị không chỉ tổ chức các giai cấp, mà mỗi giai cấp được chia thành các tầng lớp thống trị (chủ yếu sở hữu loại vốn thống trị là vốn kinh tế) và các tầng lớp bị thống trị (chủ yếu sở hữu loại vốn bị thống trị là vốn văn hóa). Khi nhìn lại, việc phân tích giai cấp thống trị được đề xuất trong La Distinction có thể được xem như là một bước trung gian giữa những phân tích đầu tiên về sự đối ngẫu tréo trong nội bộ các giai cấp thượng lưu [PB 1971g] và sự phân tích về trường quyền lực [La Noblesse d’État]. Tầng lớp trung lưu cũng được tư duy như là một trường tương đương với trường quyền lực nhưng kém tự trị hơn. Các giai cấp có xu hướng hình thành các không gian trong đó các nhóm sở hữu khối lượng vốn gần như tương đương nhau được phân biệt dựa trên cấu trúc và quỹ đạo của chúng, khi trường các giai cấp xã hội được biểu thị như là “không gian xã hội”, một khái niệm được xem như là một trong những đóng góp lớn của La Distinction về mặt thực nghiệm và lý thuyết. Ý tưởng cho rằng sự thuộc về một giai cấp là nhân tố xã hội ít mang tính quyết định hơn vị trí và quỹ đạo trong không gian xã hội được nhấn mạnh trong cuốn sách và bản thân giai cấp đôi khi được định nghĩa là một “tập hợp các quỹ đạo” [Di: 123]. Nếu khái niệm không gian xã hội giúp trình bày lại sự phân tích các giai cấp và đặc biệt giúp làm rõ sự phân biệt giữa “các giai cấp được huy động” và “các giai cấp trên giấy tờ” [PB 1984a], thì nó cũng cạnh tranh với sự phân biệt này, bằng cách cấu thành một khái niệm khiêm tốn hơn nhưng cũng tốt hơn [Pinto 1999: 116].

Julien Duval

Giám đốc nghiên cứu CNRS (CESSP)

AMOSSÉ T., 2013, “La nomenclature socio-professionnelle. Une histoire revisitée”, Annales. Histoire, sciences sociales, vol. 68, no 4, p. 1039-1075. – LECHIEN M.-H., 2013, ““Petite bourgeoisie nouvelle” ou “nouvelles couches moyennes salariées”? Retour sur un débat et sur un enjeu, la domination”, in P. COULANGEON et J. DUVAL (dir.), Trente ans après La Distinction de Pierre Bourdieu, Paris, La Découverte, p. 255-265. – PINTO L., 1999, Pierre Bourdieu et la théorie du monde social, Paris, Albin Michel. – SAINT-MARTIN M. (de), 2013, “Les tentatives de construction de l’espace social, d’”Anatomie du goût” à La Distinction. Quelques repères pour l’histoire d’une recherche”, in P. COULANGEON et J. DUVAL (dir.), Trente ans après La Distinction de Pierre Bourdieu, Paris, La Découverte, p. 29-44.

ALGÉRIE, AMOUR DE L’ART (L’), ANALYSE DES CORRESPONDANCES, AUTONOMIE, CAPITAL, CAPITAL CULTUREL, CAPITAL ÉCONOMIQUE, CATÉGORIE(S), CENTRE DE SOCIOLOGIE EUROPÉENNE, CHAMP, CHAMP DU POUVOIR, CHIASME, CLASSE(S) MOBILISÉE(S), CLASSE(S) MOYENNE(S), CLASSES POPULAIRES, CONSCIENCE DE CLASSE, CULTURE, DIFFÉRENCIATION, DISTINCTION (LA), DOMINATION, ÉDUCATION, ESPACE SOCIAL, ÉTUDIANTS, GROUPE(S), HABITUS, HIÉRARCHIE, INSTITUT NATIONAL DE LA STATISTIQUE ET DES ÉTUDES ÉCONOMIQUES, LÉGITIMATION, LUTTE(S), MARXISME, MUSÉE(S), OBSERVATION(S), OPINION PUBLIQUE, PATRONAT, PAYSANNERIE, PETITE BOURGEOISIE, POSITION(S), STATISTIQUES, STYLE DE VIE, TRAJECTOIRE(S), WEBER

Thư mục:

1979 [Di] La Distinction. Critique sociale du jugement, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une introduction, 1982.

1980 [QS] Questions de sociologie, Paris, Minuit, rééd. 2002.

[PB 1966f] “Condition de classe et position de classe”, Archives européennes de sociologie, vol. 7, no 2, p. 201-223.

[PB 1971g] “Reproduction culturelle et reproduction sociale”, Informations sur les sciences sociales, vol. 10, no 2, p. 45-70.

[PB 1977b] “Une classe objet”, ARSS, no 17-18, p. 1-5.

[PB 1978a] “Capital symbolique et classes sociales”, L’Arc, no 72, p. 13-19.

[PB 1978b] “Le patronat” (avec M. de Saint-Martin), ARSS, no 20-21, p. 3-82.

[PB 1984a] “Espace social et genèse des classes”, ARSS, no 52-53, p. 3-15.

* * *

CLASSES POPULAIRES

[(CÁC) GIAI CẤP BÌNH DÂN]

Đối với Pierre Bourdieu, “nhân dân” hay “tính bình dân” là một trong những vấn đề trong cuộc đấu tranh giữa các trí thức” PB 1997a: 178]. Đó là cách chúng ta có thể hiểu được những sự tố giác chéo những khuyết điểm trong “các chủ nghĩa” - “chủ nghĩa tả khổ (misérabilisme)”, “chủ nghĩa chính đáng (légitimisme)”, “chủ nghĩa dân túy (populisme)”, “chủ nghĩa duy công nhân (ouvriérisme)”, v.v. – trong các cuộc tranh luận chính trị-trí tuệ. Từ viễn cảnh này, chúng ta phải tự hỏi những hình tượng này về nhân dân bị tác động như thế nào bởi những người tạo ra đã chúng, tức là về vị trí mà họ nắm giữ trong trường sản xuất văn hóa và về quỹ đạo đã đưa họ đến đó [PB 1997a: 180]. Logic của việc đồng nhất hóa với ảo ảnh vốn xem “mối quan hệ mang tính ‘trí tuệ’ với tình trạng của người công nhân như là mối quan hệ của người công nhân với tình trạng này”, có thể tạo ra “một công nhân hoàn toàn dấn thân vào ‘cuộc đấu tranh’ hoặc ngược lại, thông qua sự đảo ngược đơn giản, như trong các huyền thoại, tuyệt vọng cam chịu với số phận của chính mình, với “cái bản thể tự thân” của người công nhân” [Méditations pascaliennes: 223].

Điều này cho thấy mệnh lệnh phản tư “được áp đặt lên nhà nghiên cứu một cách đặc biệt thúc bách nếu anh ta muốn thoát khỏi sự lựa chọn thay thế giữa chủ nghĩa lấy giai cấp làm trung tâm (ethnocentrisme de classe) và chủ nghĩa dân túy vốn là hình thức đảo ngược của nó” [PB 1997a: 181]. Để tách biệt với những quan điểm này vốn phụ thuộc vào quan điểm của những người đại diện hơn là những người được đại diện, chắc chắn không có giải pháp nào khác ngoài việc “yêu cầu nhân dân phân xử theo một cách nào đó những cuộc đấu tranh của các nhà trí thức về chính bản thân nhân dân” [PB 1997a: 182], bằng cách tiến hành một sự suy nghĩ mang tính phản tư về cuộc điều tra. Nhưng kiểu điều tra này lại vấp phải sự nội tâm hóa các biểu tưởng thống trị bởi những người bị (thống) trị: tiếp nhận những (thành kiến) khuôn mẫu được truyền tải bởi các trung gian văn hóa, “các giai cấp bị thống trị không lên tiếng, họ bị nói hộ” Bourdieu giải thích [PB 1977b: 2-5]. Hơn nữa, chính việc tham gia điều tra chắc chắn đòi hỏi một số đặc tính xã hội đặc thù [Mauger 1991]. Cuối cùng, mỗi người đều có thể “một cách vô thức thao túng sự mở rộng [của giai cấp bình dân] để điều chỉnh sự mở rộng này cho phù hợp với lợi ích, với thành kiến ​​hoặc ảo ảnh xã hội của mình” [PB 1983a]: “nhận thức và đánh giá về các thành phần khác nhau của giai cấp công nhân - và đặc biệt là giai cấp vô sản và giai cấp bần cố nông – và về sự đóng góp có thể có của các thành phần này cho hoạt động cách mạng phụ thuộc […] vào vị trí và quỹ đạo xã hội của những người, trí thức hoặc nhà hoạt động, những người phải có quan điểm về những vấn đề này và mối quan hệ thân thiết của họ với giai cấp công nhân “đã được xác lập” và những yêu sách của giai cấp “đã được xác lập” hoặc với giai cấp công nhân “không ổn định” và các cuộc nổi dậy của giai cấp “không ổn định” [PB 1980: 12].

Trong chương của La Distinction dành cho các giai cấp bình dân, Bourdieu phần nào tiếp nối truyền thống mác xít bằng cách định nghĩa giai cấp xã hội bằng vị trí của giai cấp này trong quan hệ sản xuất” và bằng “tập tính giai cấp vốn “thông thường” […] gắn liền với vị trí này” [Di: 434]. Vị trí của giai cấp bình dân trong quan hệ sản xuất được ấn định bởi quan hệ tiền công: mối quan hệ phụ thuộc giữa các tác nhân trong đó một bên nắm giữ các điều kiện của sự tái sản xuất vật chất của bên kia. Còn tập tính giai cấp mà công thức tạo sinh là “sự lựa chọn điều tất yếu” thì “tính tất yếu của việc phải áp đặt một thị hiếu về sự cần thiết, hàm ý một hình thức thích ứng với tính tất yếu và, thông qua đó, là sự chấp nhận cái cần thiết, sự cam chịu cái không thể tránh khỏi” [Di: 434]. Bourdieu bao gồm công nhân cho đến quản đốc và nông dân trong thế giới xã hội được xác định như vậy, nhưng ông loại trừ những viên chức: “giữa những công nhân có chuyên môn và những người quản đốc vẫn bị chi phối bởi nguyên tắc tuân thủ, và những viên chức, những người, ít nhất là về mặt tinh thần, đã bắt đầu tham gia cuộc đua, thực sự có một ranh giới, cả về lối sống lẫn quan điểm chính trị” [Di: 452]. Trong bối cảnh này, ông nhấn mạnh các mối quan hệ khác biệt về mặt xã hội của các giai cấp bình dân đối với tính chính đáng văn hóa: từ sự chống đối công khai đến việc nội tâm hóa tính không xứng đáng (indignité) về văn hóa qua đến logic của “cái riêng của tôi”.

Trong la Distinction, sự tự trị mang tính biểu tượng của các giai cấp bình dân dựa trên cả các giá trị của sự nam tính, trên cái “phản văn hóa” công đoàn và chính trị cũng như trên các thể hiện xã hội kết hợp chủ nghĩa khắc kỷ và chủ nghĩa khoái lạc. Như vậy, Bourdieu mời chúng ta tự hỏi liệu “việc đánh giá cao sức mạnh thể chất như là một chiều kích cơ bản của nam tính” [Di: 447], sức lao động và sức chiến đấu, phải chăng là “một trong những hình thức mang tính tự trị” của sự tự khẳng định cái tôi với tư cách làmột giai cấp? [Di: 448]. Tương tự như vậy, ông gắn sự tự trị mang tính biểu tượng của các giai cấp bình dân với “mọi thứ liên quan đến chính trị, đến truyền thống đấu tranh của công đoàn, không gian duy nhất của nguyên tắc của cái phản văn hóa”, ngay cả khi ông chỉ rõ rằng “chiều kích văn hóa không ngừng tác động ở đây” [Di: 459]. Cuối cùng, Bourdieu gợi lên “nghệ thuật sống” của các giai cấp bình dân, trong đó một “chủ nghĩa vật chất hoài nghi” được pha trộn với một loại “chủ nghĩa khắc kỷ bình dân”, “một s minh triết có được qua thử thách của sự cần thiết, sự đau khổ, sự tủi nhục” và một “chủ nghĩa hoan lạc thực tế”, “cái cảm thức về sự hoan hỷ và lễ hội, về sự tự thể hiện và sự đoàn kết thực tiễn với người khác”, vốn đều xuất hiện như “một hình thức thích ứng với các điều kiện sống và sự phòng vệ trước những điều kiện này’ [Di: 458-459]. Nhưng ông cũng nhấn mạnh đến tính không đồng nhất của các giai cấp bình dân như là kết quả của sự tước đoạt về mặt kinh tế và văn hóa. Sự tước đoạt về kinh tế không chỉ áp đặt “sự lựa chọn cái cần thiết”: vì mối quan hệ tiền công còn bao hàm sự tách biệt khách quan và chủ quan với các sản phẩm của quá trình sản xuất, khi “lao động và sản phẩm của lao động, (opus proprium), xuất hiện trước mắt người lao động như là sản phẩm của sự tha hóa (opus alienum)” [Di: 450]. Hơn nữa, trong khuôn khổ “phương thức tái sản sinh với thành tố học vấn” [La Noblesse d’État], bạo lực mang tính biểu tượng được thực hiện bởi hệ thống giáo dục [Di: 450-452] biến giáo dục thành một trong những định chế cơ bản của việc duy trì trật tự xã hội. và sự tước đoạt về mặt văn hóa của các tầng lớp bình dân mang lại sự biện minh rõ ràng nhất cho sự tước đoạt các tầng lớp này về mặt kinh tế [Mauger 2013].

Tuy vậy, việc phân tích các giai cấp bình dân, trong La Distinction, dành ít chỗ cho sự đa dạng hơn so với các giai cấp thống trị hoặc tầng lớp tiểu tư sản [Grignon và Passeron 1989: 115]. Claude Grignon đề xuất xem những sự khác biệt do sự sở hữu các tài sản nhỏ tạo ra đóng vai trò tương tự trong nghiên cứu so sánh về các bộ phận khác nhau của giai cấp bình dân giống như sự đối lập giữa các loại vốn khác nhau trong nghiên cứu so sánh về thị hiếu của các thành phần khác nhau của giai cấp thống trị [Grignon và Passeron 1989: 117]. Chính ý tưởng này cũng làm nền tảng cho việc xây dựng “không gian xã hội hai chiều” của Jan C. C. Rupp [1995: 97] để mô tả các giai cấp bình dân, mà theo ông, “là nơi diễn ra một quá trình phân biệt giữa tầng lớp với ưu thế văn hóa và tầng lớp với ưu thế kinh tế “và cũng chính ý tưởng này đã dẫn đến việc phân biệt không phải hai mà là ba cực trong không gian lối sống của giới trẻ trong các tầng lớp bình dân [Mauger 2006; 2009].

Chắc chắn, các cuộc điều tra của Bourdieu mang dấu vết của thời gian. Ngoài những biến đổi hình thái sâu sắc (sự gần như biến mất của nông dân nay chỉ chiếm dưới 3% của dân số lao động, sự suy giảm về số lượng của công nhân hiện chiếm ít hơn 23% dân số lao động và sự mở rộng số lượng nhân viên dịch vụ nay chiếm hơn 29%), những gì đã tạo ra sự tự trị mang tính biểu tượng của các giai cấp bình dân – các giá trị của sự nam tính, nên phản văn hóa chính trị và nghiệp đoàn – ngày nay đã bị truất phế. Những gì từng làm nên sự dị biệt của họ ngày càng được củng cố (sự bất an về mặt kinh tế ngày càng gia tăng, việc đại chúng hóa giáo dục ngày càng khiến cho cảm thức về sự không xứng đáng về mặt văn hóa là điều không thể tránh khỏi), và những lời kêu gọi tôn trọng nguyên tắc tuân thủ ngày càng trở nên kém hiệu quả trong một thế giới ngày càng bị chia rẽ [Schwartz 1998]. Tuy nhiên, trong bối cảnh của mối quan hệ giống nhau đối với tiền công, của sự “xói mòn” thân phận làm công ăn lương [Castel 1995] và của những bất bình đẳng ngày càng trầm trọng, thân phậncủa người công nhân đã tiến gần hơn đến thân phận của nhân viên làm dịch vụ (nói chung, trải nghiệm của người công nhân ngày càng gần với trải nghiệm của các ngành nghề chấp hành khác được xếp trong hạng mục dịch vụ) [Siblot et al. 2015]. Nhưng mặc dù các tầng lớp bình dân ngày nay bị coi như là một thế giới “bị đánh bại (dé-faire)” về mặt chính trị và biểu tượng, nhưng họ vẫn không biến mất khỏi không gian xã hội: sự ẩn khuất tạm thời thật ra là sự vắng bóng của sự tái sản sinh mang tính biểu tượng và chính trị của họ [Mauger 2006b].

Gérard Mauger

Giám đốc nghiên cứu danh dự CNRS (CESSP)

CASTEL R., 1995, Les Métamorphoses de la question sociale. Une chronique du salariat, Paris, Fayard. – GRIGNON C. et J.-C. PASSERON, 1989, Le Savant et le populaire. Misérabilisme et populisme en sociologie et en littérature, Paris, EHESS/Gallimard/Seuil. – MAUGER G., 1991, “Enquêter en milieu populaire”, Genèses, no 6, p. 125-143. – MAUGER G., 2006a, Les Bandes, le milieu et la bohème populaire. Études de sociologie de la déviance des jeunes des classes populaires (1975-2005), Paris, Belin. – MAUGER G., 2006b, “Les transformations des classes populaires en France depuis trente ans”, in J. LOJKINE, P. COURS-SALIES et M. VAKALOULIS (dir.), Nouvelles Luttes de classes, Paris, PUF, p. 29-42. – MAUGER G., 2009, La Sociologie de la délinquance juvénile, Paris, La Découverte. – MAUGER G., 2013, “Bourdieu et les classes populaires. L’ambivalence des cultures dominées”, in P. COULANGEON et J. DUVAL (dir.), Trente ans après La Distinction de Pierre Bourdieu, Paris, La Découverte, p. 243-254. – RUPP J., 1995, “Les classes populaires dans un espace social à deux dimensions”, ARSS, no 109, p. 93-98. – SCHWARTZ O., 1998, La Notion de “classes populaires”, habilitation à diriger des recherches en sociologie, Université de Versailles/Saint-Quentin-en-Yvelines. – SIBLOT Y. et al., 2015, Sociologie des classes populaires contemporaines, Paris, Armand Colin.

AUTONOMIE, CAPITAL, CHAMP, CHAMP(S) DE PRODUCTION CULTURELLE, CLASSE(S) DOMINANTE(S), CLASSE(S) SOCIALE(S), DÉPOSSESSION, DIFFÉRENCE, DIFFÉRENCIATION, DISTINCTION (LA), DOMINATION, ÉDUCATION, ENQUÊTE(S), ESPACE SOCIAL, ETHNOCENTRISME, ETHOS, GOÛT, HABITUS, HÉTÉRONOMIE, INTELLECTUEL(S), INTÉRIORISATION, LÉGITIMATION, LUTTE(S), MARXISME, MISÉRABILISME, ORDRE SOCIAL, PERCEPTION, PETITE BOURGEOISIE, POPULAIRE, POPULISME, POSITION(S), PROLÉTAIRES, RÉFLEXIVITÉ, REPRÉSENTATION(S), SOUS-PROLÉTAIRES, STYLE DE VIE, TRAJECTOIRE (S), VIOLENCE SYMBOLIQUE

Thư mục:

1979 [Di] La Distinction. Critique sociale du jugement, Paris, Minuit, nouvelle éd. augmentée d’une introduction, 1982.

1989 [] La Noblesse d’État. Grandes Écoles et esprit de corps, Paris, Minuit.

1997 [MP] Méditations pascaliennes, Paris, Seuil, rééd. “Points”, 2003.

[PB 1977b] “Une classe objet, ARSS, no 17-18, p. 1-5.

[PB 1980] “Le capital social. Notes provisoires”, ARSS, no 31, p. 2-3.

[PB 1983a] “Vous avez dit populaire?”, ARSS, no 46, p. 98-105. 

[PB 1997a] “Les usages sociaux de la science. Pour une sociologie clinique du champ scientifique”, Paris, INRA.

Phạm Như Hồ dịch

CLASSE OBJET [GIAI CẤP ĐỐI TƯỢNG]

CLASSE(S) SOCIALE(S)

Nguồn: Dictionnaire international Bourdieu, CNRS Éditions, 2020.

Print Friendly and PDF