30.8.20

Điểm tử huyệt Trung Quốc – Công nghệ bán dẫn

ĐIỂM TỬ HUYỆT TRUNG QUỐC – CÔNG NGHỆ BÁN DẪN

Tác giả: Tôn Thất Thông
Giữa năm 2018, TT Trump ban hành đạo luật cấm các công ty ở Mỹ cung cấp sản phẩm điện tử cho Hoa Vi (Huawei) và một số hãng khác của Trung Quốc. Dường như hiệu quả của lệnh cấm không cao, cho nên tháng 5.2020, Mỹ nới rộng lệnh cấm đến tất cả các công ty khác trên thế giới đang sử dụng công cụ, thiết bị hoặc bản quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ, các công ty đó cũng bị ràng buộc bởi lệnh cấm năm 2018. Có phải đó là cuộc bao vây toàn diện, một độc chiêu điểm vào tử huyệt của Trung Quốc? Không bàn vào tính chất chính trị của quyết định nói trên và những thiệt hại mà nền kinh tế Mỹ sẽ cùng gánh, bài viết sau đây tìm cách lý giải hậu quả nào Trung Quốc sẽ hứng chịu.
***
Vài dòng về công nghệ bán dẫn
Bán dẫn (Semiconductor) là gì? Nó quan trọng thế nào? Bán dẫn là loại vật liệu không thể thiếu được trong mọi sản phẩm điện tử ngày nay. Trong tiền bán thế kỷ 20, các sản phẩm điện tử đều có vật liệu chủ đạo là đèn chân không (Vacuum tubes), vừa nặng nề, kích thước lớn, năng suất không cao và tiêu thụ nhiều điện năng. Nhưng kể từ 1959, khi Transistor được đưa vào sản xuất hàng loạt, chất bán dẫn đã chấm dứt kỷ nguyên đèn chân không và mở đầu một cuộc cách mạng có một không hai trong công nghiệp điện tử kéo dài tới hôm nay và chi phối sự phát triển của mọi lĩnh vực công nghệ khác.
Từ thập niên 1960, dựa trên nguyên lý hoạt động của transistor nhị nguyên, người ta bắt đầu nghiên cứu và sản xuất IC (Integrated Circuit), tạm dịch là mạch tích hợp thế hệ một, cũng thường được gọi là Chip. Mỗi IC lớn bằng đốt ngón tay chứa hàng chục hoặc hàng trăm transistor để thực hiện một hoặc nhiều chức năng tiêu chuẩn được thiết kế. Vài loại IC tiêu biểu: cổng tín hiệu, flip-flop, máy đếm, v.v.. Nhờ công nghệ IC, máy tính hiện đại năng suất cao ra đời. Mô hình IBM-360 là gia đình máy tính nổi tiếng lúc đó, chiếm ngự thị trường thế giới suốt hai thập niên 1960 và 1970. Kể từ đây, người ta đổ xô vào việc nghiên cứu ứng dụng chất bán dẫn trong các IC với chức năng ngày càng phức tạp, tổng hợp ngày càng nhiều transistor trong một linh kiện và tiêu thụ ngày càng ít năng lượng.
Sáng kiến đầu tiên là chế tạo các Chip vạn năng trong đó chứa sẵn một loạt các linh kiện cơ bản; chúng có thể được kết nối với nhau để biến đổi chức năng bằng chương trình theo yêu cầu đặc thù của khách hàng, đó là những FPGA (Field-programmable Gate Array). Sản phẩm này đã giúp các công ty nhỏ có thể sử dụng công nghệ cao cấp để chen chân vào thị trường, cạnh tranh với các tập đoàn lớn. Tuy nhiên, FPGA chỉ phù hợp cho những ứng dụng đặc biệt với số lượng nhỏ (thí dụ tối đa vài chục ngàn chiếc), hoặc tạm thời sử dụng nó để thử nghiệm chức năng của các sản phẩm mẫu (Prototype).
Để sản xuất hàng loạt với số lượng cao và giá thành hạ, ASIC (Application Specific Integrated Circuit) là lời giải tốt nhất, nhưng cũng tốn kém nhất để đầu tư trong thời gian thiết kế thử nghiệm, cho nên chỉ có những tập đoàn lớn với phương tiện tài chánh dồi dào và nhiều chuyên gia lành nghề mới có thể đi vào hoạt động đầy rủi ro này. Kể từ đây, một nghề nghiệp mới được phát sinh, qui tụ chuyên gia thượng thặng của ngành điện tử, đó là ASIC Designer. ASIC cũng là bước phát triển cao nhất của công nghệ bán dẫn và chi phối xu hướng phát triển ngành điện tử thế giới. Thống kê từ 1970 đến 2018 cho biết, trung bình cứ hai năm, mức độ tổng hợp của ASIC tăng lên gấp đôi [xem Wikipedia, Moore’s Law] với lượng tiêu thụ điện năng giảm xuống hơn một nửa. Nếu trong thập niên 1980, ASIC còn sử dụng công nghệ sản xuất Chip ở độ chính xác micro mét, thì bây giờ, hãng nào không nắm vững công nghệ chính xác dưới 10 nano mét thì không có cơ hội cạnh tranh trên thị trường. Các ứng dụng quan trọng nhất và cũng phức tạp nhất hiện nay là CPU (Central Processing Unit), bộ nhớ (Memory) và các SoC (System on a Chip), tức là các Chip hàm chứa cả CPU, bộ nhớ và các chức năng điều khiển khác được tổng hợp trong một linh kiện duy nhất. Ứng dụng quen thuộc nhất của SoC là smartphone. Chúng ta hãy so sánh máy tính IBM-360 ở thập niên 1960, dù lớn bằng một toa xe lửa, nhưng năng lực tính toán của nó còn thua xa một smartphone bỏ túi mà chúng ta đang dùng hàng ngày.
Nói tóm tắt, không có một ngành nào hiện nay không sử dụng sản phẩm điện tử. Và không có sản phẩm điện tử nào mà không hàm chứa các Chip bán dẫn ngày càng cao cấp. Công nghệ bán dẫn đang và sẽ còn chi phối sự phát triển lâu dài của mọi ngành công nghệ thế giới. Hậu quả của việc cấm vận sản phẩm bán dẫn đối với Liên Xô và các xứ Đông Âu trong hậu bán thế kỷ 20 cũng cho chúng ta một cái nhìn tương đối về tầm quan trọng của chúng: sự tụt hậu của các quốc gia đó gắn liền với khả năng tiếp cận rất hạn chế đến công nghệ bán dẫn mà chủ yếu là máy tính điện tử.
Print Friendly and PDF

29.8.20

Lazarsfeld Paul-Felix, 1901-1976

Paul Lazarsfeld (1901-1976)

LAZARSFELD PAUL-FELIX, 1901-1976

Lazarsfeld chào đời tại Wien. Đến New York năm 1933 với một học bổng nghiên cứu ở Rochester, ông ở lại Hoa Kì sau cuộc đảo chính của thủ tướng. Được bổ nhiệm làm giáo sư đại học Columbia năm 1941, cả sự nghiệp của ông diễn ra ở đây cho đến lúc về hưu năm 1970. Lazarsfeld nổi tiếng nhờ vai trò quan trọng của ông trong sự phát triển của xã hội học bằng các cuộc điều tra, của xã hội học định lượng và của xã hội học toán. Ông tiến hành những cuộc điều tra được coi là cổ điển đặc biệt trong những lĩnh vực của xã hội học về thất nghiệp, phát thanh, tiêu dùng và bầu cử. Ông đã góp phần vào việc tầm thường hoá các phương pháp phân tích thống kê trong xã hội học. Ông là người sáng tạo những phương pháp quan sát, như phương pháp panel; ông ở cội nguồn của những phương pháp phân tích dữ liệu, như phương pháp nhiều chiều. Ông lấy cảm hứng của những phương pháp này từ một chương trình nghiên cứu chung, được ông đặt tên là “phân tích thực nghiệm hành động”.
Ông mượn của các nhà tâm lí học K. và Ch. Bühler ý tưởng cho rằng việc hiểu biết những hành động cá nhân là một trong những mục đích chính của các khoa học xã hội. Từ giáo huấn của A. Adler ông giữ lại ý các động cơ không phải bao giờ cũng tức thì có mặt trong ý thức của tác nhân và do đó cần được “xây dựng lại”, để sử dụng một từ của Weber mà Lazarsfeld không dùng.
Có thể xây dựng lại những lí do và động cơ nằm bên dưới hành động đặc biệt bằng cách dựa trên việc so sánh những nhóm con mà phân tích nhiều chiều cho phép xác định, hoặc trên việc so sánh những câu trả lời thu được khi điều hoà dạng các câu hỏi đặt ra. Ở đây việc xem xét những “trường hợp lệch chuẩn” cũng có thể có một vai trò cơ bản. Các nguyên tắc này cũng có thể áp dụng cho những hành vi tiêu dùng cũng như cho những lựa chọn bầu cử, thậm chí cho những quan điểm ý thức hệ mà tác phẩm The Academic Mind (1958) nghiên cứu.
Print Friendly and PDF

28.8.20

“Ngày nay, nhiều người trong số họ vẫn giữ một cảm giác không chính đáng”: trong khủng hoảng y tế, các chuyên gia nữ có tỉ lệ đại diện thấp

“NGÀY NAY, NHIỀU NGƯỜI TRONG SỐ HỌ VẪN CÒN GIỮ MỘT CẢM GIÁC KHÔNG CHÍNH ĐÁNG”: TRONG KHỦNG HOẢNG Y TẾ CÁC CHUYÊN GIA NỮ CÓ TỶ LỆ ĐẠI DIỆN THẤP.

Anne Chemin
ĐIỀU TRA | 80% các “chuyên gia” được giới truyền thông phỏng vấn về Covid-19 và những hậu quả của nó là nam giới. Sự thiếu vắng cân bằng giới này là sản phẩm của một lịch sử lâu dài: trong nhiều thế kỷ, nữ giới đã bị loại ra khỏi thế giới tri thức và cả không gian công cộng.
Họ đã biến mất khỏi cuộc thảo luận công cộng mà không báo trước, như đi rón rén trên đầu ngón chân - đến nỗi phải cần đến bộ máy thống kê của Viện nghe nhìn quốc gia Pháp (- INA - l’Institut national de l’audiovisuel) và Hội đồng nghe nhìn tối cao Pháp (- CSA - Conseil supérieur de l’audiovisuel) để đo lường qui mô của thất bại thảm hại này. Trong khủng hoảng Covid-19, các “chuyên gia” nữ vắng bóng, hoặc gần như thế, trên các sân khấu truyền hình và các cuộc thảo luận qua đài phát thanh. “Tiếng nói có uy tín vẫn là độc quyền của nam giới, kể cả trong lĩnh vực y tế nơi đa số là nữ”, các nhà nghiên cứu David Doukhan, Cécile Méadel và Marlène Coulomb-Gully đã xác nhận như vậy ngày 23 tháng sáu trên tạp chí truyền thông của INA (Revue des médias de l’INA) sau khi phân tích báo chí của các đài TF1, France 2, France 3, Cnews và BFM-TV từ tháng ba đến tháng tư 2020.
Nhận xét của CSA cũng không kém phần nghiêm khắc. Khủng hoảng y tế đã làm “trầm trọng thêm” một sự bất thường mà chính quyền chống lại từ nhiều năm nay: tỷ lệ nữ giới thấp hơn nam giới trong lĩnh vực truyền thông nghe nhìn (41% nữ, 59% nam), thường bị giới hạn trong những bộ phận truyền thống của nữ giới - lời chứng về đời sống hàng ngày (55% nữ, 45% nam). Trong khủng hoảng y tế, nữ giới được mời trình bày kinh nghiệm bản thân của “người mẹ trong cách ly” hoặc nạn nhân của bạo lực, nhưng hiếm khi nữ giới được khoác lên chiếc áo đáng kính trọng của chuyên gia.
Print Friendly and PDF

26.8.20

5 nhà kinh tế định nghĩa lại ... mọi thứ. Ồ vâng, và họ là phụ nữ

5 NHÀ KINH TẾ ĐỊNH NGHĨA LẠI… MỌI THỨ. Ồ VÂNG, VÀ HỌ LÀ PHỤ NỮ
Tôi viết về việc tạo ra các quốc gia, công ty và các cặp vợ chồng cân bằng về giới.
Ảnh từ trên xuống và từ bên trái sang phải: Mariana Mazzucato, Carlota Perez, Kate Raworth, Stephanie Kelton, Esther Duflo.
Có rất ít nhà kinh tế trở thành những tên tuổi quen thuộc đối với công chúng. Vào thế kỷ trước, đó là các nhà kinh tế học John Maynard Keynes hay Milton Friedman. Ngày nay, Thomas Piketty đã trở thành hậu duệ có tên tuổi của các nhà kinh tế học. Tuy nhiên, hãy lắng nghe những lời bàn tán, và đó là năm nhà kinh tế học nữ đáng được chúng ta chú ý. Họ đang cách mạng hóa lĩnh vực của mình bằng cách đặt câu hỏi về ý nghĩa của mọi thứ, từ ‘giá trị’ và ‘nợ’ đến ‘tăng trưởng’ và ‘GDP.’ Esther Duflo, Stephanie Kelton, Mariana Mazzucato, Carlota Perez và Kate Raworth đều thống nhất với nhau ở một điều: sự ngạc nhiên của họ về cách thức ngành kinh tế học đã được xác định và tranh luận từ trước đến nay. Ta có thể thấy rõ sự hoài nghi này của họ một cách cụ thể.
Print Friendly and PDF

25.8.20

Những vấn đề lớn nhất của Bitcoin mà người ta không nói đến

NHỮNG VẤN ĐỀ LỚN NHẤT CỦA BITCOIN MÀ NGƯỜI TA KHÔNG NÓI ĐẾN
Bitcoin là loại tiền mã hóa lâu đời nhất và có giá trị cao nhất. Tuy nhiên, Bitcoin và nhiều loại tiền điện tử có một số vấn đề lớn mà bài viết này sẽ thảo luận. Một số vấn đề đã được biết đến và bàn luận rộng rãi, tuy nhiên tôi muốn tập trung hơn vào tác động đạo đức, xã hội và chính trị của các hệ thống này, những vấn đề vẫn chưa được thảo luận đủ.
Những vấn đề này áp dụng cho hầu hết các loại tiền điện tử mở không cần cấp quyền tham gia, ẩn danh giả bao gồm các nhánh Bitcoin, Ethereum, rất nhiều sản phẩm tài chính phi tập trung Ethereum (Ethereum defi products), Monero, Zcash, EOS và nhiều sản phẩm khác.
Tôi hy vọng bài viết này có thể khiến mọi người suy nghĩ sâu hơn một chút về những gì đang được xây dựng và liệu nó có làm cho thế giới tốt đẹp hơn không…
Bài viết này đem đến cái mà tôi gọi là một Câu chuyện nhị phân: một câu chuyện trình bày một quan điểm thực tế về một chủ đề. Điều đó không nhất thiết có nghĩa là phần ngược lại của câu chuyện là không đúng sự thật và Câu chuyện nhị phân không khiến các quan điểm khác về chủ đề này trở nên vô lý. Tất cả chúng ta đều có những quan điểm khác nhau và Câu chuyện nhị phân chỉ chia sẻ một quan điểm để người khác học hỏi và công nhận là hợp lý.
Print Friendly and PDF

24.8.20

Liệu châu Âu có thể tự giải phóng khỏi Trung Quốc được không?

LIỆU CHÂU ÂU CÓ THỂ TỰ GIẢI PHÓNG KHỎI TRUNG QUỐC ĐƯỢC KHÔNG?

Thủ tướng Đức Angela Merkel và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh, ngày 6/9/2019 (Nguồn: FT)
Vào ngày 1 tháng 7, Đức sẽ đảm nhận chức chủ tịch Liên minh châu Âu trong sáu tháng. Bị kẹt giữa những căng thẳng Trung-Mỹ, bà Angela Merkel sẽ phải tìm ra một không gian để khẳng định các yêu sách của châu Âu đối với Trung Quốc: quan hệ thương mại có đi có lại và chấm dứt thông tin sai lệch về đại dịch. Nhà nghiên cứu Federico Brembati đã làm rõ các thách thức nói trên. Alex Payette đã dịch diễn đàn của ông cho Asialyst.
Hội nghị thượng đỉnh giữa Liên minh châu Âu và Trung Quốc, vốn sẽ được tổ chức tại Leipzig, đã chính thức bị hoãn lại. Dự kiến ​​ban đầu là s din ra vào mùa xuân này, tháng 3 hoc tháng 4, nhưng cuc hp đã bị hoãn lại đến ngày 14 tháng 9 vì lý do đại dịch. Đây sẽ là cơ hội lý tưởng để Brussels và Bắc Kinh tăng cường các mối quan hệ khi Berlin đảm nhận chức chủ tịch Liên minh châu Âu trong sáu tháng kể từ ngày 1 tháng 6, và có nhiều khả năng để ký kết Thỏa thuận Toàn diện về Đầu tư (CAI, Comprehensive Agreement on Investment) được mong đợi từ lâu.
Print Friendly and PDF

23.8.20

Covid-19 đợt 2 đang đến, cần chuẩn bị những gì?

Nguyễn Sĩ Huyên

COVID-19 ĐỢT HAI ĐANG ĐẾN, CẦN CHUẨN BỊ NHỮNG GÌ?

Phỏng vấn GS TS Nguyễn Sĩ Huyên
Thực hiện: Nhóm Diễn Đàn Khai Phóng
Dịch COVID-19 chưa thuyên giảm, và xem ra có chiều tăng lên. Nguy cơ của làn sóng thứ hai đã dần dần trở thành hiện thực. Thêm vào đó, cuộc đua nước rút về nghiên cứu và sản xuất vắc-xin đang trong giai đoạn chung kết, cho nên tin tức liên hệ trở nên nhiều đến mức lạm phát. Bao giờ thì chúng ta sẵn sàng chích ngừa? Thuốc chủng nào chúng ta nên chọn? Tiêu chuẩn nào để chọn thuốc? Đó là những câu hỏi cần làm rõ. Vì thế, chúng tôi rất vui mừng được phỏng vấn GS TS Nguyễn Sĩ Huyên, người đã có những tiếp cận hàng ngày với đồng nghiệp chữa trị COVID-19 cũng như đồng nghiệp nghiên cứu vắc-xin bệnh truyền nhiễm. Ý kiến của GS Nguyễn Sĩ Huyên chắc chắn sẽ vô cùng có ích cho mọi người.
***
Print Friendly and PDF

21.8.20

Vắc xin, phát minh và thông tin khoa học: những sản phẩm công cộng như những sản phẩm khác?

VẮC XIN, PHÁT MINH VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC: NHỮNG SẢN PHẨM CÔNG CỘNG NHƯ NHỮNG SẢN PHẨM KHÁC?
Patrick O'Sullivan[*]
Các chính phủ có ý kiến khác nhau về các phương tiện kinh tế để tổ chức việc nghiên cứu chống lại virus. Chinnapong/Shutterstock
Ngay trong đại dịch Covid-19, đối mặt với sự kháng cự lì lợm, không chịu biến mất của virus, việc nghiên cứu vắc xin trở thành ưu tiên trong lĩnh vực y tế và chính trị, hơn nữa, những nghiên cứu dịch tễ học còn cho rằng có thể nhân loại phải học cách sống với virus này về lâu dài.
Nhưng nếu việc nghiên cứu một vắc xin là mối bận tâm được chia sẻ trên toàn thế giới, thì các ý kiến lại khác nhau về những cách tổ chức và tài trợ tốt nhất việc nghiên cứu và sản xuất vắc xin.
Các lãnh đạo chính trị đã có những tuyên bố quan trọng theo đó mọi vắc xin đều phải được xem là sản phẩm công cộng mà toàn nhân loại có thể tiếp cận được (hay ít nhất là đối với những người cần đến vì lý do sức khỏe). Ví dụ, tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã thông báo rõ vào đầu tháng 6 tại Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về chủng ngừa rằng ông muốn “hành động ngay từ bây giờ để khi phát minh ra vắc xin chống Covid-19 thì mọi người đều được hưởng vì nó sẽ là một sản phẩm công cộng toàn cầu”.
Print Friendly and PDF

20.8.20

Dược phẩm: Đại dịch COVID 19 đặt lại vấn đề quyền sở hữu trí tuệ

DƯỢC PHẨM: ĐẠI DỊCH COVID 19 ĐẶT LẠI VẤN ĐỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Philippe Froute[*]
Ông Tổng giám đốc Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới Francis Gurry (bên trái) và Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ Piyush Goyal (ở giữa) nhân dịp lễ công bố Global Innovation Index 2019 (Chỉ số sáng tạo toàn cầu năm 2019). Cùng với Brazil, Ấn Độ là một trong những nước đầu tiên đặt lại vấn đề luật pháp về bằng sáng chế.
Vào ngày 25 tháng 3 năm 2020, bác sĩ Denis Mukwege, người đoạt giải Nobel Hòa bình 2018, đã đưa ra lời kêu gọi cảnh giác và huy động tập thể để chống lại dịch coronavirus ở Châu Phi.
Denis Mukwege (1955-)
Antonio Guterres (1949-)
Ba ngày sau, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, ông Antonio Guterres, nói rằng ông sợ là lục địa Châu Phi sẽ có hàng triệu trường hợp tử vong do Covid-19 nếu không áp dụng các biện pháp ngay lập tức.
Hai lời kêu gọi đoàn kết này một lần nữa cho thấy tầm quan trọng của khoảng cách phát triển giữa các nền kinh tế của Phương Bắc và Phương Nam, cũng như những trở ngại vẫn còn để xóa bỏ nó. Mặc dù đã có những nỗ lực quốc tế, đặc biệt là từ Châu ÂuPháp, vào ngày 17 tháng 4, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới ước tính rằng còn cần phải huy động 44 tỷ đô la trong số 114 tỷ đô la cần thiết để triển khai các biện pháp chống dịch trên lục địa này vào năm 2020. Tình hình có thể còn tồi tệ hơn do hậu quả kinh tế của cuộc khủng hoảng y tế, có nguy cơ đặt ra câu hỏi về khả năng của các quốc gia trong việc tiếp tục hỗ trợ cho các nền kinh tế khác.
Ngoài khía cạnh tài chính, cuộc khủng hoảng ý tế Covid-19 trước hết đặt ra câu hỏi về sự tiếp cận với việc chăm sóc sức khỏe và thuốc men và đặc biệt là kiến ​​thức cần thiết để sản xuất chúng. Làm thế nào để khuyến khích các nhà sản xuất tham gia vào thị trường? Một giải pháp là thiết lập các cơ chế loại trừ và/hoặc tạo ra thế không có cạnh tranh cho một sản phẩm nhất định. Giải thích.
Print Friendly and PDF

18.8.20

Richard Horton, chủ bút tạp chí y học “The Lancet”: “Covid-19 cho thấy sự thất bại thảm hại của các chính phủ phương Tây”

RICHARD HORTON, CHỦ BÚT TẠP CHÍ Y HỌC “THE LANCET”: “COVID-19 CHO THẤY SỰ THẤT BẠI THẢM HẠI CỦA CÁC CHÍNH PHỦ PHƯƠNG TÂY”

Trong một quyển sách xuất bản ở Anh Quốc, chủ bút của tạp chí y học tố cáo sự bất lực của nhiều nước trước mối đe dọa của đại dịch mặc dù đã được báo trước. Ông nêu ra việc rút lại mới đây một nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí của ông.
Hervé Morin và Paul Benkimoun ghi lại
Richard Horton, chủ bút tạp chí “The Lancet”. DOUGLAS FRY / PIRANAH
Richard Horton là một gương mặt nổi bật không thể bỏ qua của hoạt động xuất bản những ấn phẩm khoa học. Là chủ bút của tạp chí y học Anh The Lancet từ một phần tư thế kỷ nay, ông vừa xuất bản một quyển sách trong đó ông tố cáo sự thất bại của các nhà hành pháp phương Tây trước đại dịch (The COVID-19 Catastrophe: What’s Gone Wrong and How to Stop It Happening Again (Thảm họa Covid - 19: Có điều gì sai và làm thế nào để ngăn nó không xảy ra nữa - ND -).
Ngay từ tháng 1 /2020, The Lancet đã đăng năm bài báo giúp hiểu được điều gì đang chờ đợi hành tinh của chúng ta nếu không làm gì cả để ngăn chặn SARS-CoV-2 lây lan trên toàn cầu.
Gần đây hơn, chính tạp chí của ông lại bị đặt lại vấn đề vì đã đăng tải một bài báo nêu rõ tỷ lệ tử vong quá cao của các bệnh nhân nhập viện vì mắc phải Covid-19 và được điều trị với hydroxychloroquine; trước khi phải rút lại nghiên cứu này, vì đã không tiếp cận được các dữ liệu do một công ty mờ ám của Mỹ là Surgisphere cung cấp. Richard Horton cũng đã rút ra những bài học từ sự kiện này.
Print Friendly and PDF

16.8.20

Một Googler Việt Nam tìm cách dạy máy hiểu cảm xúc của con người


MỘT GOOGLER VIỆT NAM TÌM CÁCH DẠY MÁY HIỂU CẢM XÚC CỦA CON NGƯỜI

Tác giả: Daniela Hernandez (12.02.14)
(Courtesy of WIRED)[1]
Lời nói đầu của người dịch. Lê Việt Quốc mà bài báo dưới đây nói về anh là một trong những chuyên gia đầu ngành trí tuệ nhân tạo trên thế giới. Anh là một trong những thành viên then chốt tại trung tâm nghiên cứu Google Brain và từng được tạp chí công nghệ của MIT (MIT Technology Review) bầu vào 35 Innovators dưới 35 tuổi. Anh Quốc sinh ra tại một làng quê ở miền Trung, lúc nhỏ làng không có điện nên anh hay ra thư viện đọc say sưa sách vở. Khoảng 14 tuổi, anh nhận ra rằng con người cần những cỗ máy thông minh có thể “sáng chế” ra những ý tưởng mới – đây là giấc mơ của anh. Tốt nghiệp Quốc học Huế năm 2000, Quốc vào đại học Bách Khoa TP.HCM học một học kỳ thì nhận được học bổng phát triển của Úc (AusAID). Quốc ra Hà Nội học tiếng Anh 6 tháng thì sang Úc học khoa học máy tính ở ANU (Australian National University) vào năm 2001 để bắt đầu 4 năm đại học. Đến cuối năm thứ nhất đầu năm thứ hai đại học, Quốc tham dự chương trình Distinguished Scholar làm công trình nghiên cứu của ANU liên kết với NICTA (National ICT Australia). Từ giữa năm 2004, Quốc làm việc về machine learning (một chuyên ngành của bộ môn trí tuệ nhân tạo) với GS Alex Smola. Giai đoạn này Quốc cũng đã có một số bài báo được đăng trong các kỷ yếu hội thảo và một số tạp chí chuyên ngành. Đầu năm 2006, Quốc có sang Mỹ cộng tác với một nhóm nghiên cứu ở Microsoft. Năm 2007 Quốc sang Đức làm nghiên cứu với viện Max Planck Biological Cybernetics. Cùng thời gian đó, Quốc nộp hồ sơ làm tiến sĩ ở Stanford và được chấp nhận. Quốc đến Stanford làm việc về machine learning dưới sự hướng dẫn của GS Andrew Ng. Trong thời gian nghiên cứu ở Stanfrod, từ hai năm nay, Google có lời mời cộng tác nên Quốc đến làm việc ở đây cùng nhóm với GS Andrew Ng. Sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ vào đầu năm 2013, Quốc bắt đầu làm việc tại công ty Google chuyên nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo và ngôn ngữ. Những sản phẩm như Google Translate (công cụ dịch của Google) và Google Search (công cụ tìm kiếm của Google) đều có các đóng góp Việt Quốc.
Print Friendly and PDF

14.8.20

Yuval Noah Harari: “Mỗi cuộc khủng hoảng cũng là một cơ hội”

YUVAL NOAH HARARI: “MỖI CUỘC KHỦNG HOẢNG CŨNG LÀ MỘT CƠ HỘI”
Trong một cuộc phỏng vấn với UNESCO Courier, Yuval Noah Harari, nhà sử học người Israel và là tác giả của Sapiens, Homo Deus, và 21 Bài học cho thế kỷ 21, phân tích những hậu quả có thể của cuộc khủng hoảng y tế hiện nay vi-rút corona, và nhấn mạnh sự cần thiết của việc hợp tác quốc tế nhiều hơn nữa về khoa học và chia sẻ thông tin giữa các quốc gia.
Đại dịch y tế toàn cầu này khác với các cuộc khủng hoảng y tế trong quá khứ như thế nào và nó cho chúng ta biết điều gì?
Print Friendly and PDF

12.8.20

Quyền lực mềm Trung Quốc: giữa chiến lược ảnh hưởng và khẳng định sức mạnh

QUYỀN LỰC MỀM TRUNG QUỐC: GIỮA CHIẾN LƯỢC ẢNH HƯỞNG VÀ KHẲNG ĐỊNH SỨC MẠNH
Barthélemy Courmont[*]
Barthélemy Courmont (1974-)
Vấn đề quyền lực mềm Trung Quốc ngày nay là chủ đề của ngày càng nhiều công trình học thuật, ở Trung Quốc cũng như ở các nước Phương Tây. Được chính thức hóa từ Đại hội lần thứ XVII của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) năm 2007 (Tài liệu, 2007), chiến lược quyền lực mềm đã dần được thực hiện và trở nên thiết yếu sau khi cặp Hồ Cẩm Đào - Ôn Gia Bảo lên nắm quyền năm 2002. Vào thời điểm một thế hệ lãnh đạo Trung Quốc thứ năm đang chuẩn bị tiếp quản từ Đại hội ĐCSTQ 2012, và có thể nhanh chóng đưa ra các hướng chiến lược mới, mà một số nhà quan sát đã mô tả là “sự đồng thuận Bắc Kinh” (Ramo, 2004; Halper, 2010), cần phải có một bản tổng hợp về quyền lực mềm và tra cứu cho cả việc tái cấu trúc ở Trung Quốc khái niệm này, một khái niệm sinh ra ở Hoa Kỳ và cách thức nó được sử dụng để phục vụ một ý đồ chiến lược lớn. Do đó, câu hỏi về thời “hậu quyền lực mềm” được đặt ra khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc tự vấn về các chiến lược tốt nhất để tác động và khẳng định quyền lực của Trung Quốc trên trường quốc tế.
Bài này phân tích các cách giải thích khác nhau về quyền lực mềm ở Trung Quốc và việc tái cấu trúc khái niệm của Joseph Nye, đặc biệt là sự phát triển của các công trình và sự chú ý mà nó nhận được ở Trung Quốc [1]; khảo cứu các chiến lược được thông qua và ý nghĩa của chúng đối với sự phát triển của đất nước này trên trường quốc tế [2]; giải mã chuyển động con lắc của quyền lực mềm từ Washington đến Bắc Kinh [3]; sau đó đặt câu hỏi về giới hạn của quyền lực mềm Trung Quốc [4]; và về sự cám dỗ của quyền bá chủ của Bắc Kinh như một hệ quả tất yếu của những thành công của nó [5].
Print Friendly and PDF

10.8.20

Coronavirus: Làm thế nào để thoát khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc về dược phẩm?

CORONAVIRUS: LÀM THẾ NÀO ĐỂ THOÁT KHỎI SỰ PHỤ THUỘC VÀO TRUNG QUỐC VỀ DƯỢC PHẨM?

80% lượng thuốc mà người châu Âu tiêu thụ do Trung Quốc sản xuất. (Nguồn: Le Soir)
Chúng ta đã biết về “ngoại giao khẩu trang” mà Trung Quốc đã tiến hành trên toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng y tế do đại dịch Covid-19 gây ra đã làm sáng tỏ sự phụ thuộc rất nặng về dược phẩm của phương Tây vào Trung Quốc.
Sự phụ thuộc này vang lên như một lời cảnh báo về chủ quyền của các nước phương Tây trong các vấn đề y tế. Nó nhấn mạnh đến tính dễ bị tổn thương rất lớn của các nước phương Tây. Trong những năm qua, Trung Quốc đã trở thành nước dẫn đầu sản xuất dược phẩm trên thế giới, đến mức ngày nay, họ là công xưởng sản xuất hơn 80% lượng hoạt chất được sử dụng trong ngành dược phẩm toàn cầu. Tình trạng thống trị này thậm chí còn áp đảo hơn trong hồ sơ đăng ký các nguyên liệu, được sử dụng để phát triển dược phẩm, khi mà chỉ tính riêng ngành công nghiệp Trung Quốc đã chiếm từ 80 đến 90% thị trường thế giới.
Print Friendly and PDF

8.8.20

Hướng dẫn vào các thiên đường thuế

HƯỚNG DẪN VÀO CÁC THIÊN ĐƯỜNG THUẾ
Cuộc phỏng vấn Gabriel Zucman
do Thomas Vendryes thực hiện, ngày 15 tháng 11 năm 2011
Gabriel Zucman (1986-)
Có bao nhiêu tiền được giấu ở các thiên đường thuế? Ai gởi? Và như thế nào? Dựa vào một phương pháp luận độc đáo và những dữ liệu chưa được khai thác trước đó, Gabriel Zucman đã rọi trực tiếp những ánh sáng mới vào các vấn đề này, với hy vọng có thể giúp cải thiện cuộc chiến chống lại các thiên đường thuế.
Gabriel Zucman hoàn tất luận án tiến sĩ của ông tại Trường Kinh tế Paris. Ông quan tâm đến sự bất bình đẳng về của cải, đặc biệt trên phạm vi toàn cầu. Cùng với khoảng hai mươi nhà nghiên cứu trẻ, ông làm cho tạp chí Regards croisés sống động lên với chủ đề kinh tế.
La Vie des Idées: Ông đã thực hiện một công trình quan trọng về cái mà ông gọi là “của cải còn thiếu của các quốc gia”, có nghĩa là di sản của những hộ gia đình không xuất hiện trên các dữ liệu thống kê của quốc gia và thế giới, bởi vì nó được giấu ở các thiên đường thuế. Trước tiên, ông có thể cho chúng tôi biết một vài độ lớn: số tiền của những của cải đó là bao nhiêu? Cấu trúc tổ chức của nó ra sao? Ai là chủ sở hữu chính? Các thiên đường thuế lớn nằm ở đâu?
Print Friendly and PDF

7.8.20

Cách mạng khoa học trong thời đại khai sáng

CÁCH MẠNG KHOA HỌC TRONG THỜI ĐẠI KHAI SÁNG
Tác giả: Tôn Thất Thông
Khai sáng là thời đại trong đó các triết gia khám phá những khoa học mới, và tất cả để phục vụ cho con người làm chủ thiên nhiên và môi trường sống chung quanh. Dùng thuật ngữ của David Hume, khai sáng là thời đại của “những khoa học đạo đức” mới mẻ: Xã hội học, tâm lý học, kinh tế chính trị học và giáo dục hiện đại.[1]
Sử gia Peter Gay, Giáo sư đại học Yale.
Đúng như Peter Gay nhận xét, chúng ta thử quan sát thời gian 200 năm từ 1543, lúc Nicolaus Copernicus công bố vũ trụ quan nhật tâm, cho đến thập niên 1760 khi khoa học đã phát triển cao và các phát minh kỹ thuật bắt đầu xuất hiện làm thay đổi sâu sắc nền sản xuất công nghiệp trong thế kỷ tiếp theo. Thời gian đó xứng đáng để được gọi là thời đại cách mạng khoa học tự nhiên ở châu Âu. Nhưng theo nghĩa thông thường, cách mạng là một biến cố bộc phát làm thay đổi xã hội trong một thời gian ngắn, vậy làm sao gọi là cách mạng khi nó kéo dài hai trăm năm? Để xác minh lại thực chất của vấn đề, chúng ta tạm dùng những khái niệm của Thomas Kuhn: “Trong một cuộc biến đổi hệ hình, thế giới cũng thay đổi. Với sự hướng dẫn của một hệ hình mới, khoa học gia sử dụng những công cụ mới và nhìn vào những không gian mới. Nhưng quan trọng hơn nữa là, trong cuộc cách mạng đó, khoa học gia nhìn thấy những điều khác mới lạ hơn[2]”.
Print Friendly and PDF

4.8.20

Tại sao các bức tượng mà (hầu như) không còn ai quan tâm nữa lại bị tháo dỡ?

TẠI SAO CÁC BỨC TƯỢNG MÀ (HẦU NHƯ) KHÔNG CÒN AI QUAN TÂM NỮA LẠI BỊ THÁO DỠ?

Sarah Gensburger[1]
Bức tượng của J. Marion Sims, một bác sĩ phẫu thuật thường được coi là cha đẻ của ngành phụ khoa hiện đại, bi hạ bệ ở Central Park, New York, vào ngày 17 tháng 4 năm 2018. Nhiều tiến bộ y tế của Sims xuất phát từ các thí nghiệm được tiến hành mà không cần gây mê trên những nữ nô lệ da đen. Hình ảnh Spencer Platt / Getty Bắc Mỹ / Hình ảnh Getty qua AFP
Kể từ sự tháo dỡ bức tượng của Edward Colston ở Bristol vào ngày 7 tháng 6, sự hiện diện của những bức tượng trong không gian công cộng đã trở thành một vấn đề truyền thông.
Trong cuộc tranh luận này, cho đến nay. ít nhất là ở Pháp, những nhà khoa học đã lên tiếng chủ yếu là các nhà sử học. Tuy nhiên, xã hội học chính trị về ký ức có khả năng mang lại một cái nhìn tương đối khác về hiện tượng thời sự này. Nó không quan tâm quá nhiều đến những gì cần phải tưởng niệm, hoặc về cách để thực hiện những điều này, mà đến những hiệu ứng xã hội của những lời nhắc nhở công khai về quá khứ trong xã hội đương đại. Nói cách khác, nó thôi thúc ta tự hỏi: tại sao các bức tượng mà (gần như) không ai quan tâm nữa lại bị tháo dỡ?
Print Friendly and PDF