31.12.14

CHÚC MỪNG NĂM MỚI, 2015 !


Xin chào quý bạn! Chỉ còn ít phút giây nữa thôi là bước sang năm mới 2015 và trang nhà PTKT đúng tròn 1,5 tháng tuổi kể từ ngày ra mắt. Nhóm chúng tôi bồi hồi nhớ lại chặng đường ngắn ngủi vừa qua và thấy rằng mình vô cùng may mắn. May mắn đầu tiên là PTKT nhận được sự yêu mến của bạn đọc vượt ngoài mong đợi vì cho đến nay đã có hơn 5000 lượt truy cập đến từ mọi nơi trên thế giới và nhận được rất nhiều đóng góp ý kiến xây dựng quý báu cho trang nhà, chúng tôi vô cùng cảm kích và biết ơn. May mắn thứ hai là thông qua Fanpage, PTKT đã có được một cộng đồng hơn 500 người đọc, trong đó có nhiều bạn đọc thường xuyên, một tín hiệu rất đáng vui và đầy khích lệ. May mắn hơn nữa là những loạt bài mà chúng tôi đã chuẩn bị từ trước khi đưa lên PTKT lại trùng với các sự kiện thời sự kinh tế nóng bỏng đang diễn ra, như Tirole với giải khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel năm 2014 hay Gary Becker, một khôi nguyên khác qua đời tháng năm vừa qua, ... "Thật hay không bằng hên!", chúng tôi đã bảo với nhau như vậy! 
PTKT tròn một tháng rưỡi là vô cùng non trẻ, nếu không nhận được sự quan tâm từ cộng đồng thì chẳng thể nào phát triển được. Do vậy, trước thềm năm mới, thay lời tri ân đối với quý bạn đọc gần xa, chúng tôi:

XIN CHÚC QUÝ BẠN CÙNG GIA QUYẾN SANG NĂM 2015 DỒI DÀO SỨC KHỎE, MỌI SỰ HẠNH THÔNG VÀ NHIỀU SỰ NHƯ Ý !

PTKT
Print Friendly and PDF

10.12.14

GIỚI THIỆU RA MẮT TRANG PHÂN TÍCH KINH TẾ


Xin chào quý bạn!

Bức xúc trước vấn nạn của việc học và dạy kinh tế ở Việt Nam, nhưng không cam chịu bó tay bất lực, trang Phân tích kinh tế ra đời với mong muốn chia sẻ và trao đổi, trong tinh thần tự do học thuật, những thông tin cần thiết giúp người dạy cùng người học ưa thích kinh tế tự đào tạo, cập nhật, củng cố, hệ thống hóa và bổ sung kiến thức để tự tin hội nhập thế giới.
Hướng đến người học, trang cung cấp bản dịch những bài ngắn, nhẹ nhàng và có minh họa, trang bị những kiến thức nền. Tuy thích kinh tế học nhưng bạn ngần ngại bước vào lĩnh vực này do nghe đồn đó là một “khoa học buồn thảm”? Vậy xin mời bạn lướt qua bài Lời kêu gọi vì tính đa nguyên trong kinh tế học của sinh viên quốc tế hay hai bài đầu trong mục Những nhân vật lớn trong tư tưởng kinh tế, rồi chắc bạn sẽ xét lại nhận định trên khi thấy những vấn đề đề cập trong đó không những mang tính thời sự mà đôi lúc rất sát sườn với những vấn đề bạn từng trăn trở, và những nhà tư tưởng lớn không phải lúc nào cũng suy nghĩ trên trời mà còn quan tâm đến những chuyện cơm áo gạo tiền trong cõi nhân sinh.
Print Friendly and PDF

Có chăng một “French Touch” (phong cách Pháp) trong kinh tế học?

Có chăng một “French Touch” (phong cách Pháp) trong kinh tế học?


Mùa xuân năm 2014, quyển sách của Thomas Piketty bắt đầu sự nghiệp sách bán chạy nhất (best-seller) thế giới. Vào cuối mùa hè, một tạp chí của Qũy tiền tệ quốc tế (IMF) đề xuất một danh sách 25 nhà kinh tế dưới 45 tuổi mà các công trình sẽ có ảnh hưởng trong những thập niên sắp tới: trong số các nhà kinh tế này, có đến 7 người Pháp. Ngày 13 tháng mười vừa, qua giải khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel được trao cho Tirole. Thôi đủ rồi, đừng liệt kê thêm nữa!
Làm thế nào giải thích cơn mưa giải thưởng này trên thế giới nhỏ bé các nhà kinh tế Pháp? Ngoài phẩm chất cá nhân, vốn rất lớn, của họ, đó còn là “lời ngợi khen trường phái khoa học kinh tế Pháp”, như hiệu trưởng Cyrille Hautcoeur của Trường cao học về các khoa học xã hội đã vỗ tay phụ họa. Phải chăng có tí gì đó khiến nước Pháp trở thành nhà sản xuất những nhà kinh tế đẳng cấp thế giới?

Những người giỏi toán
Theo Dominique Plihon, giáo sư đại học Paris XIII, “Ở Pháp có một truyền thống những nhà kĩ sư kinh tế có trình độ tốt về toán cho phép họ có một năng lực mô hình hóa và một hào quang được giới hàn lâm đánh giá cao. Nhà kinh tế Mĩ Robert Gordon, mới ghé sang Paris, đồng tình với nhận định trên: “Phần lớn những công trình kinh tế của các nhà kinh tế Pháp có tính toán học”. 
Trong thực tế, Tirole tốt nghiệp trường Bách Khoa và năm trong số các nhà kinh tế trẻ có triển vọng được IMF đưa lên hàng đầu đều nhận một sự đào tạo kép về toán (hay vật lí) và kinh tế. Nếu muốn tỏa sáng trong giới kinh tế toàn cầu hóa, thì tốt nhất không nên ngại hay lúng túng với toán học.
Print Friendly and PDF

Tiềm lực và giới hạn của lý thuyết lựa chọn duy lý: phỏng vấn Gary Becker



Tiềm lực và giới hạn của lý thuyết lựa chọn duy lý: phỏng vấn Gary Becker

Gary S. Becker (sinh năm 1930  tại Pennsylvania) là giáo sư giảng dạy đại học công tác tại Khoa Kinh tế học, Xã hội học, và Khoa Sau đại học về Kinh doanh của Đại học Chicago, Illinois. Becker tốt nghiệp cử nhân tại Đại học Princeton và lấy bằng Tiến sĩ tại Đại học Chicago năm 1955 với luận án viết về kinh tế học của sự phân biệt, dưới sự hướng dẫn của Milton  Friedman. Sau thời gian giảng dạy tại Đại học Columbia từ năm 1957 đến 1969, ông trở về Đại học Chicago công tác từ đó đến giờ.
Công việc và sở thích nghiên cứu của Becker bao gồm nhiều lĩnh vực đa dạng, thống nhất với nhau theo cách mà ông định danh là Phương pháp tiếp cận hành vi của con người theo kiểu kinh tế học (Becker 1976). Ông xem phiên bản cải tiến của lý thuyết tân cổ điển về hành vi người tiêu dùng này như một phương pháp có thể sử dụng để phân tích quyết định lựa chọn của cá nhân vượt ra khỏi những giới hạn về phạm vi của kinh tế học truyền thống, bao gồm sự phân biệt, giáo dục (vốn con người), tội ác, nghiện ngập, gia đình (hôn nhân, ly dị, sinh sản) và lòng vị tha. Thành tựu nghiên cứu mang tính đột phá của Becker đã nhận được rất nhiều giải thưởng, bao gồm Huy Chương John Bates Clark (1967), và Huy chương tự do của Tổng thống (2007). Năm 1992, ông được trao giải tưởng niệm Nobel dành cho Khoa học Kinh tế “vì đã mở rộng phạm vi phân tích của kinh tế vi mô nghiên cứu đa dạng về hành vi và tương tác của con người, bao gồm cả hành vi phi thị trường” (Ấn bản của giải Nobel).
Catherine Herfeld đã thực hiện cuộc phỏng vấn giáo sư Becker tại phòng làm việc của ông trong khuôn viên Đại học Chicago vào ngày 8/12/2010. Buổi phỏng xoay quanh hàng loạt vấn đề bao gồm hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính gần đây đối với ngành kinh tế học, vai trò của toán học trong việc xây dựng mô hình kinh tế học và vai trò của mô hình kinh tế, ý nghĩa của nguyên tắc duy lý, và sự phát triển “phương pháp tiếp cận kiểu kinh tế học” của Becker và sự khác biệt của phương pháp này với kinh tế học hành vi.
Print Friendly and PDF

Vốn con người



Vốn con người
Human capital
® Giải Nobel: BECKER, 1992 LUCAS, 1995 SCHULTZ, 1979 SOLOW, 1987

Phân tích vốn con người bắt đầu với giả thiết cho rằng những cá thể quyết định giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế và những phần bổ sung vào hiểu biết và sức khoẻ của mình bằng cách cân nhắc những phần được và những chi phí (Becker, 1993).
Như thế lĩnh vực của vốn con người được xác định bằng việc mở rộng phân tích kinh tế sang những quyết định mà theo truyền thống không thuộc về bộ môn này. Cá thể được giả định là có tính duy lí, tối đa hoá phúc lợi của bản thân trên toàn bộ cuộc đời mình và có một hành vi nhất quán trong thời gian. Điểm xuất phát của lí thuyết vốn con người có tính kinh tế vi mô. Đó là lựa chọn cá thể về sự đầu tư con người. Những món lợi của đầu tư này có thể có tính tiền tệ hay không. Những món lợi này nằm trong sự gia tăng của năng suất của cá thể trên thị trường và ngoài thị trường. Những chi phí gồm có những chi phí tiền tệ trực tiếp và chi phí gián tiếp, bao giờ cũng đặc biệt quan trọng, thời gian dành cho đầu tư vào vốn con người. Tuy nhiên đầu tư con người không thu về một vấn đề lựa chọn. Đó cũng là quá trình cá nhân sản xuất thêm vốn con người mà người đó hàm chứa trong bản thân. Việc chất chứa này đối lập vốn con người với vốn không con người. Hệ quả là không có thị trường vốn con người (ngoại trừ trong một xã hội nô lệ, mà ta có thể tìm thấy một phân tích lí thuyết trong Blaugh, 1972). Giá của một kho vốn con người không phải là một giá thị trường mà là một giá trị sử dụng. Trực giác về khái niệm vốn con người xuất hiện ngay từ thế kỉ XVI (Hales) và XVII (Misselden, Mun và nhất là Petty). Nhưng khái niệm này chỉ tìm được một khuôn khổ thích hợp với A. Smith, 1776. Smith nhấn mạnh đến những chi phí và món lợi của giáo dục và chỉ ra bằng cách nào có thể xem giáo dục như là một đầu tư. Việc trình bày khái niệm vốn con người cũng đã phải gánh chịu việc thiếu chặt chẽ mà trong một thời gian dài là đặc trưng cho lí thuyết tổng quát về tư bản. I. Fisher (1906 và nhất là 1930) làm rõ một cách chính xác những quan hệ giữa tư bản và thu nhập. Kho tư bản sinh ra những luồng dịch vụ (thu nhập) trong thời gian và chính giá trị dự kiến của những dịch vụ (thu nhập) này xác định giá trị của tư bản. Do tư bản là một kho đầu nguồn của một luồng thu nhập, nên với thu nhập của con người ứng một vốn con người. Do tổng thu nhập của một cá thể là thu nhập tâm lí của cá thể này (enjoyment income), nên khái niệm vốn con người là rất rộng. Khái niệm này chỉ một kho mà những luồng dịch vụ có thể là những luồng tiền tệ hay không. Tuy nhiên lí thuyết thuần tuý này về tư bản được đón nhận một cách lí thú, nhưng như một điều kì lạ về mặt lí thuyết. Ngoại trừ một số ngoại lệ (von Thünen, Nicholsson, 1891; L. Dublin & A. Lotka, 1930, Walsh, 1935; F. Knight, 1944; M. Friedman & S. Kuznets, 1946), phải chờ đến những năm 1950 sự chú ý mới nhằm vào sự bất bình đẳng của những thu nhập cá thể và nhất là vào những nguồn gốc của tăng trưởng. Bằng những khái niệm gộp, sự tăng trưởng của những nhân tố tư bản và lao động như được đo một cách truyền thống không đủ để giải thích tăng trưởng của tổng sản phẩm. Cuộc cách mạng của đầu tư vào vốn con người (M. J. Bowman, 1966) thường được đánh dấu từ T. W. Schultz (1961). Schultz nhấn mạnh đến tính thống nhất sâu sắc của những kiểu đầu tư khác nhau vào vốn con người, về mặt đào tạo, tính cơ động hay sức khoẻ, những kiểu đầu tư này có điểm chung là cải thiện những năng lực của cá thể, trên và ngoài thị trường. Ông chỉ ra bằng cách nào khái niệm vốn con người cung cấp được một cách giải thích thống nhất cho những hiện tượng bề ngoài là không đồng nhất. Ví dụ, tăng trưởng quan sát được của năng suất trên một đơn vị lao động được viện dẫn để giải thích nhân tố dư thừa của tăng trưởng, nhưng chính ngay bản thân năng suất này lại không được giải thích: tăng trưởng của năng suất này đơn giản là do người ta giữ không đổi trong thời gian đơn vị lao động trong lúc đơn vị này đã được tăng lên do gia tăng của kho vốn con người trên đầu người. Sụt giảm của tỉ số vốn hữu hình trên thu nhập không tương ứng với một sụt giảm của tỉ số vốn trên thu nhập, nhưng tương ứng với một gia tăng tương đối của vốn con người so với vốn hữu hình, trong lúc tỉ số tổng vốn (vốn con người và vốn hữu hình) trên thu nhập là không đổi. Ví dụ khác nữa là việc xây dựng lại nhanh chóng của các nước phát triển sau thế chiến thứ hai, cũng như năng lực hấp thụ có giới hạn vốn nước ngoài của những nước kém phát triển hơn được giải thích bằng những chu cấp về vốn con người của những nước này. Những khái niệm cơ bản của lí thuyết mới được tinh vi hoá trong một số đặc biệt của tạp chí Journal of Political Economy tháng mười 1962 dành cho đầu tư vào vốn con người và nhất là trong lần xuất bản đầu tiên năm 1964 của tác phẩm của Gary S. Becker về vốn con người. 
Print Friendly and PDF

Chuẩn tắc hay thực chứng



Chuẩn tắc hay thực chứng

Positive vs Normative
® Giải Nobel: ARROW, 1972 DEBREU. 1983 FRIEDMAN, 1976 HICKS, 1972 MYRDAL, 1974  SEN, 1998

Trong kinh tế học, khi người ta nói đến một quan niệm thực chứng thì điều này thường có nghĩa là quan niệm này được giải phóng khỏi những đánh giá giá trị của nhà kinh tế, và chỉ duy nhất hướng đến việc xem xét những sự kiện và việc tìm kiếm những qui luật. Theo nghĩa này, sự tồn tại của những lí thuyết thực chứng đã là đối tượng của những cuộc tranh luận gay gắt từ phiá trường phái lịch sử Đức, cũng như từ chủ nghĩa Marx và từ phiá xã hội học về nhận thức; vấn đề này cũng là mục tiêu của những phê phán đến từ những nguồn chiết trung hơn (Myrdal, 1958). Ở đây sẽ không đề cập mấy đến cách phân biệt đầu giữa thực chứngchuẩn tắc. Nếu ta cẩn thận tách biệt nhà khoa học với người thực chứng, vốn thật ra chỉ là ý đồ của nhà khoa học, thì dường như ta có thể, mặc dù có những phản bác, nhanh chóng đi đến kết luận là có, trong thực tế và một cách chính đáng, một kinh tế học thực chứng. Những phương pháp mà kinh tế học này tuân thủ, lợi ích của những kết quả mà bộ môn này sản sinh ra hợp thành một vấn đề hoàn toàn khác, một vấn đề rộng và khó.
Ngược lại khiá cạnh chuẩn tắc của sự phân biệt bao phủ những được thua tức thì phức tạp và có một tầm quan trọng lớn về mặt khoa học luận. Ngay cả trong nội bộ của truyền thống chính thống, các nhà kinh tế không nhất trí với nhau để xem là phải có một nhánh của khoa học của họ chuyên về những vấn đề chuẩn tắc hay không. Vả lại những tác giả khẳng định là có một chuyên ngành như thế có những ý tưởng định hướng cụ thể khác nhau cho bộ môn này. Trong bài này chúng tôi đề nghị xem xét những cuộc tranh luận trong nội bộ của kinh tế học được gọi là tân cổ điển. Khó khăn của công việc này là ở ngữ nghĩa trôi nổi của từ chuẩn tắc được những tác giả khác nhau sử dụng. Họ đã gán dụng từ này, và đây là một điều tự nhiên, với những lí tưởng khác nhau về vấn đề thù lao và chia sẻ - với những lí tưởng truyền thống, như chủ nghĩa bình đẳng và chủ nghĩa công lợi, cũng như với những lí thuyết anglo-saxon gần đây về công bằng phân phối. Nhưng họ cũng gọi bằng chuẩn tắc những lập luận về phúc lợi kinh tế và tính hiệu quả của những thị trường được welfare economics (kinh tế học phúc lợi) chọn làm đối tượng, những điều kiện trừu tượng do lí thuyết lựa chọn xã hội và những lí thuyết có quan hệ chặt chẽ với lí thuyết này, và cuối cùng, bằng việc mở rộng ngữ nghĩa chưa làm chủ được hoàn toàn, tất cả những nhận định có vẻ kéo theo một đánh giá giá trị của nhà kinh tế. Do không thể tức khắc loại trừ những bấp bênh về mặt ngữ nghĩa nên chúng tôi đã chọn điểm qua những trường phái hay xu hướng có ảnh hưởng nhất. Hi vọng là việc so sánh những quan niệm cục bộ này sẽ làm nổi lên những luận đề được sự đồng thuận và những luận đề còn tranh cãi.
Print Friendly and PDF

Vinh danh các nhà nghiên cứu theo kiểu cáo

IN PRAISE OF FOXY SCHOLARS


Vinh danh các nhà nghiên cứu theo kiểu cáo
PRINCETON - Chúng ta đang sống trong một thế giới phức tạp, nên buộc phải đơn giản hóa nó. Chúng ta phân loại những người xung quanh ta là bạn hay thù, động cơ của họ là tốt hay xấu, và gán trực tiếp cho các sự kiện có những nguồn gốc phức tạp những nguyên nhân đơn giản. Lối tư duy đi tắt đón đầu ấy giúp ta xoay sở trước những tình huống phức tạp trong xã hội. Chúng giúp chúng ta hình thành những kỳ vọng về hệ quả các hành động của chúng ta và của người khác, và từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc ra quyết định.
Tuy nhiên, do những "mô hình tâm trí" ấy là những trường hợp đơn giản, nên nhất thiết phải sai. Mặc dù có thể giúp chúng ta đối phó với những thách thức hàng ngày, nhưng các mô hình này cũng bỏ qua rất nhiều chi tiết và có thể phản tác dụng khi ta rơi vào một môi trường mà việc phân loại và lý giải có sẵn của chúng ta ít thích hợp hơn. Thuật ngữ “ sốc văn hóa” đề cập đến tình huống trong đó sự kỳ vọng của chúng ta về hành vi của người khác tỏ ra sai lầm đến độ ta cảm nhận điều ấy như một cú sốc.
Tuy nhiên, nếu không có những cách nghĩ vắn tắt đó, thì chúng ta sẽ bị lạc lối hoặc tê liệt. Chúng ta không có năng lực tinh thần, cũng chẳng có sự hiểu biết cần thiết để giải mã toàn bộ mạng lưới các mối quan hệ nhân quả trong đời sống xã hội của chúng ta. Vì vậy, hành vi và phản ứng hàng ngày của chúng ta phải dựa trên những mô hình tâm trí không đầy đủ và đôi khi đánh lừa chúng ta.
Print Friendly and PDF

Human Capital, Gary Becker



Vốn con người

Human Capital, Gary Becker
NXB University of Chicago Press, 1993, 412 tr.

Monique Abellard

Alternatives Economiques Poche  số 021 - Tháng 11/ 2005
Khái niệm vốn con người đã dẫn đến một chương trình nghiên cứu tại trường Đại học Chicago vào đầu những năm 1960. Nó nhằm mục đích mở rộng thuyết tổng hợp tân cổ điển: sự tích lũy vốn con người, cũng giống như vốn hữu hình, tuân thủ các nguyên tắc về tính duy lý của con người kinh tế (homo economicus). Gary Becker đã xây dựng một lý thuyết về cơ hội của loại đầu tư này và đề xuất một cách mô hình hóa những khác biệt về tiền lương. Khái niệm này cũng đồng thời làm đổi mới các nghiên cứu phân tích kinh tế học về dân số, hay kinh tế học về nhân khẩu, khi đưa nguồn nhân lực[1] làm vai trò trung tâm. Xin lưu ý rằng ngành nhân khẩu học không chỉ đề cập đến các khía cạnh mang tính định lượng, mà còn cả các khía cạnh định tính trong các nghiên cứu về dân số, những khía cạnh định tính mà cuốn sách này muốn phân tích.

Bình luận có phê phán

Đối với Gary Becker, mọi cá nhân đều nắm giữ một nguồn vốn con người, có nghĩa là những khả năng bẩm sinh lẫn sở đắc từ sự đầu tư của con người (chi phí vật chất, thời gian, nỗ lực cá nhân). Những khoản đầu tư vào vốn con người, như đào tạo, giáo dục và y tế, đóng vai trò quan trọng không kém như sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong lý thuyết về nguồn vốn hữu hình: chúng đều làm tăng năng suất cận biên của nhân tố sản xuất có liên quan.
Theo tác giả, mọi cá nhân đang sở hữu và quản lý vốn con người đánh giá cao cơ hội đầu tư nguồn vốn đó bằng cách so sánh các chi phí đầu tư với lợi nhuận hiện tại hóa (có nghĩa là có tính đến giá trị của đồng tiền đầu tư theo dòng thời gian), để rồi có thể thu hồi lại vốn sau này. Như vậy, đối với một sinh viên, chi phí bằng tiền cho giáo dục (học phí) bổ sung vào chi phí cơ hội của việc theo đuổi học tập, được đo lường bằng những khoản thu nhập không nhận được trong khoản thời gian này. Theo Gary Becker, sinh viên càng học kém thì chi phí càng tăng. Tỉ suất lợi tức tư của đầu tư về đào tạo là tỉ số thu nhập trên tổng chi phí đào tạo.
Print Friendly and PDF

Bản đồ, lãnh thổ và lồng sắt



Bản đồ, lãnh thổ và lồng sắt[1]

Gary Becker chết rồi. Nếu bạn không biết ông ta, thì chắc có lẽ bạn đã không nghiên cứu về khoa hoc xã hội trong năm mươi năm vừa qua. Tôi không chắc là thuật ngữ “chủ nghĩa đế quốc của kinh tế học” đã được sáng tạo ra để chỉ ông ấy, nhưng cũng gần đúng như vậy: ông đã dày công ứng dụng cách thức mô hình hóa của kinh tế học, con người kinh tế trứ danh, một con người hoàn toàn duy lý và chỉ biết tính toán, cho gần như hầu hết những hiện tượng ta có thể tìm thấy được, từ những mối quan hệ gia đình cho đến sự tiêu thụ ma túy… Đó là một cách tư duy đã có một sự tác động tai hại mặc dù cũng mang đến nhiều lợi lộc[2].  Alexandre Delaigue đã viết ra một tiểu truyện người quá cố[3] nhấn mạnh đến ảnh hưởng to lớn của người quá cố đến những lãnh vực vượt quá môn kinh tế học. Và khi làm việc này ông đã dùng đến một phép ẩn dụ khiến cho tôi hơi bị nhột (titillé): thật ra Gary Becker chỉ vạch ra một bản đồ của những cách ứng xử của con người, có thể là không thực tế cho lắm, nhưng cũng không thua kém bất cứ bản đồ nào khác để giúp chúng ta thật sự được định hướng. Đây là một phép ẩn dụ khá hay vì nó làm cho tôi nghĩ đến một phép ẩn dụ khác xuất phát từ xã hội học.         
Cách tiếp cận của Becker bị phê phán kịch liệt, không phải lúc nào cũng một cách đúng đắn. Người ta đã trách ông xem con người là duy lí, trong khi hiển nhiên là không phải bao giờ điều này cũng đúng. Một phê phán phi lí giống như khi nói rằng bản đồ đi đường của tôi là sai vì không cho biết giống cây nào được trồng trong các cánh đồng hai bên đường đi, quả đúng là như thế thật, nhưng điều này không phải là mục đích của bản đồ: mọi mô hình khoa học là một sự đơn giản hóa hiện thực để làm cho hiện thực trở thành hiểu được. Vấn đề ở đây là phải chăng cách tiếp cận này có thể làm cho hiện thực thật sự là dễ hiểu hơn không.

Trên đây là những gì mà Alexandre Delaigue đã viết để bênh vực cho những sự lựa chọn mô hình hóa mà Becker đã thực hiện. Nhưng đối với tôi, khi người ta đề cập đến bản đồ đường sá thì tôi lại nghĩ đến nhà xã hội học Mỹ David Stark: đó chính là một phép ẩn dụ mà ông thường sử dụng để giới thiệu một khái niệm không thể nào lẩn tránh được trong xã hội học ngày nay, khái niệm tính ngôn hành (performativité). Ta có thể tìm thấy một bản tường trình ở đây, nhưng tôi đã dự một buổi trình bày tương tự nhân dịp một hội thảo được tổ chức tại phòng thí nghiệm của tôi. Tôi nghĩ rằng đây là một trong những cách dễ hiểu nhất để gắn ý nghĩa cho một khái niệm, mà nếu không có thì sẽ là một khái niệm tương đối khó nắm bắt.    
Chúng ta hãy thử đi theo cách lý luận của ông mà tôi khôi phục dưới đây từ những điều tôi đã ghi chép và tnhững ký ức. Chúng ta hãy tưởng tượng một cánh đồng không có một con đường nào xuyên qua. Chúng ta hãy lấy những hình để minh họa nó (từ đường dẫn ở trên và do đó từ chính những hình phỏng chiếu của David Stark) để làm cho mọi chuyện được sáng tỏ hơn:   
Print Friendly and PDF

Cử tri trung vị



Cử tri trung vị

Median voter

® Giải Nobel: BUCHANAN, 1986
Người ta nói đến cử tri trung vị trong một bối cảnh bầu cử và thường nói đến người bỏ phiếu trung vị hơn khi vấn đề là phải lựa chọn một kiến nghị hay một chính sách trong một ủy ban hay một đại hội. Tuy nhiên trong cả hai trường hợp trên chúng tôi chỉ sử dụng thuật ngữ cử tri trung vị. Vả lại ý niệm nằm đằng sau hai thuật ngữ này là giống nhau. Ví dụ, xét trong một nhóm bất kì vấn đề lựa chọn chiều dài của một bể bơi công cộng. Nếu chiều dài là một biến hoàn toàn tương quan với những đặc điểm khác của bể bơi và với chi phí thuế của bể thì ta có thể coi là vấn đề có một chiều kích duy nhất và biểu trưng câu trả lời được mỗi thành viên của nhóm ưa chuộng bằng một điểm trên một đường thẳng: điểm lí tưởng của thành viên ấy. Ta gọi bằng cá thể trung vị cá thể nào có một điểm lí tưởng sao cho số người có điểm lí tưởng nhỏ hơn điểm lí tưởng của cá thể này bằng với số người có điểm lí tưởng lớn hơn điểm lí tưởng của cá thể ấy (nếu những điểm lí tưởng của mọi người khác nhau thì điểm lí tưởng của cá thể trung vị đơn giản sẽ là điểm lí tưởng trung vị). Nếu vấn đề được đưa ra bỏ phiếu (và nếu mọi thành viên của nhóm đều tham gia bỏ phiếu) thì ta có thể gọi cá thể trung vị dưới cái tên thông dụng hơn là cử tri trung vị. Nếu bối cảnh là một cuộc bầu cử, nghĩa là việc lựa chọn một ứng cử viên, và nếu ta có thể xếp những ứng cử viên, trên cơ sở của chương trình chính trị hay hệ tư tưởng của họ, dọc theo một chiều kích duy nhất (nghĩa là được biểu trưng bằng một điểm trên một đường thẳng) trên đó ta cũng có thể xếp những điểm lí tưởng của cử tri thì cử tri trung vị sẽ là, như trên đây, cử tri có điểm lí tưởng sao cho số những cử tri có điểm lí tưởng nhỏ hơn và số những cử tri có điểm lí tưởng cao hơn điểm lí tưởng của cử tri trung vị này bằng nhau. Trong cả hai trường hợp, tính chất trung vị qui chiếu về những sở thích hay ý kiến chứ không qui chiếu về lá phiếu, những lá phiếu có thể cách xa tính trung vị này.   
Cho đến đây chúng tôi chỉ mới định nghĩa. Sự quan tâm dành cho cử tri trung vị được giải thích bằng việc là, dưới một số điều kiện, một phương thức bầu cử theo đa số cho ra một quyết định tập thể trùng khớp với điểm lí tưởng của quyết định này, và điều đúng cho một uỷ ban trong việc chọn một chính sách vẫn đúng cho trường hợp bầu cử, khi việc lựa chọn một chính sách được giả định là phải thông qua sự lựa chọn một ứng cử viên. Đó là định lí cử tri trung vị, còn được gọi là định lí Black. Thật thế, cho dù đối với trường hợp những cuộc bầu cử khi việc thoả mãn sở thích của cử tri trung vị được giải thích bằng sự hội tụ về vị thế của cử tri này của chương trình của hai ứng cử viên mà mối quan tâm duy nhất là thắng cử mệnh đề do Hotelling phát biểu lần đầu và được Downs phát triển thì chính Black, ngay từ 1946, đã nghiên cứu những điều kiện hiệu lực chung một cách ít nhiều chặt chẽ.
Print Friendly and PDF

Becker, nhà đế quốc kinh tế (1930-2014)



BECKER, NHÀ ĐẾ QUỐC KINH TẾ (1930-2014)
Gary Becker, nhà kinh tế Mĩ gốc Canada, qua đời ngày 3.5 vừa qua, được rất ít công chúng Pháp biết đến. Tuy nhiên ảnh hưởng của ông là cực kì to lớn, trên phương diện tri thức lẫn trong thực tiễn. Thế giới bao quanh chúng ta được Gary Becker nhào nặn đến độ ta không hình dung được.

Phương pháp của Baker

Baker được giải Nobel kinh tế năm 1992 nhờ đã “mở rộng lĩnh vực phân tích của kinh tế học vi mô sang một loạt những hành vi và tương tác giữa con người, kể cả những hành vi và tương tác phi thị trường”. Nói bằng ngôn ngữ rõ ràng, ông được tưởng thưởng do đã sử dụng những công cụ kinh tế để phân tích những chủ đề phi kinh tế.
Các công cụ kinh tế được vận dụng là các công cụ sau: người ta cho rằng thiên hạ có tính duy lí, nghĩa là hành động một cách nhất quán từ những thị hiếu và sở thích được xác định trước. Nếu họ thích biển hơn là núi và núi hơn là xe đạp thì con người thích biển hơn là xe đạp (tính “bắc cầu” của sở thích – ND). Và họ tìm cách tối đa hóa sự thỏa mãn của bản thân từ những sở thích này và điều ấy dẫn đến một tình thế cân bằng mà ta sẽ nghiên cứu. Cách tiếp cận này được dùng để mô tả hành vi của một người có ngân sách hạn chế và xác định những mua sắm của mình về khoai tây và hạt đậu, hay của một doanh nghiệp xác định số lượng phải sản xuất nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Becker đã áp dụng cách tiếp cận này vào một loạt những lĩnh vực khác.
Print Friendly and PDF

“Giải Nobel kinh tế”: một sự huyễn hoặc khéo léo



Mỗi năm, vào mùa lá lìa cành, các phương tiện truyền thông đại chúng lần lượt đưa tin việc trao những giải thưởng uy tín nhất, được mơ ước nhất và có số tiền thưởng cao nhất, cho những thành tựu khoa học, văn chương và vì hoà bình. Đó là các giải Nobel. Nhân dịp này các nhà kinh tế khám phá (những) ai trong số họ năm đó được Viện hàn lâm hoàng gia khoa học Thụy Điển vinh danh, giải thưởng có thể được trao đồng thời cho nhiều người. Nhưng ngược lại với suy nghĩ của thiên hạ, chưa bao giờ có bất kì nhà kinh tế nào được giải Nobel cả. Tiền thưởng các nhà kinh tế nhận được do Ngân hàng trung ương Thụy Điển trả và giải mang tên “giải của Ngân hàng trung ương Thụy Điển về khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel”. Việc đổi tên giải thành “giải Nobel kinh tế” là một sự lừa bịp, đánh lừa ngay chính những người được giải[1]. Hơn nữa, các nhà kinh tế là giới duy nhất nhân bội các sách ăn mừng, và ngay cả tự chúc mừng “giải Nobel” của họ (xem khung “Để tìm hiểu thêm”).

Một âm mưu cưỡng bức
Sáng kiến tạo ra một giải kinh tế là của Per Asbrink, thống đốc Ngân hàng trung ương Thụy Điển này muốn bằng cách ấy kỉ niệm ba trăm năm thành lập định chế trên. Asbrink thuyết phục được ba nhà kinh tế uy tín là Assar Lindbeck, Erik Lundberg và Gunnar Myrdal tham gia vào dự án của ông. Họ tiến hành thuyết phục Qũy Nobel và Viện hàn lâm hoàng gia khoa học Thụy Điển, mà bản thân Myrdal cũng là một thành viên, để các định chế này quản lí giải kinh tế theo cùng những thủ tục giống như các giải Nobel (xem khung “Di chúc của Alfred Nobel”). Nhiều thành viên của Viện hàn lâm hoàng gia, nghi ngờ tính chất khoa học của bộ môn kinh tế, tỏ ra rất dè dặt. Nhưng một cuộc vận động hành lang tích cực đã khuất phục sự đề kháng này. Cuối cùng, Viện hàn lâm chấp nhận quản lí giải kinh tế theo cùng một cách như đối với giải Nobel vật lí và hoá học, với một ủy ban gồm năm thành viên mà chủ tịch đầu tiên là Bertil Ohlin.
Print Friendly and PDF