GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: PHAN CHÂU TRINH VÀ CÁC TÁC PHẨM CHÍNH LUẬN CỦA VĨNH SÍNH
Bài viết dưới đây của Nguyễn Xuân Xanh là bài Dẫn
nhập cho bản dịch tiếng Việt cuốn sách của Vĩnh Sính, vốn viết bằng tiếng Anh với
nhan đề Phan Châu Trinh and His Political Writings (Nxb Đại học
Cornell, 2009). Cuốn sách đã được in xong năm 2018 nhưng sau đó bị thu hồi “để
tu chỉnh sai sót trong in ấn”, cuối cùng cũng đã được NXB Trẻ đưa ra thị trường
cuối tháng 12/2022. Năm 2022 là năm kỷ niệm ngày sinh lần thứ 150 của
Phan Tây Hồ tiên sinh (9/9/1872) - 9/9/2022), việc cho ra mắt cuốn sách gồm
những trước tác quan trọng - và còn rất hợp thời này của tiên sinh, thật khó có
thể thoái thác lâu hơn. Nhưng trễ còn hơn không !
Chúng tôi chưa có sách trong tay để có thể giới
thiệu kỹ hơn, và cũng không chắc viết được hay hơn, xin mời bạn đọc đọc những lời
dẫn nhập rất tâm huyết này của TS Nguyễn Xuân Xanh, so sánh Nhật Bản và Việt
Nam trong thời Phan Châu Trinh, dưới nhãn quan xuyên thế kỷ của nhà yêu nước vĩ
đại này.
D.Đ.
![]() |
Phan Châu Trinh và các tác phẩm chính luận (nguyên tác tiếng Anh) Tác giả: Vĩnh Sính Dịch giả : Nguyễn Nghị Khổ sách: 14x20cm. Số trang: 262. Giá bán: 120,000 VND. In lần thứ
1 năm 2018 Mục lục Lời Nhà xuất bản 7 Lời dẫn nhập – Nguyễn Xuân Xanh 9 Dẫn nhập (Vĩnh Sính): Phan Châu Trinh và các
tác phẩm Chính luận 43 Pháp Việt Liên hiệp Hậu chi Tân Việt Nam 141 Khải Định Hoàng đế Thư 183 Đạo đức và luân lý Đông Tây 207 Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa 239 |
Phan
Châu Trinh – Việt Nam – và Nhật Bản
Nguyễn Xuân Xanh
Vạn
dân nô lệ cường quyền hạ,
Bát cổ văn chương túy mộng trung.
Phan Châu Trinh
“Chí thành thông thánh”, 1905
Văn chương tám vế mơ màng,
Muôn dân nô lệ dưới chân cường quyền.
Vĩnh Sính dịch
Năm 2016 là năm kỷ niệm lần thứ chín mươi ngày
mất của nhà ái quốc Phan Châu Trinh, 1926-2016. Nhân dịp này, chúng tôi xin gửi
đến quý độc giả một quyển sách về Cụ. Đó là quyển sách Phan Châu Trinh của cố học
giả Vĩnh Sính nhằm giới thiệu Cụ ra thế giới như một nhân vật lịch sử nổi bật của
Việt Nam thế kỷ 20. Quyển sách được xuất bản năm 2009 tại Nhà xuất bản Đại học
Cornell. Đây là một công trình nghiên cứu rất công phu của giáo sư Vĩnh Sính với
tính học thuật và hiểu biết lịch sử, văn hóa cao.
Mục đích của giáo sư Vĩnh Sính là giới thiệu một
nhà cải cách của Việt Nam đầu thế kỷ 20, Phan Châu Trinh, mà tư tưởng gần gũi với
các nhà cải cách Nhật Bản thời Minh Trị Duy Tân, nhưng cũng rất khác biệt với
đa số sĩ phu thời ông tại quê nhà, đặc biệt với gương mặt tiêu biểu Phan Bội
Châu. Vĩnh Sính trước đó cũng giới thiệu Tự truyện của Phan Bội
Châu sang tiếng Anh. Phan Châu Trinh tuy thất bại, như ông tự đoán trước, nhưng
những ý tưởng cải cách ông đến nay vẫn còn giá trị.
Quyển sách Phan Châu Trinh gồm có hai phần
chính. Phần đầu là Lời dẫn nhập do Vĩnh Sính viết, nhằm giới
thiệu tóm lược cuộc đời và những tư tưởng chính của Phan Châu Trinh. Phần thứ
hai là các bài viết chính luận quan trọng của Phan Châu Trinh. Phần này gồm có
bốn bài.
Cảm kích trước cuộc đời tài hoa của người bạn Vĩnh Sính, và luôn luôn mang trong đầu câu hỏi: “Tại sao các quốc gia xung quanh thành công, còn chúng ta chưa thành công?”, tôi cảm thấy một món “nợ tinh thần” cần phải đưa quyển sách chứa đựng sự trình bày và cái nhìn sáng sủa của một nhà nghiên cứu uyên thâm này về Phan Châu Trinh đến độc giả Việt Nam, để góp phần nhìn lại và hiểu biết thêm về Việt Nam. Ôn cố tri tân là điều cần làm ở mọi thời kỳ lịch sử.
★
Khi đọc những dòng cháy bỏng của quyển sách
này, ta có thể thấy một Phan Châu Trinh như một nhà đấu tranh không mệt mỏi cho
dân chủ và dân quyền để giành lại nhân phẩm cho người Việt Nam, và tạo điều kiện
cho sự phát triển; thấy một nhà cải cách có cái nhìn sâu xa về con đường hiện đại
hóa đất nước để tạo nội lực dân tộc, không phải chỉ bằng giải pháp quân sự đơn
thuần, cũng không phải dựa vào ngoại lực nhất thời; và thấy một Phan Châu Trinh
như một nhà giáo dục thuyết giảng cho đồng bào nghe về dân chủ,
dân quyền, đạo đức và luân lý Đông và Tây, và bàn về cách thức làm sao để phục
hồi nền đạo đức và luân lý dân tộc đang suy tàn để đổi mới dân tộc. Cụ diễn giảng
rất ư sư phạm và với sự hiểu biết am tường.
Mỗi dân tộc đều có những người thầy – educator
– của họ để giáo dục, nói cho họ nghe những chỗ yếu, chỗ mạnh và con đường hướng
tới nhân phẩm và độc lập dân tộc. Phan Châu Trinh là một người như thế. Ông muốn
thấy một dân tộc đổi mới tính cách từ trong, “tự lực khai hóa”, từ việc ý thức
những nhược điểm đã hằn sâu trong tâm lý dân tộc. Muốn thay đổi căn cơ, cần phải
nhận thức đúng vấn đề sâu xa của nó. Cụ là người truyền bá dân quyền đầu tiên,
chống bạo động, dấy lên phong trào duy tân “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân
sinh”, không phải vì nhu nhược, mà vì Cụ thấy dân trí và tiềm lực của Việt Nam
khi ấy còn quá thấp, chống đối là vô vọng, mà nên dựa vào Pháp để tự cải thiện,
từng bước trưởng thành và tiến lên giành tự chủ. Đằng sau tàu chiến, súng đạn
là cả một nền công nghiệp hiện đại, cả sức mạnh của một quốc gia đã phát triển,
và một đạo binh hùng manh, Việt Nam làm sao có thể đương đầu? Chẳng có phép mầu
nào có thể giúp Việt Nam được cả, trừ chính sức mình. Cụ nói những điều đó trước anh
em đồng bào, những tiếng như Cụ thường gọi một cách trìu mến trong các buổi
diễn thuyết. Phan Châu Trinh có lẽ là người áp dụng nghệ thuật diễn thuyết đầu
tiên ở Việt Nam. Cụ diễn thuyết rất hùng hồn, hiện đại, và rất thuyết phục. Về
phương diện này, Phan Châu Trinh là Fukuzawa Yukichi của Việt Nam. Cụ là nhà
khai sáng, một nhà cách mạng tư tưởng, và là người thầy của
Việt Nam cận đại.
Phan Châu Trinh hành động cụ thể, có tính biểu
tượng, bằng cách ăn mặc hiện đại, như người Nhật từng làm, với bộ côm-lê được
may từ vải nội địa, như Gandhi từng làm, được người đời gọi là “mốt Tây Hồ”, và
cắt tóc ngắn. Cắt tóc ngắn là để đoạn tuyệt với tư duy cũ. Cụ và các tri kỷ Huỳnh
Thúc Kháng, Trần Quý Cáp hăm hở giả dạng lái buôn để lên tàu của hạm đội Baltic
của Nga để quan sát văn minh phương Tây, trước khi hạm đội này bị Nhật đánh
tan.
Dân chủ, dân quyền, hiện đại hóa và đổi mới đạo
đức luân lý, đó là những nhiệm vụ sống còn của cuộc canh tân, theo Phan Châu
Trinh. Không phải một giải pháp riêng lẻ nhất thời, mà phải một cuộc đổi mới tổng
hợp. Cụ đòi hỏi một sự thay đổi văn hóa chính trị, phê phán mạnh mẽ sự thối nát
và hời hợt của hệ thống quan lại, thúc đẩy phát triển những giá trị mới qua một
cuộc hiện đại hóa, và nghi ngờ hiệu quả của giải pháp quân sự nhất thời, nhất
là sự cầu viện ngoại lực, cho dù từ Nhật, Trung Hoa, Nga hay Đức như đa số nhà
yêu nước lúc bấy giờ chủ trương. Ngay khi còn bị lưu đày ở Côn Đảo, cụ Phan đã
khẳng định: “Chưa có tư cách quốc dân độc lập, dầu có nhờ cậy ở nước ngoài chỉ
diễn cái trò ‘đổi chủ làm đầy tớ lần thứ hai’, không ích gì…, mình không tự lập,
ai cũng là kẻ cừu (thù) của mình, Triều Tiên, Đài Loan, cái gương rõ ràng, người
Nhật chắc gì hơn người Pháp”[1]
. Cụ đã nhìn xa. Đó là những điều làm
ông khác biệt với phần lớn các sĩ phu đương thời. Cụ trách khéo Phan Bội Châu:
“Ngày nay có danh sĩ tự phụ là yêu nước mà không biết tập trung hết sức vào
trong nước mà đề xướng quốc dân, rồi như sư tử ngủ mê, ngợi khen cường quyền của
Đảo quốc (Nhật Bản), nói năng ngông cuồng không nghĩ tới lợi hại, chỉ muốn mời
một nước thứ ba ‘khẩu phật tâm xà’ không có lấy chút nhân đạo để đem giao phó tất
cả vận mệnh đất nước cho được mới bằng thích.”[2]
Đổi mới văn hóa là điều kiện sống còn để từng
bước có độc lập tự chủ. Theo Phan Châu Trinh, chính sự suy đồi văn hóa và đạo đức
từ vua quan và giới nho học xuống tới người dân đã làm cho mất nước. Ngược lại,
chính cái văn hóa và đạo đức mạnh mẽ của người Nhật đã giúp họ canh tân đất nước
thành công nhanh chóng. Đạo đức, tuy là đạo đức Nho giáo – cụ Phan nghiêng về Mạnh
Tử hơn Khổng tử – vốn từng là cái bệ đỡ tinh thần của Nhật Bản để thành công.
So với người Nhật khi ấy, chúng ta thiếu tất cả,
thiếu độc lập tự chủ, thiếu dân chủ, dân quyền, thiếu nền tảng đạo đức mạnh mẽ
để có thể tự hào về “đạo đức phương Đông” như người Nhật từng tự hào, để tiếp
thu “khoa học phương Tây” trên nền tảng đạo đức vững vàng, cũng như thiếu một
giai cấp tinh hoa có cùng nhận thức để hành động mạnh mẽ.
Dân quyền là một trong những đòi hỏi hàng đầu để
cải thiện đất nước. Ở đâu trên thế giới cũng thế. Gần như đó là khâu đột phá đầu
tiên của mọi cải cách để cởi trói người dân mọi thành phần. Giới samurai Nhật Bản
lãnh đạo đất nước cha truyền con nối, chiếm chỉ khoảng 6% (đến 10%) dân số,
nhưng đứng trước yêu cầu cấp thiết của cuộc Đại duy tân, họ tự xóa bỏ giai cấp
mình và những đặc quyền của họ, chấm dứt mang gươm như biểu tượng của quyền lực,
để mọi người dân được bình đẳng và không còn biết sợ, để huy động tổng lực dân
tộc lên phía trước, các tài năng đều có thể tham gia đóng góp như nhau mà không
có rào cản từ nguồn gốc hay giai cấp. Nhà nước Phổ trước đó cũng thế. Đầu
thế kỷ 19, sau khi thua Napoleon đau đớn, đã tiến hành Đại cải cách.
“Mọi lực lượng phải được đánh thức và phải được
trao cho một vị trí xứng đáng. Nguồn gốc sinh đẻ không còn là độc quyền cho chức
vị. Nếu cho nó quá nhiều quyền thì cả một lực lượng lớn trong lòng quốc gia sẽ
ngủ yên không phát triển và đôi cánh vươn lên của tài năng sẽ bị làm tê liệt bởi
các quan hệ bẩn chật. Trong khi một Đế chế suy tàn trong bệnh hoạn yếu đuối,
thì một Caesar có lẽ đi cày trong cái làng thống khổ nhất của ông và một
Epaminondas (tướng tài của Hy lạp trước công nguyên) phải nuôi thân chật vật bằng
lao động của hai bàn tay mọn của mình. Người ta vì vậy phải sử dụng đến những
biện pháp đơn giản và hữu hiệu hơn để mở ra cho thiên tài một con đường, bất kể
thiên tài từ đâu đến. Người ta cũng phải mở cánh cửa khải hoàn cho các lực lượng
công dân… Thời đại mới cần hành động và sức mạnh tươi mới hơn là tên tuổi và địa
vị.” (Tướng tài Gneisenau của Phổ, 1806)[3]
Cởi trói dân tộc là điều kiện hoàn vũ (universal),
để thực hiện canh tân cấp quốc gia, bởi sức mạnh là của cả nhân dân chứ không
phải của một thiểu số dù tinh hoa. Napoleon đã làm cho châu Âu hiểu ra điều đó.
★
Ngọn gió mạnh nhất đối với Phan Châu Trinh là
cuộc canh tân vĩ đại của Nhật Bản, thổi qua Trung Hoa, được truyền đạt qua những
nhà cải cách lớn như Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu trong phong trào Ngũ Tứ,
thổi đến Việt Nam qua dạng tân thư[4] vào đầu thế kỷ 20.
Các nhà cải cách Trung Hoa nhận định rằng, chỉ có Khoa học và Dân
chủ mới đổi đời cả một đế chế đang mục nát suy tàn.Tân thư truyền
đến Việt Nam làm lay động mạnh mẽ các sĩ phu Việt Nam, được cụ Phan ghi lại như
sau: “Một hôm, bỗng nhiên chợt tỉnh cơn mê, như vén mây mù trông thấy trời
xanh, như vừa ra khỏi buồng tối nhìn thấy mặt trời hay mặt trăng. Niềm vui đó
nói sao cho hết.” Nhưng không may, như Vĩnh Sính viết: “Tuy nhiên, trên thực tế
‘người thông hiểu thì ít mà kẻ ngoan cố lại nhiều’ và độc hại do sự sai lầm của
các nhà bát cổ (nho sĩ) gây ra vẫn còn đầy rẫy.”
Rồi tin sét đánh tới: Nhật thắng Nga trong trận
chiến năm 1904-1905! Cả nước thêm sửng sốt trước những điều phi thường của dân
tộc Nhật. Phan Châu Trinh nói với Phan Bội Châu một cách nóng lòng: “Tôi rất muốn
sang Đông Kinh (Tokyo) cho biết rồi sẽ về nước ngay.” Và năm 1906 Cụ được toại
nguyện.
Sau khi quan sát các điều kiện xã hội của Nhật
Bản, Phan Châu Trinh đã tóm tắt nhận định của mình với Phan Bội Châu về sự khác
biệt giữa hai nền văn hóa: “Trình độ quốc dân người ta cao như thế ấy, trình độ
quốc dân mình thấp như thế kia, không làm nô lệ sao được? Nay được mấy học sinh
vào nhà trường Nhật Bản là sự nghiệp rất lớn của ông đấy…” Sau chuyến viếng
thăm Nhật Bản 1906, đối với Cụ, một nước Việt Nam độc lập mà chưa canh tân sẽ dễ
bị tổn thương trước các quyền lực lớn hơn trong vùng, và có nguy cơ phải thỏa
hiệp nền độc lập vốn rất khó khăn mới giành được. Nước Nhật như đi vào tim của
Cụ, và Cụ cảm nhận sâu sắc sự thành công của họ. Đó là thành công của văn hóa,
của đạo đức, của sự thức tỉnh, của sự sắc bén trí tuệ, và của sự lãnh đạo kiên
quyết và quyết đoán, của tinh thần bushido, của sự đổi mới toàn diện
xã hội. Cụ Phan hưởng một nền giáo dục đặc biệt từ bố mẹ: học võ trước
khi học văn. Sau khi mẹ mất, ở tuổi mười bốn, cụ theo bố đi săn trên núi
hay tập bắn cung và cỡi ngựa. Giáo dục này làm cho cụ có phẩm chất của một “võ
sĩ đạo”. Cụ hiểu Nhật Bản với con mắt chiến lược và tầm nhìn xa của một võ
sĩ đạo. Tinh thần chiến binh đã được hun đúc trong máu Cụ,
điểm làm cho cụ khác biệt với các sĩ phu các bấy giờ, và giống các samurai
Nhật Bản. Cụ học Nho giáo mà không lụy với nó như thuốc phiện để tự ru ngủ và
mất hết tính chiến đấu, giống như các samurai Nhật Bản. Người Việt Nam đã đánh
không biết bao nhiêu trận để tồn tại nhưng không có tinh thần đó, bị Nho giáo
và tinh thần quan lại làm tiêu tan ý chí và nghị lực. Cụ có tinh thần đó, và
vì thế Cụ thấu hiểu mô hình Nhật Bản một cách sâu xa. Cụ thấy đồng cảm với các
sumurai. Cụ là một ngoại lệ có cái nhìn khác với đám quan trường. Trước cụ,
Nguyễn Trường Tộ, một tài năng lỗi lạc, vì là người Công giáo nên không được đi
thi, nhưng chính vì thế mà đã nhìn thấy được những điều mà những ai ngụp lặn
trong quan trường không thể thấy được.
Có lẽ Phan Châu Trinh chưa hình dung hết những
lý do tại sao Nhật Bản lại thành công nhanh chóng, nhưng ông quyết tâm đổi mới
dân tộc từ bên trong là chính, theo hướng của Nhật Bản. Những gì Cụ làm ở Đông
Kinh nghĩa thục là theo hướng ấy: Hiện đại hóa những giá trị văn hóa, truyền bá
những tư tưởng văn minh mới và đổi mới dân tộc, đổi mới cuộc sống. Cụ là người diễn
thuyết đầu tiên, giống như Fukuzawa Yukichi. Diễn thuyết để giáo dục
nhân dân. Khai sáng phải đến với tất cả mọi người dân. Khác với Nguyễn Trường Tộ
chỉ cố gắng viết điều trần cho vua để mong cải cách đất nước. Cái cản trở lớn
lao, theo cụ Phan, chính là giới nho học mải mê “tầm chương trích cú” và “văn
chương bát cổ”. Họ chống lại Cụ và tìm cách hãm hại Cụ khi có cơ hội để bảo vệ
vị trí xã hội của mình, và họ đã từng làm thế. Giới Nho giáo và tinh thần thụ động
của họ là cản trở vô cùng lớn lao. Cho nên Phan Châu Trinh phê phán Phan Bội
Châu gay gắt, xem Phan Bội Châu là hiện thân của người “văn chương bát cổ”.
Năm 1925, trước khi từ Pháp trở lại Việt Nam,
Phan Châu Trinh đã viết một bức thư từ Pháp gửi một sinh viên người Việt, cho
thấy Nhật Bản trước sau vẫn là tấm gương đối với cụ, và cho thấy cách nhìn thế
giới đang hôn mê của Việt Nam thế nào:
Sao các anh không mở mắt mà xem gương Á Đông
ta, Nhật Bổn nó khôn ngoan, nó gặp văn minh Âu châu, nó chặt một dao với phong
tục cũ, nó đi theo ngay lối mới, nó kiêu người Cao li, nó kiêu người Tàu, hai
nước ấy cứ xăn văn mãi, tiếc cái phong tục cũ, không chịu theo cái mới đến khi
nó đến nơi rồi nó trở lại nó đè đầu, mới chịu thức dậy, nay hãy còn bối rối.
Còn mình bị cỡi đầu cỡi cổ, cứ nhắm mắt giữ khư khư lấy phong tục mất nước, đến
bây giờ mới mở mắt ra, lại không chịu đứng ngay dậy tìm cho rõ sự đời rồi sẽ
nói, cứ nói mơ màng tưởng tượng như người chiêm bao, thì nước nhà trông vào
đâu, nòi giống trông vào đâu, chẳng lẽ còn đợi đến lớp cháu lớp chắt nữa hay
sao?[5]
Nếu các nhà khai sáng Nhật Bản chủ trương “Văn
minh – Khai sáng” (Bunmei –kaika), “Khoa học phương Tây, Đạo đức phương Đông”,
các nhà khai sáng Trung Hoa chủ trương lấy “Khoa học, Dân chủ” để phát triển một
“Văn hóa mới” làm cột trụ cho cuộc canh tân, thì cụ Phan chủ trương: Dân quyền,
Dân chủ, Hiện đại hóa và Đổi mới văn hóa, cùng một hướng. Nhưng điều kiện của
Việt Nam thì quá bất lợi.
Cụ Phan đã thấy tận mắt Nhật Bản, đã hiểu, Cụ
đã đọc được sách tân thư của các nhà khai sáng Trung Hoa của Phong trào Ngũ Tứ
truyền qua Việt Nam. Phong trào Ngũ Tứ này đã lấy lửa khai sáng của Nhật Bản
Duy Tân làm ngọn đuốc soi đường. Phong trào Ngũ Tứ tin chắc vào sức mạnh của
khoa học và dân chủ sẽ đổi đời đất nước. Họ thấy tấm gương Nhật Bản. Họ chủ
trương xây dựng một “văn hóa mới”. Khẩu hiệu của cụ Phan cũng theo hướng đó.
Không thể khác nếu muốn cứu nước.
Nhật Bản trong buổi giao thời khoảng 1868 có ba
thứ học: Trung Hoa học, Nhật Bản học, và Phương Tây học. Các nhà khai sáng Nhật
Bản phần lớn đều tập trung vào Phương Tây học, với khẩu hiệu Văn minh-Khai sáng
theo phương Tây. Fukuzawa là gương mặt tiêu biểu. Thật sự, người dân Nhật Bản ồ
ạt đổ xô đi học những cái mới của phương Tây, tuy vẫn giữ giềng mối đạo đức cũ
của Nho giáo. Hideki Yukawa, nhà vật lý giải Nobel đầu tiên (1949) của Nhật Bản,
trong Tự thuật[6], kể lại rằng đại đa số thanh niên thế
hệ ông không còn học Trung Hoa học nữa! Họ đã “thoát Á” thật sự rồi.
Cách nhìn của Phan Châu Trinh về Phan Bội Châu
cũng là cách nhìn của Cụ đối với phần lớn giới tinh hoa, và con người Việt Nam.
Theo Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu là týp “nhà yêu nước bị biến tướng bởi cái
học văn chương tám vế”, là “nhà bát cổ” điển hình mang những tập tính do ảnh hưởng
của cái học khoa cử. Cụ viết: “(Các trước tác của Phan Bội Châu) xem ra toàn là
biến thể của văn chương bát cổ, không có mảy may một chút giá trị, nhưng vì
trình độ và tính cách thích hợp với quốc dân, nên dân mới bị lừa theo”. Không
những thế, cá tính con người Phan Bội Châu biểu hiện “những quán tính lâu đời của
người Việt Nam, gồm những mặt tốt đẹp nhất cho tới những mặt thiếu sót, kém cỏi
nhất”[7]. Phan Châu Trinh giải thích về Phan Bội Châu – cũng là để
giải thích hiện trạng văn hóa Việt Nam lúc bấy giờ:
“… Ông ấy là người đại biểu cho những tập quán
có từ ngàn xưa trong lịch sử của dân tộc nước Nam. Không biết chân tướng của
người nước Nam, xem ông ấy thì biết được. Người dân nước Nam rất giàu tính bài
ngoại, ông ấy bài ngoại đến chỗ cực đoan. Người nước Nam rất thích ỷ lại vào
người nước ngoài thì ông ấy ỷ lại đến chỗ cực đoan. Người dân nước Nam rất thiếu
tính tự lập thì ông ấy lại càng thiếu cùng cực. Tính cách và trình độ của ông ấy
nhất nhất đều tương hợp với tính cách và trình độ của quốc dân, bởi vậy ông
nhân ưu điểm và khuyết điểm của quốc dân mà lợi dụng.[8]
Rồi, như một hệ luận tất yếu, Cụ thành thật tự
tiên đoán sự thất bại của chính mình trên mảnh đất ấy, và nói rõ luôn tại sao:
“Tôi tự biết những lý do mà chủ nghĩa của ông ấy
(Phan Bội Châu) đưa ra thì rất yếu, nhưng nếu áp dụng vào đặc tính của dân nước
Nam thì rất mạnh. Chủ nghĩa của tôi, lý do đưa ra thì rất mạnh, nhưng nếu áp dụng
vào đặc tính của người nước Nam trong tình thế hiện tại thì rất yếu. Chủ nghĩa
của ông ấy rất hợp với đặc tính và trình độ của quốc dân, lại nhắm vào chỗ mạnh
mà lợi dụng và vì ở hải ngoại nên ngôn luận tự do, dễ có người theo, do đó chủ
nghĩa ông ấy sẽ tất thắng. Chủ nghĩa của tôi tương phản với đặc tính và trình độ
của quốc dân, lại nhắm vào chỗ yếu mà cứu và vì ở trong nước nên bị các thế lực
chèn ép và nghi kỵ tập trung vào, các hoạt động và ngôn luận đều không được tự
do nên người theo cũng khó, do đó chủ nghĩa của tôi tất bại”.[9]
Không thể khác. Cụ Phan muốn đỡ Việt Nam lên,
như thần Atlas đỡ thế giới. Nhưng di sản Việt Nam đang quá nặng, Cụ không đủ sức.
★
Khi từ Pháp về năm 1925, cụ Phan có hai bài diễn
thuyết quan trọng, Đạo đức và Luân lý Đông và Tây; và Quân
trị chủ nghĩa và Dân trị chủ, trước khi mất. Cụ quy trách nhiệm vua chúa đã
giết chết đạo đức và luân lý Việt Nam: “Bàn đến quốc gia luân lý thì tôi xin
thưa rằng, nước ta tuyệt nhiên không có. Tôi xin nói tạm rằng quốc gia luân lý
của ta từ xưa đến nay chỉ ở trong vòng chật hẹp của vua và tôi. Không nói đến
‘dân và nước’ vì dân không được bàn đến việc nước!” Dân cũng không phát triển
được khái niệm quốc gia, hay yêu nước: “Nếu dân ngu quá, yếu quá không đủ dấy
loạn được, thì các nước khác nó tràn vào, ấy là cái lẽ tự nhiên, làm gì thế nào
cũng không khỏi mất. Cho nên xưa nay cái ngôi vua thay đổi luôn, cũng như cái
ghế hạng nhất ở rạp hát vậy.” Hay “Ta đã biết nước ta mất cũng vì luân lý, dân
ta hèn cũng vì mất đạo đức luân lý, bị người khinh bỉ giày xéo cũng vì mất đạo
đức luân lý thì ta phải cố sức sửa đổi luân lý, bồi đắp đạo đức của ta.”
Yukichi Fukuzawa cũng có suy nghĩ tương tự như
Phan Châu Trinh. Sự thống trị 260 năm của triều đại Tokugawa bằng kiểm soát
nghiêm ngặt sinh hoạt người dân đã làm cho con người bị thui chột đi tinh thần
quốc gia. Fukuzawa diễn tả: “Hàng triệu người khắp nước Nhật bị đóng kín trong
hàng triệu cái hộp riêng rẽ hay bị chia cắt bởi hàng triệu bức tường”. Ông tiếp:
“Con người chỉ muốn bảo đảm sự an toàn riêng mình, và thiếu tinh thần tranh luận
(…). Họ tất cả đều lệ thuộc vào chính quyền và không quan tâm đến việc công.
Trong một triệu người thì có một triệu ý kiến khác nhau. Mỗi người đóng kín
mình vào căn nhà riêng và quên đi thế giới bên ngoài như thể đó là một nước lạ.
(…) Họ luôn cố gắng tránh liên đới đến mọi thứ trên đời cho nên không có thì giờ
để thảo luận chung nhau về công việc. Thói quen đã ăn sâu này trở thành một tục
lệ và sản sinh ra tình trạng đáng buồn hiện tại.”[10]
Trả lời câu hỏi của thính giả, có thể bỏ hẳn
luân lý của ta để tiếp nhận luân lý mới của phương Tây hay không, cụ Phan trả lời
rất gợi hình: “Một nước luân lý cũ đã mất là nước không có cơ sở, nay bảo đem
luân lý mới về thì biết đặt vào đâu? Vẫn biết phép chắp cây của người Tây tài
tình thật, nhưng nay đem một cây rất tươi tốt như cây luân lý ở các nước bên Âu
Tây kia mà chắp với một cây đã cằn cộc như cây luân lý ở nước Việt Nam ta thì
tưởng không tài nào sinh hoa tươi, quả tốt được . Muốn cho sự kết quả về sau được
tốt đẹp, tưởng trước khi chắp cây cũng nên bồi bổ cho hai bên có sức bằng nhau
đã. Tôi diễn thuyết hôm nay là cốt ý mong anh em nên cứu chữa lấy cây luân lý
cũ của ta, rồi sẽ đem chắp nối với cây luân lý của Âu châu vậy.”[11]
Ai cũng theo Nho giáo: Vua, quan, tôi. Nhưng cụ
Phan xem xét lịch sử Trung Hoa và kết luận: “Xét cái lịch sử quân chủ ở Á Đông
này thì chúng ta biết rằng từ Tần Thủy Hoàng về sau không còn có đạo nho thi
hành trong nước nữa, chỉ còn sót lại một hai điều ở trong gia đình mà thôi. Kỳ
dư là những điều mấy ông vua chuyên chế dựa vào đạo Nho để đè nén dân.”[12]
★
Đọc cụ Phan, trong thâm tâm, chúng ta đều không
khỏi nghĩ đến nước Nhật hạnh phúc, dân tộc láng giềng “đồng chủng, đồng văn” của
chúng ta. Tại sao họ thành công nhanh chóng như “trở bàn tay” như thế, vang lừng
như thế, khiến thế giới nể phục như thế, tỏa sáng như thế? Họ không hề có các
ngoại viện như ODA hay FDI. Ngược lại họ phải tự bỏ tiền từ quỹ eo hẹp để thuê
mấy ngàn thầy giáo, chuyên gia phương Tây đến làm việc, trong đó có những người
được trả lương cao hơn cả lương của thủ tướng.
Họ được như thế có phải vì may mắn không? Thưa
không. Nhật Bản có một số điều kiện nội tại rất thuận lợi như sau:
1. Nhật Bản
có giai cấp cầm quyền mạnh cha truyền con nối, và ổn định. Giới này sớm có một
đối sách và quyết sách dứt khoát trước mối đe dọa của phương Tây. Họ sớm hiểu sức
mạnh của phương Tây từ đâu: Từ sức mạnh công nghiệp, khoa học, giáo dục, và thể
chế. Thể chế để tạo sức mạnh cho cả dân tộc, để mỗi người trở thành một chiến
sĩ trong thời bình cũng như lúc lâm nguy. Hãy nghe Bộ trưởng giáo dục đầu tiên
của Nhật Bản tuyên bố như một tướng lãnh:
“Chiến tranh (sensō) không phải chỉ là đánh nhau bằng súng đạn và giết nhau, mà tất cả mọi người Nhật phải được tham gia ngay từ bây giờ vào cuộc chiến tranh của kỹ năng, kỹ năng của cuộc sống, của công nghiệp, thương mại, tri thức. Và đào tạo thầy giáo phải dựa trên sự chuẩn bị cho cuộc chiến này. Thua cuộc chiến này là sẽ thua cuộc chiến bằng súng đạn. Đất nước chúng ta phải chuyển dịch từ vị trí hạng ba lên vị trí hạng hai, rồi hạng hai lên hạng nhất; và sau cùng lên đến vị trí hàng đầu trong cộng đồng các quốc gia thế giới. Con đường tốt nhất để thực hiện điều này là đặt nền móng cho giáo dục cơ bản”.[13]
Khẩu hiệu của họ là “Học hỏi Tây phương, bắt kịp Tây phương, đi vượt Tây phương”.
2. Giai cấp cầm
quyền có uy tín tuyệt đối và thuộc tầng lớp quân sự, có học, khiến cho họ dễ thức
tỉnh và tiếp nhận văn minh phương Tây trong khi các nền văn hóa khác ở châu Á
vì mãi mê Nho giáo, quan trường mà chống đối quyết liệt mọi đổi mới. Họ có năng
lực tổ chức việc du nhập văn minh công nghệ, khoa học, giáo dục và quân sự
nhanh chóng. Thực tế họ tổ chức duy tân như tổ chức một cuộc tập trận qui mô quốc
gia. Từ những người vừa được rèn luyện quân sự, vừa được đào luyện văn hóa Khổng
giáo, tức vừa có văn, có võ, họ dễ dàng trở thành những người lính kỷ luật
trong cuộc công nghiệp hóa. Cái cây đạo đức của họ mạnh mẽ, nói như Phan Châu
Trinh, nên sự tiếp thu văn minh phương Tây của họ dễ dàng.
3. Chế độ
chính trị của Nhật Bản ổn định từ ngàn năm, vua vẫn là biểu tượng quốc gia, nên
họ nhanh chóng chuyển đổi sang chế độ quân chủ lập hiến dễ dàng. Nhưng tuy
thế, cấu trúc quyền lực là đa dạng, tạo sự cạnh tranh không ngừng
giữa các bang, thúc đẩy phát triển.
Nhưng phải nói thêm nhiều điều rất quan trọng:
Nhật Bản có những thuận lợi khác rất hữu hình mà Việt Nam không có: Ưu thế lớn
trong sự phát triển xã hội, kinh tế và văn hóa. Văn hóa học của Nhật Bản thời mở
cửa 1868 đã phát triển rất mạnh mẽ. Văn hóa Edo, và nghệ thuật Edo của thời
đóng cửa đối với phương Tây là một kỳ quan. Trong thời Genroku (1688-1704),
cuối thế kỷ 17, được xem là thời vàng son của Tokugawa với kinh tế ổn định, nghệ
thuật và văn chương phát triển, Nhật Bản đã có một hệ thống xuất bản sách hiện
đại đáng ngạc nhiên, đặc trưng bởi sự hiện hữu của nhiều nhà xuất bản lớn, nhiều
nhà minh hoạ sách có tiếng và nhiều nhà văn tên tuổi. Sách thường được xuất bản
với số lượng đến hơn 10.000 bản! Đây là một con số “khủng” thời đó; Nhật Bản
lúc đó chỉ có chừng hơn 20 triệu người, vì thời Minh Trị dân số Nhật Bản khoảng
30 triệu. [Hãy so với Việt Nam thời nay!]Rất nổi tiếng là sự phát triển
các thư viện thương mại (kashihonya) nhằm cho mượn sách đến tay
những người thích đọc mà không có đủ tiền mua sách. Vào cuối thập
niên đầu của thế kỷ mười chín, Osaka có khoảng ba trăm thư viện thương
mại như thế, Edo hơn sáu trăm. Họ còn xây dựng những thư viện thương
mại lưu động đi về các miền quê để bán hay cho mượn sách đến các
nông dân biết chữ. Nhật Bản thế kỷ 18 có những thành phố lớn phát triển với
dân số tập trung cao như châu Âu. Edo (tức Tokyo) có trên một triệu dân, nhất
thế giới, hơn cả Paris. Các thành phố khác như Osaka có con số non một triệu.
Nhật Bản có văn hoá thành thị, có cả văn hóa salon (zashiki), đời sống
sung túc rõ nét như ở châu Âu thời Trung cổ. Nghĩa là họ giàu có và phát triển.
Và đó cũng là điểm hấp dẫn đối với giới thương nhân nước ngoài khi họ kêu gọi
Nhật Bản mở cửa.
Năm 1868 khi Nhật Bản Minh Trị bắt đầu cuộc duy
tân, cả nước đã có 17.000 trường học đủ mọi loại! Đây cũng là
một con số “khủng” nữa. Hàng triệu người đã được học hành. (Việt Nam có được
bao nhiêu trường học và học sinh lúc đó? Lúc đó Nam Kỳ vừa trở thành thuộc địa
Pháp.). Có một ước tính theo đó cuối thời Tokugawa, Nhật Bản có khoảng trên 40
phần trăm con trai và 10 phần trăm con gái nhận được giáo dục ngoài gia
đình.[14] (Theo một ước tính, tỉ lệ biết chữ ở Pháp lúc
cách mạng Pháp là 30 phần trăm, cách mạng Nga 15 phần trăm, và cách mạng TQ
1949, 15 phần trăm. Nhật Bản áp dụng chế độ cưỡng bức giáo dục năm 1872, ở Anh
năm 1870, Pháp 1882, Mỹ 1918, và Đức 1919)[15] Nhà nước không sợ
sự phát triển giáo dục trong nhân dân; và dân chúng cũng đồng tình để cải thiện
vị trí xã hội của mình. Phát triển đất nước cần những người có học. “Việc đầu
tiên cần thiết cho sự trị vì một nhà nước là năng lực con người. Mà năng lực
con người thì đến từ sự học” như học giả Khổng giáo Dazai Jun (1686-1747)
viết. Nhật Bản qua hai trăm năm dịch thuật của giới Lan học (rangaku)
đã có một nền tảng khai sáng đượm chất men khoa học, tạo tiền đề cho sự chuyển
đổi dễ dàng ở giai đoạn Minh Trị. Bantō Yamagata (1743-1821) của Osaka, chẳng hạn,
vừa là doanh nhân vừa là học giả, dành 17 năm để nghiên cứu và xuất bản một bộ
sách gồm 12 quyển tên “Bảo đảm của những giấc mơ” (Yumenoshiro) để hiểu
khoa học châu Âu. Ông ủng hộ thuyết nhật tâm của Copernicus.
Nhưng không phải chỉ có giáo dục, văn hóa
phát triển chung chung để làm trang trí. Nhật Bản, với bản chất là
xã hội của võ sĩ đạo, với sự phân quyền nhất định giữa các bang
dưới cái dù thống lãnh của Shogun, là một xã hội có tính cạnh
tranh cao như các quốc gia nhỏ châu Âu thời Trung cổ, cho nên thúc đẩy
công nghệ, sản xuất và thương mại phát triển và được truyền bá liên
tục. Chính sự cạnh tranh này là chất xúc tác để làm lan tỏa các ý
tưởng khoa học, công nghệ trong cả nước. Các ngành in, dệt vải, nuôi
tằm, sản xuất lụa, sơn mài, gốm sứ, làm giấy, nấu rượu saké, khai
thác mỏ, luyện kim, đúc kiếm, nghề thợ mộc, chế tạo công cụ, được
phát triển và mở rộng liên tục. Người Nhật nhập khẩu từ Trung Hoa
không phải chỉ có sách vở Khổng giáo mà còn sách về khoa học, công
nghệ, toán học, những thứ mà châu Âu cũng từng học của Trung Hoa. Họ
chuộng đổi mới sáng tạo (khác với người Việt Nam
chuộng làm quan và hư danh).
Các phát minh liên tục diễn ra ở cấp độ
vi mô (microinventions) làm cho người Nhật ý thức thêm giá trị
của đổi mới sáng tạo. Các doanh nhân, nhà sản xuất luôn đi
tìm kỹ thuật mới. Thị trường nội địa được kết nối mà Edo và Osaka
là những trung tâm thuu hút mạnh mẽ hàng hóa. Sự cạnh tranh giữa các
bang đã dẫn tới những chính sách “”Phát triển doanh nghiệp, sản xuất
hàng hóa” (shokusan kôgyô). Sau khi Tokugawa bị lật đổ, người ta
làm thống kê thấy 50 trong 64 bang tạo nên 20 đến 40 phần trăm sự phồn
vinh của mình từ ngành chế tạo thủ công
(manufacturing). Nhân vật đặc biệt Hiraga Gennai (1728-80), tượng trưng cho
sự kết tinh của các xung lực trong thời Tokugawa vào con người, đi xa
hơn khi đưa ra nhận định, cách duy nhất cho Nhật Bản đảo ngược sự
thất thoát của cải vào tay các thương nhân nước ngoài là phát triển
các nguồn lực của Nhật Bản thành sản phẩm cho xuất khẩu lẫn sử
dụng nội địa, và chính sự thiếu hụt các nguồn lực là yếu tố phải
làm cho việc ứng dụng tri thức càng khẩn trương hơn.[16]
Đó là những hạt giống khai sáng đã được gieo
chính trong giai đoạn “tỏa quốc” (sakoku) hai trăm sáu mươi năm. Không
phải chỉ có việc du nhập các ý tưởng mới phương Tây vào một xã hội
bị đóng kín quá lâu có thể đương nhiên đem lại sự thành công nhanh
chóng và vượt bật, mà chính vì trong lòng xã hội đó đã manh nha
những điều kiện tiếp thu, về tinh thần, và về nền tảng công nghệ,
thương mại thuận lợi mà người Nhật mới nhanh chóng thành công như
thế.
Cho nên không lạ gì các nhà khai sáng Nhật Bản từ thế kỷ 18 hầu hết đều quan tâm đến khoa học, công nghệ. Họ thường học thêm các ngành như y khoa, thiên văn, địa lý, kỹ thuật, khoa học quân sự, đúc súng, như trường hợp của nhà khai sáng Fukuzawa Yukichi, và mở trường dạy học, như trường hợp nổi tiếng của nhà Lan học Ogata Kôan với ngôi trường Tekitekisai Juku năm 1838 tại Osaka, thu hút hàng ngàn môn đệ. Còn Fukuzawa có một quyển sách được ưa thích tên “Kunmô Kyûri Zukai” (Một giáo trình vật lý có minh họa) xuất bản năm 1872, chỉ một năm sau khi Luật giáo dục cưỡng bức được ban hành toàn quốc (1871). Kyûri là tên gọi của vật lý học lúc bấy giờ, ‘làm chủ các nguyên lý của sự vật’.
Một ảnh minh họa trong sách vật lý của Fukuzawa (về việc sử dụng thấu kính) |
Cho nên, theo phương châm nhìn thấy tận mắt
vẫn hơn trăm lời giải thích, người Nhật đã cuồng nhiệt đi tham quan
các triển lãm quốc tế về công nghệ xuất hiện lúc bấy giờ, Triển
lãm vĩ đại Luân đôn (1851 và 1862), Paris (1855, 1867, 1878, 1889) và
Vienna (1873). Đối với họ, những cuộc triển lãm quốc tế này có hai
ý nghĩa quan trọng, một là cơ hội để học hỏi những công nghệ mới
của thế giới, thứ hai, nhắc nhở họ sâu sắc về sự tụt hậu công nghệ
của họ để mau mau phấn đấu. Trường đại học đầu tiên của Nhật Bản
được thành lập là Đại học công nghệ Tokyo năm 1873, chỉ 2 năm sau lệnh
giáo dục cưỡng bức được ban hành, và do một kỹ sư Scốt-len, Henry
Dyer, được thủ tướng Itô Hirobumi thuê từ Anh quốc làm giám đốc, được
giao phó toàn quyền và trách nhiệm.[17]
Không thể nói hết tầm quan trọng của
chiều kích khoa học, công nghệ trong Khai sáng Nhật Bản, mà nếu không
có, thì khai sáng kia cũng chỉ hão huyền, chẳng có ích gì cho việc
chấn hưng đất nước, và ngày nay, Nhật Bản sẽ chẳng có tên tuổi gì
trên thế giới. Đó là điều không thể quên, hay bị đánh giá thấp. Khai
sáng mà không có khoa học, công nghệ làm nồng cốt, thì giống như tàu
chạy mà khộng có hơi nước. Ngày nay, đánh giá lại tầm quan trọng
của sự phát triện công nghệ trong lịch sử Nhật Bản, người ta nhìn
nhận rằng sức mạnh công nghệ thế kỷ hai mươi của Nhật Bản đã có
gốc rễ từ thời tiền-công nghiệp hóa, và đặc biệt trong giai đoạn
Tokugawa (1603-1868). Xã hội Tokugawa đã giúp đặt nền mống cho sự du
nhập ồ ạt công nghệ nước ngoài sau này, nhưng do những giới hạn
chính trị của quyền lực thống trị, các đổi mới triệt để của phương
Tây về công nghệ chỉ có thể được chấp nhận và phát triển mạnh mẽ
tại Nhật Bản sau khi quyền lực của Tokugawa đã bị đánh đỗ.
Một trong nhà lãnh đạo công nghệ hàng
đầu Nhật Bản đã dám quả quyết rằng “ở Nhật Bản ngày nay, bất kể
nghĩ đến sự sản xuất microchip LSI, hay bất cứ thứ gì, chúng ta đều
có thể nói rằng, cùng hệ thống sản xuất đó, cùng không khí của nơi
làm việc đó đã được phát triển đầy đủ trong thời kỳ Tokugawa”. Dĩ
nhiên, có thể hơi quá. Nhưng chắc chắn, Nhật Bản công nghiệp ngày nay
là kẻ kế thừa đich thực của một truyền thống công nghệ đó đây đã
đạt tới sự tinh vi cao thời đóng cửa.[18]
Về quyết tâm và mục tiêu căn bản của Nhật Bản
trong cuộc đại canh tân, hãy nghe Itô Hirobumi, vị thủ tướng lãnh đạo đầu tiên
của Nhật Bản thời Minh Trị nói thẳng thắng :
“Mục tiêu của đất nước chúng ta là rất rõ ràng
ngay từ đầu, là đạt tới qui chế của một quốc gia văn minh trong cộng đồng các
quốc gia thế giới, và trở thành thành viên được sự công nhận thân thiện của các
quốc gia châu Âu và Mỹ – các quốc gia đã chiếm giữ vị trí các quốc gia văn
minh. Gia nhập sự công nhận thân thiện này của các quốc gia có nghĩa trở thành
một trong các quốc gia đó.”[19]
Hơn thế nữa, ông nói tiếp:“Từ lúc Phục hồi
(Minh Trị), mục tiêu của chính phủ chúng ta là vượt trội các quốc gia thế giới”.
Họ không phải tuyên bố suông. Họ có nền tảng vững chắc để thực hiện, và họ đã
nghiên cứu quỹ đạo của các nước phát triển phương Tây qua chuyến đi lịch sử Iwakura 1871-73.
Họ thấy khả thi và con đường để đi, tự tin, và quyết đi đến đích sớm nhất cho bằng
được.
Fukuzawa đã phải thừa nhận rằng các quốc gia
phương Tây là văn minh, Nhật Bản là “bán văn minh”, và mục tiêu họ rõ ràng là
phải trở thành thành viên của các quốc gia văn minh trên thế giới. Cho nên người
Nhật làm tất cả những gì cần thiết cho sự cải tổ, từ hiến pháp đến bộ máy hành
chánh, tổ chức giáo dục, công nghiệp hóa, quân đội, phát triển kinh tế và khoa
học, đến cách ăn mặc, kiến trúc, thói quen, v.v., để thể hiện sự giống nhau về
văn minh với cộng đồng phương Tây. Fukuzawa là vị thầy của người Nhật dám nhìn
nhận sự thật kém cỏi của Nhật Bản, giống như Phan Châu Trinh đối với Việt Nam,
không phải để cúi xuống, mà để ngẩng mặt quyết tâm hành động giành một chỗ đứng
xứng đáng và bình đẳng trong cộng đồng các quốc gia đẳng cấp.
Như vậy, so với Nhật Bản, các sĩ phu yêu nước
Việt nam có những điều kém thuận lợi rất xa về văn hóa, giáo dục, thương mại, kỹ
thuật, đổi mới sáng tạo, tầm nhìn và năng lực lãnh đạo, v.v..Xã hội Việt Nam,
có thể nói tụt hậu toàn diện, nên càng chưa cung cấp được mảnh đất phát
triển tối thiểu để có thể làm động cơ nhanh chóng tiếp thu khoa học,
cộng nghệ nước ngoài.
★
Ngày nay cụ Phan có thể hài lòng phần nào: Độc
lập đã có, học hành đã có, đổi mới phần nào đã có, nhưng chắc Cụ còn xa mới
hết lo âu, bởi vì nhìn chung, con người Việt Nam vẫn còn là trở ngại của
chính mình, một bộ phận lớn còn mang những quán tính cũ xưa từng kềm
hãm đất nước. Quốc gia thiếu một nền tảng đạo đức mạnh mẽ để làm
giá đỡ, thiếu tinh thần “văn minh-khai sáng”, một ý chí vươn lên tự
lực tự cường, thiếu hiểu biết sâu sắc những gì làm nên sức mạnh
quốc gia – giáo dục, khoa học, công nghệ, và một thể chế và văn hóa
thích hợp để phát triển – như người Nhật từng làm trước đây; con
người Việt Nam vẫn còn quán tính “bài ngoại” ngấm ngầm, đi đôi với
sự thiếu học hỏi nghiêm túc để đổi mới, thiếu nhìn nhận sự tụt
hậu của mình; tính ỷ lại, tự mãn, hời hợt, sáo mòn, vô cảm, lề thói
làm ăn lạc hậu, óc mê tín dị đoan, óc chuộng hình thức, hư danh, chủ
nghĩa yêu nước hình thức… Đó là những vấn nạn cho sự phát triển. Một
trăm năm trước Cụ “kể tội” về thái độ vô cảm của người Việt:
“Người nước ta thường tự xưng là đồng loại, đồng
đạo, đồng văn với Nhật Bản; thấy họ tiến thì nức nở khen chớ không khi nào chịu
xét vì sao mà họ tiến tới như thế? Họ chỉ đóng tàu đúc súng mà được giàu mạnh
hay là họ còn trau dồi đạo đức, sửa đổi luân lý mới được như ngày nay? Ai có đọc
đến lịch sử Nhật Bản mới biết Nhật Bản họ cũng bồi đắp nền đạo đức của họ lắm.
Từ lúc Minh Trị duy tân cho đến 24 năm sau hạ chiếu lập hiến trong nước Nhật biết
bao nhiêu người lo khuynh Mạc Phủ lo lập hiến pháp, biết bao nhiêu kẻ đổ máu
rát cổ mới gây dựng nên một nước tân tiến rất giàu mạnh như bây giờ. Tôi rất lấy
làm lạ cho những người đã qua Nhật Bản về! Không biết họ qua bển làm gì? Người
ta có câu: ‘Gần mực thì đen gần đèn thì sáng’. Sao những kẻ sang Nhật không đem
cái tốt về cho dân Việt Nam nhờ, mà chỉ làm giàu thêm tính nô lệ như thế? Rất đỗi
những việc hèn hạ một người dân tầm thường không làm, mà những kẻ ấy cũng làm
được hết thảy! Hay là đạo đức luân lý đã chết mất ở trong lương tâm của người
mình rồi, cho nên không hấp thụ được đạo đức luân lý của người chăng? Hay là
người mình như kẻ đã hư phổi rồi, cho nên một nơi có thanh khí như nước Nhật mà
cũng không thở nổi chăng? Lấy lịch sử mà nói thì dân Việt Nam không phải là một
dân tộc hèn hạ, mà cũng không phải là một dân tộc không thông minh, thế thì vì
lẽ nào ở dưới quyền bảo hộ hơn 60 năm nay mà vẫn còn mê mê muội muội, bít mắt
vít tay không chịu xem xét, không chịu học hỏi lấy cái hay cái khéo của người?”[20]
Ngày xưa ta nhắm mắt lại, một là văn minh Tàu,
hai là văn minh Tàu, bị độc khoa cử làm mờ ám trí khôn đã đành, đến ngày nay đã
hé mắt ra thấy người Tàu vận động nhiều việc rất to tát như gửi du học sinh khắp
hoàn cầu, như bỏ quân chủ, lập dân chủ, mà cũng an nhiên bất động, nhất thiết
chẳng biết gì là gì. […]
Thế mà biết hồn luân lý đạo đức của người mình
đã bị độc khoa cử giết chết, chỉ còn để nguyên lại một cái tính nô lệ mà thôi.
Đạo đức mất trước mất sau thật cũng không phải là lời nói ngoa vậy.”[21]
Rồi ông kết thúc bài diễn thuyết bằng câu:
“Tôi nói từ nãy đến giờ thật cũng nhiều rồi. Vậy
xin anh em cho tôi nói tắt lại rằng: Ta đã biết nước ta mất cũng vì luân lý,
dân ta hèn cũng vì mất đạo đức luân lý, bị người khinh bỉ giày xéo cũng vì mất
đạo đức luân lý thì ta phải cố sức sửa đổi luân lý, bồi đắp đạo đức của ta.
Anh em ta hãy gắng mà làm đi.”[22]
Thái độ đóng kín và “vô cảm”của người Việt,
không chịu học tới nơi tới chốn phương Tây, khác hẳn thái độ của người Nhật phải
chăng có nguồn gốc sâu xa từ một “lòng tự hào” do ảnh hưởng của Nho giáo rất
giáo điều, tự mãn và độc tôn, xem Nho giáo là “nhất thiên hạ”, và do đó, Tây học
là một điều nhục nhã, xem các dân tộc khác thấp kém không bằng mình, như vua Tự
Đức từng đáp lại nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ: “Nhật nó là dòng mọi, Xiêm nó
là dòng mọi; Mọi thì nó học với mọi được, chớ như ta là con thần cháu thánh, lẽ
nào ta lại đi học với mọi hay sao?”. Người Nhật cũng có tự hào, nhưng khôn
ngoan và tỉnh táo, nên không cho rằng Tây học là điều sỉ nhục, mà là điều cần
thiết không thể thiếu nếu muốn tồn tại trong cục diện quyền lực mới, trong khi
họ vẫn tự hào “đạo đức phương Đông” mới là nền tảng, bản sắc của họ. Không
học để rồi tụt hậu, thua kém người ta, bị người ta bắt nạt, hay đô
hộ mới là sự sỉ nhục lớn nhất đối với họ. Tri thức học từ phương Tây
giống như software, trên cái nền hardware đạo đức họ. Họ ý thức, họ đã học
Trung Hoa một ngàn năm trước. Giờ học phương Tây cũng là chuyện bình thường.
Không học mới là vô minh, là trước sau sẽ đánh mất độc lập dân tộc
thiêng liêng của mình vào tay ngoại bang, như định luật tiến hóa của
loài người đã được thực tế đau xót chứng minh.
Người Việt có một mâu thuẫn nội tại rất lớn: một
mặt có sức đề kháng cao độ trước ngoại xâm đến nỗi biến nó thành chủ nghĩa bài
ngoại, và khép kín trong thế giới vật thể, nhưng trong thế giới tinh thần, thì
như học giả Đào Duy Anh đã nhận xét, lại quá lệ thuộc vào một hệ tư tưởng
cố định của nước ngoài: “Chế độ khoa cử thế ấy thì phải sinh ra phương pháp
giáo dục thế kia, là lẽ tất nhiên. Học như vậy thì học trò chỉ chăm học thuộc
lòng một số ít sách kể trên, và chăm lựa lời cho khéo, gọt câu cho chỉnh, viết
chữ cho tử tế, một ý tứ có thể diễn ra năm bảy cách, miễn là lời văn cho bóng bẩy
mà ý từ dù là cặn bã của Tống Nho cũng không cần gì. Cái thói trọng từ chương,
ưa hư văn đã trở thành một thiên tính của dân tộc ta. Với cách
giáo dục ấy thì dù người thiên tư lỗi lạc cũng phải nhụt đi, huống gì những người
tư chất tầm thường, thực là một thứ giáo dục giết chết nhân cách vậy.”[23]
Nhật Bản trong chừng mực nhất định cũng bị tiêm
nhiễm lối học hư văn này, nhưng không đậm nét như Việt Nam, vì không có hệ thống
tuyển dụng người làm quan bằng con đường thi cử. Mặc dù thế, Fukuzawa đã chống
trả quyết liệt lối học hư danh và kêu gọi tập trung vào thực học (jitsugaku,
học những cái thực dụng) mới có thể xây dựng đất nước một cách hữu hiệu: “Học
hành không có nghĩa là chỉ học những thứ hóc búa, đọc những bài cổ văn khó hiểu,
thưởng thức waka (hòa ca), làm thơ hay bàn chuyện văn học
không có ích gì cho đời. Thú văn chương không phải là không có ích, nhưng không
đáng được xem trọng đến mức độ như các nhà Hán học và Hòa học (nghiên cứu Nhật
Bản) vẫn thường tâng bốc từ xưa đến nay. Xưa nay, ít có nhà Hán học nào giỏi việc
nhà, hiếm có chônin (thị dân) nào giỏi waka mà
lại thành công trong chuyện buôn bán. Bởi vậy nên có những chônin và
bách tánh lo xa nghĩ rộng không muốn con mình vùi đầu đèn sách tối ngày để rồi
phải tán gia bại sản. Không phải họ không có lý. Điều này chứng tỏ rằng lối học
hành đó chỉ nhắm những chuyện xa vời và không có ích trong đời sống hằng ngày.
Bởi vậy, lối học vô bổ này phải xem là thứ yếu, và phải ra sức chấn hưng jitsugaku gần
gũi với đời sống hằng ngày của con người.”[24] Thực tế, bằng cải
cách giáo dục, người Nhật đã nhanh chóng “tạo ra những con người sống, hơn là
những học giả chết” như nhà khai sáng Nakae Chômin đòi hỏi.
Fukuzawa là người kiên quyết giành lại sự độc lập
tư duy của người Nhật khỏi Trung Hoa. Trong Khuyến học ông viết:
“Lý do đích thực của sự chống đối mạnh mẽ của tôi đối với nền văn hóa Trung Hoa
là niềm tin của tôi, rằng chừng nào học thuyết thoái hóa cũ xưa của Trung Hoa vẫn
còn tồn tại trong tinh thần của những người trẻ chúng ta, thì đất nước chúng ta
sẽ không bao giờ bước vào hàng ngũ của các quốc gia văn minh của thế giới được.
Trong sự cương quyết của tôi cứu các thế hệ sắp tới của chúng ta khỏi ảnh hưởng
bất lợi, tôi đã chuẩn bị đương đầu một mình với toàn bộ các học giả Khổng giáo
bởi chính nhà văn Lỗ Tấn sau đó cũng hoàn toàn đứng về phía ông, và phía Phan
Châu Trinh, khi kêu gọi: “Hỡi tuổi trẻ Trung Hoa![25] Hãy đừng đọc các tác phẩm
kinh điển Trung Hoa nữa. Hãy xa lánh chúng hoàn toàn, nếu có thể!”[26]
★
Người Nhật có đặc tính vô cùng quan trọng
là tò mò và sáng tạo như động lực tiên
quyết để phát triển trí tuệ. Họ học Trung Hoa một ngàn năm trước, hay Tây
phương một ngàn năm sau, vì óc tò mò và óc sáng tạo. Họ không tự bịt mắt trước
những cái mới đang diễn ra trên thế giới. Họ không sợ học cái mới, họ chỉ sợ
ngu dốt. Họ không thể yêu nước trong sự vô minh. Cho nên không lạ gì họ chấp nhận
học phương Tây, của Mỹ, Anh, Đức, Pháp một cách ồ ạt và dễ dàng mà không hề sợ
mất bản sắc. Cho nên không lạ gì họ là dân tộc thành công trước nhất ở châu Á.
Họ có đầu óc thực dụng. Cho đến nửa sau thế kỷ mười chín, họ xem Trung Hoa như
hình mẫu, học Khổng tử, Mạnh tử, Đỗ Phủ và Lý Bạch. Bắt đầu Phục hồi Minh Trị,
họ chuyển qua châu Âu, rồi sau Thế chiến thứ hai, họ hướng về Mỹ. Họ ý thức
không thể giữ được nước nếu không có thay đổi triệt để theo tinh thần thời đại
của từng thời kỳ.
Thực tế, sự thay đổi lớn lao thời Minh Trị là một
cuộc “cách mạng văn hóa” chưa từng có trong lịch sử họ (hoàn toàn khác với Ấn độ).
Người Nhật thay đổi toàn diện từ quần áo, tóc tai, khẩu vị, đến sự học, văn
hóa…Sự thay đổi ở thời kỳ đầu của cuộc Phục hồi Minh Trị là triệt để. Người Nhật
muốn quên đi tất cả quá khứ của mình, để hướng mình hoàn toàn về phía trước. Chỉ
dụ Hoàng đế Meiji năm 1871 có đoạn viết nói lên sự quyết tâm làm một cuộc chuyển
đổi toàn diện xã hội: “Mong muốn sắt đá của nhà vua là các thần dân hãy thay đổi
lối ăn mặc, cách xử sự, và củng cố chính thể quốc gia, với truyền thống thượng
võ của nó đã tồn tại từ thời những người cha lập quốc.” Bác sĩ Đức Erwin Bälz,
người được thuê xây dựng ngành y của Nhật Bản đã ghi trong sổ nhật ký của mình
về cảm nghĩ của giới trí thức của thời xáo trộn nhất đó: “Họ khư khư không muốn
biết gì về quá khứ của họ; thực tế, họ tuyên bố, mỗi người có học chỉ xấu hổ mà
thôi…’Tất cả những gì của quá khứ là hoàn toàn dã man…Chúng ta không có lịch sử,
bởi vì lịch sử của chúng ta chỉ mới bắt đầu…’” Người Nhật muốn đoạn tuyệt hẳn với
quá khứ. Họ cắt bỏ chùm tóc truyền thống trên đầu, tượng trưng cho vị thế của
giai cấp thống trị samurai, mặc đồ phương Tây, và bắt đầu ăn thịt bò, sukiyaki.
Kịch Kabuki, sumo, và nhiều thứ khác của truyền thống đều biến mất sau Phục hồi
Minh Trị. Các truyền thống chỉ xuất hiện lại sau khi chế độ mới đã bám rễ vững
chắc vào những năm 1880.[27] Tính triệt để của cuộc cách mạng
văn hóa cho thấy từ Vua, quan, đến giới tinh hoa của Nhật Bản, đều biểu lộ quyết
tâm sắt đá chuyển đổi toàn diện xã hội sang một xã hội công nghiệp hiện đại để
hội nhập vào thế giới phương Tây.Trong khi đó Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của
chế độ thi cử ở Trung Hoa kéo dài gần ngàn năm, từ 1705 cho đến năm 1919 mới
bãi bỏ. Giới tinh hoa Việt Nam học Tứ thư, Ngũ kinh và Bắc
sử (sử Trung Hoa). Bắc sử có thời được xem còn nặng hơn sử Việt Nam. Tầm
chương trích cú, và làm ra những vần thơ bát cú hay, đó là tất cả những thứ cần
để đậu đạt và tiến thân. Tất cả mọi ý tưởng đi lệch khỏi triết học Tống Nho đều
bị xem là “dị giáo” và loại trừ. Đầu óc con người bị gò vào khuôn khổ đó cả
ngàn năm, không muốn nhìn thấy gì khác hơn, chấp nhận cái khác hơn là điều “sỉ
nhục”. Phan Bội Châu ta thán trong Ngục trung thư về tác hại của
cái học đóng kín rập khuôn:
“Vì lúc bấy giờ, lối học khoa cử nhà Thanh đang
sôi nổi như gió cuốn mây bay, người nước mình bắt bóng theo chân, chỉ sợ không
giống y như người Tàu. Bà con ta muốn cỡi mây lướt gió không thể nào không mượn
con đường khoa cử, dầu ai có muốn chẳng theo thời đi nữa, cũng không có đường học
vấn nào khác mà đi. Than ôi! Chổi cùn trong nhà, tự mình xem là của quý, sự ưa
thích lâu đời đã thành thói quen thành ra rốt cuộc tôi cũng bị thời trang trói
buộc đến nỗi tiêu hao ngày tháng về nghiệp khoa cử gần hết nửa đời người. Đó là
một vết nhơ rất lớn trong đời tôi vậy.”[28]
Hay là:
“Than ôi! Đến giữa thế kỷ XIX, gió Mỹ mưa Âu đã
làm ồn ào vũ trụ, vậy mà ngó lại nước mình vẫn còn trong cơn mơ mộng ngủ say.
Lúc bấy giờ dân ta còn mù tịt chuyện đời đã đành, không trách gì được. Nhưng đến
hạng người trồi đầu khét tiếng như tôi mà cũng như ếch nằm đáy giếng, kiến ở
trong hang, có hiểu biết chuyện đời là gì đâu. Nghĩ trong thế giới có thứ người
đáng buồn cười mà cũng đáng thương xót, không còn ai hơn bà con nước mình.
Là bởi nước mình thuở trước chỉ đóng cửa ngồi
nhà, trăm điều kiến văn gì, quanh quẩn trong vòng chữ nghĩa thi cử Hán học mà
thôi; vậy cứ bảo ngay quốc dân mình là bọn tai điếc mắt đui, cũng không phải là
nói quá đáng chút nào.”[29]
Hoặc như Trần Trọng Kim viết trong Triều
đình nước Nam dưới triều vua Tự Đức:
“Từ thập cửu thế kỷ trở đi, văn minh và học thuật
của thiên hạ đã tiến bộ nhiều, mà sự cạnh tranh của các nước cũng kịch liệt hơn
trước. Thế mà những người giữ cái trách nhiệm chính trị nước mình chỉ chăm việc
văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự thì phi Nghiêu Thuấn lại Hạ,
Thương, Chu, việc mấy nghìn năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại, rồi cứ
nghễu nghện tự xưng mình là hơn người, cho thiên hạ là dã man. Ấy là triều đình
nước Nam ta lúc bấy giờ phần nhiều là những người như thế cả. Tuy có vài người
đã đi ra ngoài, trông thấy cảnh tượng thiên hạ, về nói lại, thì các cụ ở nhà
cho là nói bậy, làm hủy hại kỷ cương![30]
Nhật Bản không có chế độ thi cử làm quan như thế,
tuy họ cũng tiếp thu, học Nho giáo. Họ học Khổng tử có thể còn nhiều hơn Việt
Nam, nhưng không phải để giết chết sáng tạo, và tự “cầm tù” mình trong đó. Họ học
để phát triển năng lực trí tuệ. Nhật Bản có những nhà tư tưởng độc lập của
mình, tiêu biểu là Ogyū Sorai (1666-1728). Sorai xét lại tư tưởng
Chu Di (1130-1200) thời nhà Tống (Tân-Khổng giáo). Sorai đã lôi xuống đất các
quan hệ xã hội mà Chu Di đã đưa lên trời. Không có Đạo của Trời bất di bất dịch
trong Đạo của Người. “Toàn bộ cấu trúc của thế giới (đất nước) thay đổi theo
người cha lập quốc của mỗi thời kỳ. Do đó các thể chế và luật pháp cũng thay đổi”,
Sorai viết. Cả hai, Chu Di và Sorai đều là những tín đồ của Khổng giáo, nhưng với
những cơ sở khác nhau, một người với cơ sở của “mệnh trời’, một người với cơ sở
“do con người tạo ra”. Tuy cái vỏ giống nhau, nhưng hai hạt nhân khác nhau.[31] Trong
chừng mực họ có tư duy độc lập và sáng tạo.
★
Xin mượn lời nhận xét của cụ Huỳnh Thúc Kháng để
nhận định về cuộc đời của cụ Phan:
“Như tiên sinh, không những là một người chí sĩ
yêu nước, mà thật là một nhà chính trị cách mạng đầu tiên nước Việt Nam ta vậy.
Một kẻ sĩ vai gánh giang sơn, lòng thương nòi giống, một mình xông đột trăm
cách toan lường, trong hai mươi năm thừa, trải biết bao hiểm nghèo, nếm biết
bao mùi cay đắng … thế mà tiên sinh cứ khăng khăng ôm một cái chủ nghĩa, đeo đẳng
mãi với cảnh hoạn nạn mà không chịu rời ra; không những danh vị lợi lộc không dỗ
dành được, cực khổ không đổi dời được; cho đến gươm kề trên cổ, súng gí trước bụng
cũng cũng không chút nào lay chuyển, sánh với ông Sào Nam (Phan Bội Châu), chí
khí đồng nhau, nhiệt thành đồng nhau, phách lực đồng nhau, mà cái cảnh càng
khó, cái lòng càng khổ hơn vậy.”[32]
Phan Châu Trinh mất ngày 24.3.1926 hưởng thọ 54
tuổi. Cụ mất sớm làm sao! Số người tham gia tiễn đưa Cụ, từ thành phố cũng như
các tỉnh, ước tính từ 80.000 đến 100.000, của một Sài Gòn lúc bấy giờ có khoảng
300.000 dân số. Đám tang trở thành ngày biểu thị tinh thần cách mạng và lòng
yêu nước mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam.
Người Việt hôm nay đang có đủ điều kiện vật chất
và tinh thần hơn bao giờ hết để tiến thêm bước bứt phá quyết định, để vĩnh viễn
thoát khỏi “truyền thống nghèo nàn lạc hậu”: là tiến hành công nghiệp
hóa, hay cách mạng công nghiệp mà bao quốc gia phương Tây
và trong khu vực đã đi. Từ chiều sâu, ở nền tảng, chúng ta cần sự khai minh, cần
nền tảng đạo đức và luân lý mạnh mẽ, cũng như quyết tâm hóa rồng. Mỗi cuộc hóa
rồng đều hàm chứa một cuộc khai minh nhất định và ý chí chính trị mạnh mẽ. Cần
phải khiêm tốn chịu học thật sự như người Nhật Minh Trị từng học, cũng như các
dân tộc khác từng học xung quanh ngọn lửa khai sáng Nhật Bản sau đó. Cần bỏ đi
cái học làm quan, học nửa vời, học giả vờ, thói mê tín dị đoan, cùng chủ nghĩa
định mệnh bi quan. Cần bỏ ngay thói ỷ lại, hời hợt, tự mãn để thổi bùng tinh thần
tự lực, tự đổi mới từ bên trong mỗi người; tránh chăm chăm cầu viện ngoại lực
dưới nhiều hình thức. Muốn như vậy cần nền tảng là lòng ái quốc, tự hào, tự trọng
đích thực. Mở rộng óc tò mò sáng tạo, cởi mở với thế giới để không đi tiếp lối
cũ sáo mòn.
Những khó khăn của núi rừng đã qua, để mượn
cách nói của Bertolt Brecht, nhưng những khó khăn của đồng bằng bỗng dưng lại
biến thành rừng núi. Vì thế, sau một trăm năm Phan Châu Trinh vẫn còn đó, những
lời nói của cụ vẫn còn kia.
“Ta đã biết nước ta mất cũng vì luân lý, dân ta
hèn cũng vì mất đạo đức luân lý, bị người khinh bỉ giày xéo cũng vì mất đạo đức
luân lý thì ta phải cố sức sửa đổi luân lý, bồi đắp đạo đức của ta. Anh em ta
hãy gắng mà làm đi.”
Nguyễn Xuân Xanh
Nguồn: “Giới thiệu sách Phan Châu Trinh và các tác phẩm chính luận”, DienDan.Org
Chú thích:
[1] Vĩnh Sính [2016], Việt Nam & Nhật Bản Giao Lưu Văn
Hóa.DTBOOKS, nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Tr.262.
[2] Vĩnh Sính [2005], Thử tìm hiểu ý nghĩa tác phẩmPháp Việt Liên Hợp của
Phan Châu Trinh. Từ Đông Sang Tây, Kỷ yếu mừng tặng GS Lê Thành
Khôi 80 tuổi. Chủ biên: Cao Huy Thuần – Nguyễn Tùng – Trần Hải Hạc -Vĩnh Sính.
Nhà xuất bản Đà Nẵng. Tr.142
[3] Trong Nguyễn Xuân Xanh, Nước Đức
Thế Kỷ XIX. ZENBOOK& NXB Dân Trí, 2016. Tr. 55.
[4] Nửa thế kỷ trước, thời Nguyễn Trường Tộ,
đã có tân văn, gồm hai quyển sách quan trọng Danh hoàn chí
lược của Từ Kế Dư (1842, khái lược về địa lý) và Hải quốc đồ
chí của Ngụy Nguyên (1842), cả hai viết về tình hình thế giới, có ảnh
hưởng lên những sĩ phu thức thời.
[5] Vĩnh Sính, Lời dẫn nhập trong
sách, tr. 20.
[6] Sắp ra mắt, Đại học Quốc gia TP HCM.
[7] Vĩnh Sính [2005], tr. 142
[8] Vĩnh Sính [2005], tr. 142.
[9] Vĩnh Sính [2005], tr.143.
[10] Xem Nguyễn Xuân Xanh, Các bài
học từ Trung Hoa và Nhật Bản. Sẽ công bố.
[11] Phan Châu Trinh, Đạo đức và
Luân lý Đông và Tây. Trong sách, 104.
[12] Phan Châu Trinh, Quân trị chủ
nghĩa và Dân trị chủ trị. Trong sách, 110.
[13] Trong Nguyễn Xuân Xanh, Giáo dục nào cho tương lai?
[14] Nguyễn Xuân Xanh, Tại sao người Nhật mê đọc sách?
[15] Kuwabara Takeo, Japan and
Western Civilization. University of Tokyo Press, 1983. Tr.137.
[16] Tessa Morris-Suzuki, The
Technological Transformation of Japan. Cambridge Universtiy Press, 1994.
Tr. 25.
[17] Tessa Morris-Suzuki, như trên,
tr.81-82
[18] Tessa Morris-Suzuki, như trên, tr.14
[19] Nguyễn Xuân Xanh, Các bài học
từ Trung Hoa và Nhật Bản.
[20] Phan Châu Trinh, Đạo đức và
Luân lý Đông và Tây. Trong sách, 103.
[21] Đạo đức và Luân lý Đông và Tây,
trong sách, 103.
[22] Đạo đức và Luân lý Đông và Tây,
trong sách, 104.
[23] Vĩnh Sĩnh, Việt Nam & Nhật
Bản giao lưu văn hóa, 107/08.
[24] Vĩnh Sĩnh, Việt Nam & Nhật
Bản giao lưu văn hóa, 108/09.
[25] Nguyễn Xuân Xanh, Các bài học
từ Trung Hoa và Nhật Bản.
[26] Kuwabara Takeo, Japan and
Western Civilization. Tr.162.
[27] Kuwabara Takeo, Japan and
Western Civilization. Tr. 135.
[28] Vĩnh Sính, Việt Nam& Nhật
Bản Giao Lưu Văn Hóa, 106.
[29] Vĩnh Sính, Việt Nam& Nhật
Bản giao lưu văn hóa, 106.
[30] Vĩnh Sính, Việt Nam& Nhật
Bản giao lưu văn hóa, 35.
[31] Nguyễn Xuân Xanh, Các Bài học
từ Trung Hoa và Nhật Bản.
[32] Vĩnh Sính [2005], trang 145-46.
