XUYÊN NGÀNH: MỘT TỔNG QUAN VỀ XUẤT XỨ, PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ HIỆN NAY
Jay Hillel
Bernstein
TÓM TẮT
Xuyên ngành xuất hiện từ sự phê phán cấu hình tri
thức chuẩn của các bộ môn trong chương trình giảng dạy, gồm cả những quan ngại
về đạo đức và luân lý. Những tuyên ngôn về xuyên ngành xuất hiện trước tiên
trong thập niên 1970, trong thời kỳ cao điểm chính phủ hỗ trợ khoa học và đại học
rồi thoái giảm sau đó. Thoạt đầu tập trung vào các vấn đề nhận thức luận và kế
hoạch hóa đại học tương lai và chương trình đào tạo. Sau một thời ngủ quên,
xuyên ngành tái nổi lên trong thập niên 1990 như một chủ đề cấp bách liên quan
đến giải pháp cho những quan ngại mới mang tính toàn cầu, phức tạp cao, khởi sự
với biến đổi khí hậu và tính bền vững, rồi mở rộng sang nhiều lĩnh vực liên
quan đến khoa học, công nghệ, vấn đề xã hội và chính sách, giáo dục và nghệ thuật.
Ngày nay, đặc trưng của xuyên ngành là tập trung vào “những vấn đề ác tính” đòi
hỏi giải pháp sáng tạo, là niềm tin của nó vào sự tham gia của các bên liên
quan, vào sự thực hành một khoa học có trách nhiệm xã hội. Vừa nghiên cứu đa cấp
độ thế giới thực vừa thực hiện đa góc nhìn thế giới thực, xuyên ngành cung cấp
một tiềm năng hấp dẫn khích động hoạt động nghiên cứu cả bên trong lẫn bên
ngoài giới hàn lâm.
Từ khóa tiếng
Anh: transdisciplinarity, knowledge practice, socially responsible science,
integration of knowledge, wicked mess.
Từ khóa tiếng
Việt: xuyên ngành, thực tiễn tri thức, khoa học có trách nhiệm xã hội, thống hợp
tri thức, vấn đề ác tính.
 |
Alfonso Montuori (1960-) |
Xuyên ngành (transdisciplinarity) phản ánh thay đổi
trong suy nghĩ về nghiên cứu và đào tạo, thách thức lối phân công lao động học
thuật thành các bộ môn truyền thống, như Anh ngữ, xã hội học, hay địa chất. Vấn
đề không phải chỉ là ở chỗ các học giả cần nghiên cứu chéo sang ngành khác, cũng
không phải chỉ là việc xuyên chéo giữa các ngành (disciplinary crossing) không
được giới hạn chỉ vào hợp tác theo dự án mà các ngành xuyên chéo ấy đều có lợi.
Mà hơn thế, vấn đề là ở chỗ sự tin chắc vào các hệ hình chuyên ngành
(disciplinary paradigms) và sự chấp nhận các bộ môn như là cơ sở cho việc tổ chức
tri thức, khảo cứu và giảng dạy, những việc này cần bằng cách nào đó phải được
vượt lên. Về phần mình, các nhà lý thuyết xuyên ngành đề xuất những nguyên tắc
và tiêu chuẩn mới cho mở mang tri thức. Đầu tiên xuất hiện vào cuối giai đoạn
mà sau này gọi là kỷ nguyên vàng của khoa học (Freeland, 1992) rồi từng bước
lan tràn trong cuối thế kỷ XX, xuyên ngành trở nên một hiện diện quan trọng
trong cảnh quan đại học. Xuyên ngành xuất hiện và phát triển phản ánh những
cách thức đang nổi lên không chỉ trong việc tổ chức mà cả trong việc tư duy về
tri thức và nghiên cứu trong một thế giới đang ngày càng trở nên “quá lớn để có
thể hiểu được” (Weinberger, 2011). Như Alfonso Montuori (2008, trang ix) viết
trong lời nói đầu cho cuốn sách gần đây, “Có lẽ trên hết, xuyên ngành là một
cách nghĩ mới về nghiên cứu và cách làm mới trong nghiên cứu”.
1. XUẤT XỨ
 |
Jean Piaget (1896-1980) |
 |
Erich Jantsch (1929-1980) |
Thuật ngữ transdisciplinarity (xuyên
ngành) xuất hiện vào năm 1970, trong một seminar về nghiên cứu liên ngành (interdisciplinarity)
trong đại học, do Đại học Nice tổ chức được đồng bảo trợ bởi Tổ chức Hợp tác và
Phát triển Kinh tế (Organisation of Economic Cooperation and Development, OECD)
và Bộ Giáo dục Pháp. Nhiều học giả đồng thuận rằng nhà tâm lý học Thụy Sĩ nổi
tiếng Jean Piaget là người đầu tiên nêu lên thuật ngữ xuyên ngành
(López-Huertas, 2013; Nicolescu, 2010; Padurean & Cheveresan, 2010). Kết
luận bài viết của mình về những loại hình tương tác giữa các bộ môn, Piaget
(1972) nói rằng xuyên ngành, với tính cách là một loại hình phụ, thực sự là một
“giai đoạn cao hơn tiếp theo các quan hệ liên ngành ... nó không chỉ bao quát
những tương tác qua lại giữa các dự án nghiên cứu chuyên biệt mà còn đặt những
quan hệ ấy vào một hệ thống tổng thể không có ranh giới rõ ràng giữa các bộ môn”
(Piaget, 1972, trang 138).[1] Cũng trong seminar ấy, nhà toán
học Pháp André Lichnerowicz và nhà vật lý thiên văn Áo Erich Jantsch phát triển
tiếp tầm nhìn của Piaget. Lichnerowicz liên hệ nó với logic và lý thuyết tập
hợp, còn Jantsch thì đặt chủ đề này vào đào tạo và kế hoạch hóa. Trong hệ thống
của Jantsch, xuyên ngành là sự tổng hợp phức thể và trừu tượng nhất, vượt qua
đa ngành, đa nguyên ngành, chéo ngành, và liên ngành (multi-disciplinarity,
pluri-disciplinarity, cross-disciplinarity, and inter-disciplinarity). Jantsch cung
cấp một sự phân tích chi tiết về khái niệm mới xuyên ngành theo nghĩa là “sự
phối hợp mọi bộ môn và liên ngành trong hệ thống đào tạo/ đổi mới trên cơ sở
một định lý khái quát (đi từ cấp độ mục tiêu xuống) và một khuôn mẫu nhận thức
luận đang nổi lên” (Jantsch, 1972a, trang 106).[2] Nghiên cứu của Jantsch định hướng đến kế hoạch hóa chương trình giảng dạy
tương lai trong bối cảnh đang nổi lên các ý tưởng về khoa học là một nguồn đổi
mới (source of innovation) (xem thêm Jantsch, 1972b về một cách trình bày hơi
khác tầm nhìn của tác giả về xuyên ngành trong đại học tương lai, thống hợp [integrating]
giáo dục, nghiên cứu, và dịch vụ).
 |
André Lichnerowicz (1915-1998) |
 |
Kenneth Boulding (1910-1993) |
Đáng kinh
ngạc, cũng vào năm mà các học giả Âu châu hàng đầu đề xướng khái niệm xuyên
ngành trong cái hội nghị OECD ở Pháp ấy, thì Jack Lee Mahan, Jr., một nghiên
cứu sinh người Mỹ 28 tuổi trong ngành hành vi con người ở Đại học Quốc tế Hoa
Kỳ, một cách độc lập, trình luận án tiến sĩ Toward Transdisciplinary Inquiry
in the Humane Sciences (Hướng đến
nghiên cứu xuyên ngành trong các khoa học con người). Mahan nêu luận điểm
giống Jantsch về tổng hợp và thống hợp tri thức (synthesis and integration of
knowledge), nhưng bổ sung các chiều cạnh luân lý: nhu cầu “tôn trọng sự sống,
con người, và hoàn cảnh con người” (Mahan, 1970, trang 21). Mahan đi xa hơn Jantsch,
khi phê phán tình trạng ngày càng chia nhỏ trong các bộ môn truyền thống, phê
phán các lý tưởng tách rời và xa cách trong nghiên cứu. Mahan phân tích văn
liệu triết học về khoa học xã hội, chỉ ra rằng mặc dù xuyên ngành có thể là một
thuật ngữ mới, song mối quan tâm với ý tưởng ấy thực ra đã thể hiện bên dưới
những dòng chữ trong nhiều công trình của các học giả thế kỷ XX mà Mahan trích
dẫn. Tuy không đưa ra định nghĩa tường minh về xuyên ngành, đoạn văn sau đây
cung cấp ý nghĩa cho cái mà Mahan quan niệm về xuyên ngành và nó có thể cải
thiện chất lượng khoa học như thế nào: “Nghiên cứu xuyên ngành có thể đặc trưng
bởi định hướng chung vượt lên các ranh giới bộ môn và bởi nỗ lực đem lại tính
liên tục cho nghiên cứu và tri thức. Những đặc trưng khác là: chú trọng đến
tính toàn diện, bối cảnh và khung tham chiếu của nghiên cứu và tri thức; thâm
nhập giữa các ranh giới của những khái niệm và bộ môn; mở rộng ranh giới các bộ
môn để thúc đẩy hiểu biết về những mặc định ngầm ẩn, các quá trình nghiên cứu
và những tri thức thu được; tôn trọng nhân bản đối với cuộc sống và phẩm giá
con người; hoài bão tích cực ứng dụng tri thức vào cải thiện cho con người và
xã hội” (Mahan, 1970, trang 194-195).[3] Về sau, ta có thể tìm thấy nguồn gốc lạc quan của xuyên ngành theo
nghĩa khả năng một sự tổng hợp mới trong giáo dục đại học, công nghệ và khoa
học. Thời gian rất đúng lúc, vì công luận vinh danh khoa học hàn lâm và khoa
học nhà nước nhờ thành công chương trình Apollo đưa người lên Mặt Trăng. Nguồn
tài trợ lên đỉnh và tăng trưởng cao khiến kích thích nghĩ lớn, hình dung đại
học có thể là gì trong một thế giới hoàn hảo. Những phát hiện mới trên nhiều
mặt trận cũng khiến các học giả và nhà khoa học nghĩ lớn theo nghĩa các hệ
thống vĩ mô (bao gồm ý tưởng về “Spaceship Earth” và “Global Village”) và phát
triển những kết nối có ý nghĩa giữa những đối tượng bề ngoài có vẻ cách xa
nhau. Ý tưởng kết nối nhiều sự vật dường như khác biệt nhau là chủ đề quan tâm
trong công trình của các nhà lý thuyết hệ thống như R. Buckminster Fuller,
Kenneth Boulding, E. F. Schumacher, René Dubos, Ludwig von Bertalanffy,
Marshall McLuhan, Ervin Laszlo, và C. West Churchman, những trí thức hàng đầu
được công luận biết đến thời ấy.
Thởi kỳ này
cũng đánh dấu sự nổi dậy của sinh viên và xung đột thế hệ (Feuer, 1969): phản
văn hóa (counterculture), thứ đã đẩy đến những đối chọn (alternatives) sáng tạo,
nếu không nói là cấp tiến và nhìn chung là không khả thi, thách thức nguyên
trạng (status quo) (Roszak, 1969), lên đến đỉnh điểm, và bất mãn với đại học, được
cho là cánh tay nối dài của giới “quyền uy chính thống” (the establishment).
Nhiều giáo sư đồng cảm với sinh viên cấp tiến và đồng nhất mình với chủ nghĩa
lý tưởng của sinh viên. Có lẽ, một hiệu ứng phụ hay hiệu ứng hậu phản văn hóa
là các suy đoán không tưởng về những khả năng tương lai của đại học, và một vài
trong số đó thể hiện ra trong những công trình đầu tiên về xuyên ngành. Do đó, có
những đại học mới thành lập trên cơ sở một vài trong những lý thuyết như thế. Khoảnh
khắc vinh quang tưởng như bất diệt bởi thành tựu tuyệt vời con người đổ bộ lên
Mặt Trăng năm 1969 hóa ra quá ngắn ngủi, khi nó bị đóng lại chỉ bốn năm sau bởi
cuộc khủng hoảng dầu lửa OPEC đầu tiên. Điều này gây nên sự thoái giảm nhanh
chóng so với trước những tài trợ chính phủ dành cho giáo dục đại học khởi đầu
từ Hoa Kỳ và tác động đến việc duy trì nhưng không mở rộng các kế hoạch lý
tưởng cho hệ thống giáo dục dựa trên những khái niệm đang nổi lên về tri thức.
Hợp tác và
phối hợp liên ngành vốn hình thành từ lâu trong đại học Hoa Kỳ vẫn giữ được
nhịp độ và còn tiếp tục đà tiến ở thập niên 1970 trong nghiên cứu phụ nữ (sau
này là nghiên cứu giới), khoa học môi trường, nghiên cứu đô thị, và khoa học
tri nhận (J. T. Klein, 1996). Muộn hơn, người ta thấy những phân nhánh liên
ngành tạo nên những chuyên ngành mới như nghiên cứu khuyết tật, nghiên cứu hòa
bình và xung đột, ở đây chỉ kể ra hai thành công. Trong chừng mực những chương
trình nghiên cứu và giảng dạy xuất hiện xung quanh những chủ đề mới ấy, có nhu
cầu xác định và phê chuẩn giáo trình, phân bổ nguồn lực. Thế nhưng ý tưởng về
xuyên ngành xuất hiện đầu thập niên 1970 thì lại không phát triển gì cả và gần
như không được viện dẫn cho đến đầu thập niên 1990.
 |
Joseph J. Kockelmans (1923-) |
Một thảo
luận hiếm hoi về xuyên ngành xuất hiện trong giai đoạn ngủ quên ấy là chương
sách của Joseph J. Kockelmans trong cuốn sách chính ông chủ biên về liên ngành
và giáo dục đại học (1979). Kockelmans là nhà triết học sinh ở Hà Lan, học ở
châu Âu nhưng làm việc ở Mỹ và lại theo truyền thống lục địa. Là một trong số
ít người trích dẫn đến Mahan (1970) và trích dẫn đến kỷ yếu Hội thảo CERI trong
đó có tham luận của Jantsch (1972a), Kockelmans định nghĩa xuyên ngành là “công
tác khoa học của một nhóm các nhà nghiên cứu ... nhằm theo đuổi một cách có hệ
thống vấn đề làm thế nào khắc phục được các hiệu ứng phụ tiêu cực của việc
chuyên ngành hóa sao cho việc giáo dục (và nghiên cứu) có ý nghĩa nhiều hơn về
mặt xã hội” (Kockelmans, 1979, trang 128).[4] Đối với Kockelmans, mục tiêu của xuyên ngành không phải chủ yếu là tìm
ra giải pháp hợp lý cho vấn đề đang nghiên cứu mà là phát triển một khung lý
thuyết lớn hơn, thống nhất và toàn diện cho hoạt động khoa học và hàn lâm.
 |
Ellen Messer-Davidow |
Vài phát
triển không nhất thiết liên quan đến nhau đã đưa xuyên ngành trở lại trung tâm
sân khấu, không chỉ như là một triết học thú vị về giáo dục và khoa học, mà còn
như là một chủ đề cấp bách. Đó là tái nhận thức về vấn đề chuyên ngành với tính
cách là một phương thức cấu trúc hóa tri thức, được tập trung thảo luận trong
công trình của Ellen Messer-Davidow, David Shumway, và David Sylvan
(Messer-Davidow, Shumway, & Sylvan, 1993; Shumway & Messer-Davidow,
1993). Chính hiện tượng chia cắt tri thức vào những bộ môn tách biệt nhau có
nhân lực, cách làm cách nghĩ, cách phấn đấu thành tựu riêng vốn hiển nhiên đến
mức gần như không ai nhận ra, tuy cũng có vài người đã lưu ý như Donald T.
Campbell (1969), chính hiện tượng này đã cảnh báo sớm về tình trạng vừa thừa
vừa thiếu trong hệ thống chuyên biệt hóa trong khoa học xã hội. Những công
trình ban đầu của các nhà lý thuyết giáo dục học như Philip H. Phenix (1964) và
sau đó là Paul Dressel và Dora Marcus (1982) về bản chất của chuyên ngành với
tính cách là những cấu trúc tri thức, đã phân tích những khía cạnh có ý nghĩa
bao quát trong một số bộ môn khoa học. Tương phản lại, cách nhìn mới xem các bộ
môn là những kiến tạo xã hội, đặt nghi vấn về tính hiệu lực của các thực hành
xung quanh sự phân mảnh tri thức theo bộ môn và chỉ ra những hạn chế cố hữu trong
hệ thống phân ngành (xem Lattuca, 2001, trang 23-54 có một tổng quan tinh tế về
các khái niệm liên quan đến tính phân ngành, và xem Stark & Lattuca, 1997, trang
141-176).
Một yếu tố
then chốt khác là Chiến tranh Lạnh kết thúc dẫn đến dỡ bỏ Bức màn Sắt, tạo điều
kiện cho cái được gọi là lực lượng lao động toàn cầu mới. Chiến tranh Lạnh kết
thúc có nghĩa là chấm dứt những căng thẳng và xung đột này nhưng lại bắt đầu
những căng thẳng và xung đột kia. Ngày càng nhận thức được rằng toàn cầu hóa
không nhất thiết là tốt. Trước hết, ngay từ đầu thập niên 1980 đã chứng kiến
cái sau này gọi là đại dịch AIDS, một ví dụ về loại vấn đề chuyển biến rất
nhanh vượt mọi biên giới và không thể ngăn chặn được (Engel, 2006). Chủ nghĩa
tư bản toàn cầu dưới hình thái các công ty đa quốc gia thúc đẩy những dạng bóc
lột mới phi nhân tính như đã từng tồn tại trong thời kỳ công nghiệp ban đầu (N.
Klein, 2000). Dĩ nhiên, chúng ta không còn sống trong thời kỳ công nghiệp nữa
mà đã ở thời kỳ thông tin, hậu công nghiệp, trong một nền kinh tế đặc trưng bởi
sản xuất tri thức và dịch vụ chứ không phải bởi chế tác vật phẩm (Kumar, 1995).
Một lối suy nghĩ hoàn toàn mới về văn hóa và xã hội gọi là chủ nghĩa hậu hiện
đại hay tính hậu hiện đại (postmodernism, postmodernity) không có tính địa điểm
(dislocation, a sense of ultimate placelessness), xuất hiện ở chân trời và ảnh
hưởng rất mạnh đến tư tưởng trong khoa học xã hội, nhân văn và nghệ thuật từ
đầu thập niên 1990 (Harvey, 2004). Cảnh báo về môi trường đang lờ mờ sụp đổ
không phải là điều mới mẻ, ta đã biết trong Báo cáo của Câu lạc bộ Rome năm 1972
The Limits to Growth (Những
giới hạn của tăng trưởng) (Meadows, Meadows, Randers, & Behrens,
1972), thậm chí sớm hơn nữa trong tác phẩm kinh điển của Rachel Carson Silent
Spring (Mùa xuân im lặng) (Carson,
1962). Song, nhận thức cao về mối liên hệ chặt chẽ của môi trường với biến
đổi chính trị xã hội dẫn đến thừa nhận mới về tính dễ tổn thương của trái đất
với tính cách là môi trường (không chỉ bao gồm đất đai mà cả nước và không
khí), đặc biệt về mối đe dọa thảm họa biến đổi khí hậu do hoạt động con người
gây ra. Dự đoán biến đổi khí hậu không chỉ là nguyên nhân tăng nhiệt độ chưa
từng có ảnh hưởng đến nông nghiệp và khả năng sinh sống của con người, mà còn
là nguyên nhân của nước biển dâng và tuyệt chủng hàng loạt.
 |
Basarab Nicolescu (1942-) |
 |
Edgar Morin (1921-) |
Vì thế,
cho dù danh từ và tính từ xuyên ngành
theo ý nghĩa cơ bản bao hàm sự vượt lên khuôn khổ chính thống các bộ môn khoa
học truyền thống đã xuất hiện lần đầu tiên khoảng năm 1970, song hơn hai thập
niên sau đó chưa có điều kiện để xuyên ngành hiện diện (xem Kessel &
Rosenfield, 2008). Tính bền vững và khủng hoảng môi trường toàn cầu đã là chủ
đề nóng đẩy khái niệm xuyên ngành cho đến khi ấy còn ít được sử dụng lên phía
trước trong các cuộc tranh luận về khoa học và kế hoạch hóa. Là người đối thoại
chủ chốt trong tranh luận về những kết hợp mới giữa các bộ môn trong giáo dục, Julie
Thompson Klein (2001) minh định Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc về Trái Đất
diễn ra ở Rio de Janeiro năm 1992 là bước ngoặt nhận thức về nhu cầu hành động
trong các cộng đồng hàn lâm và khoa học. Ngay sau đó, năm 1994, Hội nghị Xuyên
ngành Thế giới lần thứ nhất diễn ra ở Convento da Arrábida, Bồ Đào Nha, thông
qua Hiến chương Xuyên ngành (Charter of Transdisciplinarity), do nhà vật lý lý
thuyết người Romania Basarab Nicolescu cùng với nghệ sĩ Bồ Đào Nha Lima de
Freitas và nhà xuyên ngành người Pháp Edgar Morin dự thảo (de Freitas, Morin,
& Nicolescu, 1994). Quan điểm của Nicolescu thể hiện rõ trong Hiến chương,
và ông đóng vai trò lãnh đạo trong việc phát triển một lý thuyết và chương
trình về xuyên ngành.
Trong Hiến
chương cũng như trong các ấn phẩm khác, Nicolescu (chẳng hạn 2002, 2010) minh
định xuyên ngành là sự bổ sung cho các tiếp cận theo ngành. Khái niệm xuyên
ngành của ông tập trung vào tính phức tạp (complexity) như là một đặc điểm nền
tảng của hiện thực, vào tiền đề của các cấp độ và lát cắt khác nhau của hiện
thực, và vào cái mà ông gọi là logic của included middle, một thách
thức lại tiên đề của Aristotle về excluded middle. Với gợi ý về
logic thách thức đó, theo tinh thần cơ học lượng tử, Nicolescu muốn các nhà
khoa học “tư duy lại” về sự tách biệt tuyệt đối trong truyền thống giữa chủ thể
và đối tượng (subject and object) (Nicolescu, 2010). Quan điểm xuyên ngành của Nicolescu
tỏ ra có khả năng áp dụng vào thống nhất các ngành nhân văn, gồm những ngành
như tôn giáo và triết học tri thức và giáo dục, với các ngành khoa học vật lý
làm việc trong phòng thí nghiệm hay quan sát không gian. Như Sue McGregor giải
thích, Nicolescu quan tâm đến ý nghĩa của việc vượt lên khỏi các chuyên ngành
và khẳng định “xuyên ngành đồng nhất với một dạng tri thức mới về cái ở giữa, xuyên chéo, và vượt trên các bộ
môn (ý nghĩa của xuyên)” (McGregor,
2015b, “Nicolescuian Approach to Transdisciplinarity”).[5] Ông cũng
thúc giục các học giả vượt lên khỏi tâm thức phân đôi hoặc này hoặc kia (either/or mentality), mà theo ông,
đã gây ra rất nhiều tai họa cho con người.

Đúng vào
năm diễn ra Hội nghị Xuyên ngành Thế giới lần thứ nhất, một dự án khác xuất
hiện có tiếp cận hơi khác với xuyên ngành. Cuốn sách The New Production of
Knowledge (Sản xuất mới tri thức) (Gibbons và cộng sự, 1994), cũng
có ảnh hưởng nhiều như khung lý thuyết ngầm ẩn của Nicolescu, nhưng thể hiện
một quan điểm và chương trình khác về xuyên ngành. Các tác giả Michael Gibbons,
Camille Limoges, Helga Nowotny, Simon Schwartzman, Peter Scott, và Martin Trow,
có lý lịch chuyên môn trong khoa học xã hội và chính sách, nên kết nối vấn đề
với khoa học, công nghệ, và giáo dục hơn là với các khoa học cứng hay triết
học. Vì vậy, công trình của họ được xem là có tính thực tiễn trực tiếp hơn là công
trình mang tính lý thuyết và mơ hồ của Nicolescu, mặc dù họ thiếu tầm nhìn xa
trông rộng như Nicolescu. Công trình của họ là hợp tác của một tập thể, bản
thân thực tế này tự nó đã có ý nghĩa. Vì thông điệp của họ liên quan đến hợp
tác giữa các chuyên gia từ nhiều bộ môn khác nhau, dựa trên những dự án đặc thù
vượt khỏi ranh giới các bộ môn. Đóng góp mới của họ là khái niệm sản xuất tri
thức Kiểu 2 (Mode 2 knowledge production), là tri thức phát triển cho một sự áp
dụng đặc thù và liên quan đến công việc của các chuyên gia từ giới hàn lâm, chính
phủ, và công nghiệp. Các tác giả nhấn mạnh, kiểu sản xuất tri thức và giải
quyết vấn đề như thế không chỉ là nghiên cứu và phát triển ứng dụng, cũng không
giới hạn vào khoa học, công nghệ, hay y học, mà còn mở rộng ra các ngành nhân
văn như bảo tàng, kiến trúc, và những cách nghiên cứu dựa trên công nghệ thông
tin.
Sản xuất
tri thức Kiểu 2, mà các tác giả liên kết với xuyên ngành, xuất hiện khi toàn
cầu hóa tăng lên sau Chiến tranh Lạnh. Không đưa ra một triết học về xuyên
ngành như Nicolescu, công trình của Gibbons và cộng sự mang tính mô tả và phân
tích. Nó giúp độc giả hiểu xuyên ngành, và có ảnh hưởng trong việc thúc đẩy xã
hội học khoa học, công nghệ, và giáo dục đại học, cũng như là chính sách trong
các lĩnh vực trên. Công trình ấy (Gibbons và cộng sự, 1994) và công trình nhìn
lại sau đó (Nowotny, Scott, và Gibbons, 2001), có ý nghĩa quan trọng trong cập
nhật định nghĩa và phạm vi xuyên ngành kể từ thời Jantsch và Piaget, đặc biệt
trong phát triển khái niệm quan trọng mới về sản xuất tri thức Kiểu 2 (xem Etzkowitz
& Leydesdorff, 2000). Ngay cả khi ai đó không hoàn toàn đồng ý với lập luận
của Gibbons và cộng sự về sản xuất tri thức Kiểu 2, thì sự kết nối giữa giới
hàn lâm, công nghiệp, chính phủ và phi chính phủ vẫn mang tính nền tảng hiển
nhiên để hiếu về sản xuất tri thức trong thế giới hôm nay. Kiểu tổ chức quan
liêu, chính trị, kinh tế và xã hội mới ấy có ý nghĩa quan trọng trong công
trình của một số nhà xuyên ngành.
Trong
chừng mực nào đó, có thể nói Nicolescu và Gibbons cùng cộng sự đã đẻ ra hai
dòng xuyên ngành khác nhau. Một số tác giả mới làm tổng quan gần đây (Segalàs
& Tejedor, 2013, Augsburg, 2014, McGregor, 2015b) phân biệt hai trường phái
tư tưởng xuyên ngành: trường phái Nicolescu và trường phái Zurich, được nêu tên
sau Hội nghị quốc tế diễn ra ở thành phố này năm 2000 (xem Thompson Klein và
cộng sự, 2001). Trước tác của Nicolescu dẫn đến cách tư duy mới về tri thức và
nghiên cứu, nó bao gồm cả các quan điểm luân lý, siêu hình và thậm chí huyền
thoại nữa (xem Nicolescu, 2008, de Mello, 2008, Voss, 2008). Trong khi trường
phái Zurich nhằm thiết kế và tiến hành những giải pháp hữu hình đối với các vấn
đề trong “thế giới thực” (Segalàs & Tejedor, 2013). Trường phái Nicolescu
nhấn mạnh khái niệm thế giới sống của con người và các ý nghĩa trải nghiệm sống
(theo truyền thống triết học của Edmund Husserl, Martin Heidegger, và Ernst
Cassirer). Còn trường phái Zurich thì ưu tiên tương tác giữa khoa học, xã hội,
và công nghệ trong thế giới đương đại (McGregor, 2015b, xem thêm Augsburg,
2014). Quan sát các tiếp cận xuyên ngành, bản thân Nicolescu (2008, trang
12-13) cũng cho rằng quan điểm của ông là xuyên ngành lý thuyết, còn của Gibbons
và Nowotny là xuyên ngành hiện tượng luận (phenomenological transdisciplinarity),
theo nghĩa tạo nên “những mô hình kết nối các nguyên tắc lý thuyết với dữ liệu
thực nghiệm đã quan sát, để dự đoán những kết quả tiếp theo” (Nicolescu, 2008,
trang 12).[6]
2. NHỮNG VẤN ĐỀ HIỆN NAY TRONG NGHIÊN CỨU XUYÊN NGÀNH
Việc xuất
hiện gần như đồng thời hai luận đề chính về xuyên ngành gây đôi chút ồn ào và
mơ hồ trong giới nghiên cứu và giảng viên. Thông qua một loạt nỗ lực riêng rẽ,
có vẻ như các nhà nghiên cứu đã đồng thuận về vấn đề xuyên ngành là gì. Trước
hết, xuyên ngành là nhìn lại một cách sáng tạo các bộ môn và những khả năng kết
hợp chúng (Castán Broto và cộng sự, 2002; Lawrence & Després, 2004). Trong
khi không cần một sự phân biệt quá chặt hay tuyệt đối giữa xuyên ngành với đa
ngành (tập hợp các đầu ra từ những bộ môn khác nhau mà không có sự tổng hợp), và
với liên ngành (hợp tác giữa các nhà nghiên cứu từ những bộ môn khác nhau nhằm
đạt tới một sự tổng hợp và thống hợp tri thức), thì nhìn chung xuyên ngành từ
chối việc tách biệt và phân phối các chủ đề và tiếp cận hàn lâm vào những ống
“xi lanh” (cilos) chuyên ngành (xem Choi & Pak, 2006 về giải thích và thảo
luận những thuật ngữ trên). Xuyên ngành thách thức toàn bộ khung tư duy chuyên
ngành và cố gắng tập hợp những tiếp cận mới trong cọ xát, sử dụng tài liệu của
các bộ môn đang tồn tại cho những dự định mới.
Nicolescu thường
viết về những cấp độ của hiện thực – tính chủ quan, tính khách quan, và cái mà
ông gọi là “cái thứ ba ẩn giữa chủ thể và đối tượng” (“the hidden third between
the subject and the object”, Nicolescu, 2012). Nicolescu thảo luận về chủ thể
và đối tượng trong nghiên cứu thế giới vật lý, hóa học, và sinh học, nhưng ông
cũng khẳng định khái niệm các cấp độ hiện thực của mình (mà ông cho là khái
niệm then chốt của xuyên ngành) có thể áp dụng vào nghiên cứu xã hội. Một số
nhà khoa học xã hội theo quan điểm diễn giải (interpretive), có lẽ đi theo cách
khiêu khích của Jürgen Habermas, Hans-Georg Gadamer, và Charles Taylor hơn là
theo cách của Nicolescu (xem Rabinow & Sullivan, 1987, Richardson &
Fowers, 1998), đã suy ngẫm về quan hệ giữa những nhà nghiên cứu được cho là
khách quan, tách biệt với những cá nhân hay quần thể được nghiên cứu. Những cân
nhắc ấy đòi hỏi nhà nghiên cứu không chỉ thừa nhận tính chủ quan riêng của mình
mà còn phải đẩy lên trước những câu hỏi về đạo đức đối với quần thể được nghiên
cứu, ở đó có sự khác biệt quyền lực giữa nhà nghiên cứu và khách thể nghiên
cứu. Điều này dẫn đến kết quả nghiên cứu vượt lên kiểu khoa học xã hội diễn
giải chuẩn và trở thành nghiên cứu xuyên ngành theo nghĩa nó đưa khách thể
nghiên cứu tham gia vào nghiên cứu theo cách bình đẳng với nhà nghiên cứu. Tiếp
cận này thể hiện cụ thể trong một dự án dân tộc học và lịch sử tộc người về người
bản địa Alaska. Kết quả của dự án là một cuốn sách và một triển lãm bảo tàng
dựa trên cộng đồng cùng xem xét và phản tư về những giá trị của người Alutiiq,
những người không phải được nghiên cứu như là đối tượng của các chuyên gia mà
cùng chia sẻ sáng tạo nên kết quả nghiên cứu (Crowell và cộng sự, 2001). Kiểu
công trình như thế tạo nên đối thoại giữa các nền văn hóa thiểu số và đa số,
bao gồm những người tham gia từ bên ngoài cộng đồng hàn lâm, và nỗ lực vượt lên
sự phân đôi truyền thống giữa quan điểm khách quan và chủ quan. Giống như một
cuốn sách khác cùng thời, Exotic No More (Không còn lạ nữa) (MacClancey, 2002), nó chỉ ra khả năng của nhân
học, một bộ môn khoa học xã hội chính thống, ít nhất cũng là tiềm ẩn sử dụng
các hệ hình nghiên cứu xuyên ngành đang nổi lên và đóng góp vào văn liệu xuyên
ngành. Gần đây hơn, phương pháp điền dã dân tộc học quan sát tham gia, vốn xuất
xứ từ nhân học văn hóa, đã được các bộ môn khác đón nhận và chấp nhận để có thể
hiểu sâu vào suy nghĩ và thực hành của những người được nghiên cứu. Liên quan
đến sử dụng phương pháp dân tộc học là việc tham gia của các bên liên quan vào
dự án xuyên ngành (Bergmann và cộng sự, 2012, trang 124).
Những
nghiên cứu khác theo đuổi mục đích tạo nên một khoa học dấn thân, có trách
nhiệm xã hội cũng có thể xem là xuyên ngành. Như ta thấy, quan ngại biến đổi
khí hậu toàn cầu đã là tâm điểm tạo nên phong trào nghiên cứu xuyên ngành.
Nhiều người cố gắng xây dựng khoa học về tính bền vững, điều này gắn bó mật
thiết với phong trào xuyên ngành (Brandt và cộng sự, 2013, Hirsch Hadorn và
cộng sự, 2006). Thêm nữa, các mục tiêu nghiên cứu và đào tạo của xuyên ngành
cũng đi đôi với nhau (Evans, 2015). Ý tưởng về tính bền vững tiến hóa từ một
khái niệm thành một phong trào lôi kéo không chỉ khoa học, chính phủ và công
nghiệp, mà cả sự tham gia của người dân, bao gồm các nhà lãnh đạo tôn giáo,
nhận thức của người tiêu dùng, tẩy chay và phản đối, và nhiều nữa (Cardonna,
2014). Với quan ngại về một hành tinh có thể đang hấp hối, nhu cầu phòng ngừa
thảm họa đem lại cảm giác khẩn thiết và chạy đua với thời gian, và đòi hỏi
không chỉ nâng cao nhận thức mà cả thay đổi hành vi. Tina Lynn Evans (2015, trang
72) đã viết về cuộc khủng hoảng bền vững và nghĩ rằng các nhà giáo dục cần định
hình thảo luận của họ về tính bền vững theo nghĩa không chỉ là khoa học mà còn
là đạo đức, bao hàm “sự công bằng liên thế hệ trên một khung thời gian dài và
trên sức khỏe và sự chính trực của các xã hội con người với thế giới tự nhiên”.[7] Tác giả
trích dẫn Michael Crow liệt kê các chủ đề đòi hỏi nhà giáo dục phải có phản
ứng, như đói nghèo, biến đổi khí hậu toàn cầu, tuyệt chủng các loài, khai thác
cạn kiệt tài nguyên, và hủy hoại hệ thống sinh thái.
 |
Horst W. J. Rittel (1930-1990) |
 |
Melvin M. Webber (1920-2006) |
Những vấn
đề như thế cực kỳ phức tạp và có thể mô tả hoàn toàn đúng như là những vấn đề “ác
tính” (wicked) (Brown, Harris, & Russell, 2010), theo nghĩa hơn cả tính khó
chữa trị, chúng thách thức định nghĩa hoàn chỉnh và không thể giải quyết bằng
những cách nghiên cứu và ra quyết định hiện có. Thêm nữa, không thể có giải
pháp cuối cùng cho những vấn đề như thế vì mọi giải pháp đều tạo ra những vấn
đề mới (Brown, Dean, Harris, & Russell, 2010, trang 1-2). Hai nhà lý thuyết
thiết kế Horst W. J. Rittel và Melvin M. Webber (1973) là những người đầu tiên
nhận diện và định nghĩa khái niệm vấn đề ác tính, nó từ chỗ là một điểm thảo
luận trong khoa học chính sách trở thành một tâm điểm trong văn liệu xuyên
ngành gần đây (so sánh McGregor, 2015a, người cũng dùng một thể hiện khác cùng ý
nghĩa, “đống xà bần ác tính” (wicked messes)). Các vấn đề ác tính, bao gồm xung
đột và tính bền vững, nó vượt lên mọi nguồn lực cho tiếp cận đơn ngành thậm chí
tiếp cận liên ngành truyền thống để tìm kiếm giải pháp, những vấn đề đó đã trở
thành nguồn tài liệu hàng đầu trong công tác xuyên ngành đương đại. Đây là
những vấn đề gây áp lực, thậm chí khủng hoảng, di căn đa khu vực hay đa phương
diện, và lôi kéo không chỉ các bộ môn hàn lâm hay tương tác giữa chúng mà cả
các nhà thực tiễn ngoài giới hàn lâm đang cố gắng tìm kiếm giải pháp trong thế
giới thực.
Một số dự
án về những vấn đề ác tính sử dụng đa nhánh nghiên cứu để giải quyết những vấn
đề xã hội đa diện dai dẳng, như tội phạm và nghèo, giáo dục, sức khỏe, vệ sinh,
nhà ở (Lawrence, 2010). Xuyên ngành thường được sử dụng để nghiên cứu và hỗ trợ
giải quyết những vấn đề trong các dự án kết hợp nghiên cứu và hành động về cải
tạo nhà bền vững, tính bền vững và thiết kế đô thị, dự báo nhu cầu nước
(Bergmann và cộng sự, 2012). Xuyên ngành có cả một nhánh trong đó kết hợp
chuyên gia từ nhiều lĩnh vực cùng với các bên tham gia tập trung giải quyết vấn
đề cộng đồng để thúc đẩy thay đổi (Stokols, 2006). Những dự án như vậy nhìn
chung đòi hỏi phân công lao động trong nhóm, gặp gỡ nhau thảo luận về kết quả
và giải pháp đột phá. Trong khi một số nhà bình luận rất ấn tượng về làm việc
nhóm với tính cách là đặc trưng của nghiên cứu xuyên ngành, thì tiếp cận nhóm
chỉ được sử dụng trong một số trường hợp và không phải là bản chất của xuyên
ngành. Cái quan trọng với nhà xuyên ngành độc tấu không làm việc nhóm là khả
năng “hợp nhất tri thức của một loạt bộ môn khác nhau và làm việc với các bên
tham gia trong quá trình sản xuất tri thức” (Wickson, Carew, & Russell,
2006, trang 1052).[8] Những vấn đề ác tính khác rút ra từ những cân nhắc vi tế cần được nhấn
mạnh trong việc đổi mới các giải pháp khoa học và công nghệ trong gen học, cơ
sinh học, công nghệ nano, và cơ điện tử (hợp lưu giữa cơ học và điện tử).
Công nghệ
nano là lĩnh vực trở thành tâm điểm trong lý thuyết và thực tiễn xuyên ngành
(Mittelstrass, 2011). Nó sử dụng hạt để đo lường ở mức phần tỉ mét, đặc biệt ở
mức nguyên tử. Ở quy mô siêu nhỏ ấy, các vật thể mang những đặc tính có ý nghĩa
trong nhiều lĩnh vực, đẩy xa giới hạn hiểu biết của chúng ta về thế giới sống
trong mối quan hệ với vật chất, năng lượng và thông tin. Công nghệ nano xuất
hiện được xem là có hiệu ứng thống nhất lên kinh tế học chính trị của nghiên
cứu khoa học báo hiệu sự xoay trục từ tình trạng chuyên môn hóa thái quá sang
nhiều bộ môn cùng chia sẻ các ứng dụng và tiếp cận (Collins, 2008, trang 364). Những
ứng dụng ấy liên quan đến công nghiệp, sinh y học, và môi trường. Mặc dù các
ứng dụng hiện nay còn rời rạc lặt vặt trong mỹ phẩm, trang phục chống trầy
xước, và cửa sổ tự làm sạch, trong tương lai gần công nghệ nano có khả năng tạo
ra trang phục chiến đấu có thể ngụy trang và hấp thụ đạn, các ứng dụng làm sạch
nhanh và hiệu quả chất thải độc hại và ô nhiễm, các thiết bị chẩn đoán và điều
trị những bệnh ung bướu không phẫu thuật được, tạo ra các “nanobot tự sao chép”
(self-replicating nanobots, Collins, 2008, trang 364). Tiềm năng của công nghệ
nano cho các mục tiêu có ích (trong máy tính và y học) hay hủy diệt (chiến
tranh vi trùng), cho giám sát (điều có thể là tốt hoặc xấu cho xã hội), và cho
nhiều ý đồ khác, khiến nó có tầm quan trọng đối với chính sách công nghệ nano
nhằm tính đến quan ngại và vì lợi ích của toàn thể nhân dân chứ không chỉ vì
lợi ích của các nhà khoa học, công nghệ, giới kinh doanh, công nghiệp hay những
thực thể khác đứng sau công trình nghiên cứu. Có những hệ quả đối với công bằng
xã hội và công ích (Fisher, 2007). Giống biến đổi khí hậu, công nghệ nano có rủi
ro cao đối với sức khỏe và an toàn đến mức mà chính sách toàn cầu vượt quá lợi
ích của bất kỳ nhóm nào cần được lắng nghe và cân nhắc (Hook, 2004). Giới khoa
học nhận thức được rằng những cân nhắc rủi ro, luân lý và công bằng xã hội phải
đi trước sự phát triển của công nghệ nano chứ không phải theo đuôi, sau những
thiệt hại không thể cứu vãn được.
Hiểu, phát
triển và kế hoạch hóa chính sách công nghệ nano phải nắm bắt được ý nghĩa của
tính phức tạp (complexity) và tính hỗn độn (intricacy) của các vấn đề trong
khoa học đương đại. Đôi khi xuyên ngành được mô tả như là phản ứng với tính
phức tạp ngày càng tăng của các vấn đề đương đại trong khoa học và công nghệ. Thực
sự, bản thân tính phức tạp cũng có thể là một trường vấn đề của nghiên cứu
xuyên ngành (Cilliers, 1998; xem thêm Waldrop, 1992 trình bày lịch sử của khoa
học về tính phức tạp). Tính phức tạp (complexity) không hoàn toàn đồng nghĩa
với sự phức hợp (complicatedness), vì có thể hiểu được một hệ thống phức hợp (complicated
system) theo nghĩa các thành phần hợp nên hệ thống ấy, trong khi ở một hệ thống
phức tạp (complex system) thì các thành phần của nó tương tác với nhau và với
môi trường theo cách mà với tính cách là một tổng thể hệ thống ấy không thể
giải thích được bằng các thành phần của nó.
Một đặc
tính của các hệ thống phức tạp là tính nổi lên (emergence), theo nghĩa tổng thể
lớn hơn tổng mọi thành tố. Tính ướt (wetness) của nước cung cấp một cách giải
thích dễ hiểu về tính nổi lên. Theo cách nói của John Holland (2014, trang 49),
“đặc điểm ‘ướt’ không thể quy giản một cách có lý về các phân tử cụ thể, ta thấy
nước không thể có được tính ướt bằng cách gộp tính ướt của các phần tử tạo nên H2O
– tính ướt nổi lên từ tương tác giữa các phần tử”.[9] Vì thế, khái niệm “nổi lên” (emergence) có thể là bổ ích để giải thích
bản thân xuyên ngành, vì “thông tin, dữ liệu, lý thuyết và phương pháp luận của
các bộ môn khác nhau được đem vào quá trình nghiên cứu xuyên ngành và kết hợp
với nhau để tạo ra cái mới mà không thể quy giản về những cái mà các bộ môn
thành phần đóng góp vào trước đó” (Leavy, 2011, trang 31).[10] Leavy minh
định xuyên ngành gắn với sự nổi lên, cho rằng “Ý tưởng về tính nổi lên nói đến
phần thực tiễn nghiên cứu không có trong kế hoạch, khi những con đường bất ngờ
xuất hiện, và khi những hiểu biết mới lộ diện” (Leavy, 2011, trang 32).[11]
 |
Julie Thompson Klein |
Một đặc
điểm cuối cùng của xuyên ngành, có hàm ý bên trên, là khuynh hướng nghĩ lệch,
tưởng tượng và sáng tạo, không chỉ trong các giải pháp cho vấn đề mà cả trong
việc kết hợp các yếu tố cần cân nhắc. Đóng góp của nghệ thuật và nhân văn có
thể khiến nghiên cứu và đào tạo trong vấn đề bền vững hoặc trong các chủ đề
khác vốn được xem là của khoa học, chuyển biến thành một kiểu sản phẩm hoàn
toàn mới (Clark & Button, 2011). Sự thúc đẩy tái kết hợp các bộ môn thành
tố hiện có theo một cách thức sáng tạo ám chỉ cái mà Julie Thompson Klein
(2015) gọi là “diễn ngôn của sự đột phá” (discourse of transgression) cái ngầm
ẩn trong nhiều nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn gần đây. Vì thế, nhà
nghiên cứu xuyên ngành thường xuyên phải đồng hành với những nghịch lý không
thể giải quyết, theo Wickson, Carew, và Russell (2006. trang 1054). Như Tanya
Augsburg nhận diện (2014, trang 240), một số đặc điểm đáng mong muốn ở người
muốn trở thành nhà xuyên ngành là khả năng nghĩ theo cách phức tạp, kết nối, và
chấp nhận nỗi đau khi rời bỏ vùng trí tuệ thoải mái để làm việc ở bên ngoài bộ
môn quen thuộc của mình và theo những cách tư duy và hành động mới. Dĩ nhiên, chỉ
tính đột phá thôi là chưa đủ để nghiên cứu hàn lâm trở thành xuyên ngành. Song,
đối diện với những vấn đề ác tính, xuyên ngành kết hợp diễn ngôn đột phá với
giải pháp cho vấn đề, “đột phá khỏi những mặc định quy giản về cách mà sự vật
liên hệ với nhau, cách các hệ thống vận hành, và từ bỏ kỳ vọng rằng khoa học sẽ
cung cấp một giải pháp ‘tốt nhất’ duy nhất hoặc sẽ có câu trả lời chung cuộc”
(Klein, 2015, trang 14).[12] Mô tả nói trên về bản chất của
nghiên cứu xuyên ngành cho ta thấy tiềm ẩn sự thất vọng và nỗi đau cũng như cả
niềm hứng khởi khi nhìn sự vật theo cách mới mẻ.
3. XUYÊN NGÀNH VÀ SỰ THỐNG HỢP TRI THỨC
Các nhà lý
thuyết xuyên ngành thường nói thống hợp tri thức là một mục tiêu của xuyên
ngành. Chẳng hạn, Burger và Kamber (2003) viết về sự thống hợp tri thức ở cấp
độ vấn đề, nghiên cứu, và giải pháp. Trong tình trạng trừu tượng cao ở những
thảo luận như thế, khó mà hiểu rõ sự thống hợp tri thức vận hành như thế nào
trong thực tiễn. Vì vậy, một vài ví dụ có thể giúp ta giải thích những khả năng
thống hợp tri thức xuyên ngành.
Nước là
một chủ đề trong nhiều ngành khoa học khác nhau, rất dễ bị nhà nghiên cứu bỏ
qua hoặc xem là hiển nhiên. Vì bề ngoài, nước là cái gì đó trung tính: một đặc
điểm của cảnh quan, là cái gì đó mà động vật và thực vật vẫn hấp thụ hoặc dùng
với những vật chất khác, là cái gì đó khiến mọi việc diễn ra được, nhưng vẻ như
nó chả có tính chất riêng gì của mình, ngay cả khi sự sống không thể tồn tại mà
không có nước. Nó có một nền tảng hóa học và có thể nghiên cứu từ góc độ hóa
học hay vật lý (thủy lợi và thủy học, hydraulics and hydrology). Nó cũng quan
trọng trong công nghệ, xây dựng, chế tác, và không kém quan trọng trong nghệ
thuật ẩm thực. Không thể nào có đồ ăn thức uống nếu không có nước. Nó là một
thành tố trong dinh dưỡng, tiêu hóa, sinh lý học, và sức khỏe; có những khía
cạnh vệ sinh và mức tinh khiết trong sử dụng nước và có nước trong môi trường
chúng ta. Nước có những khía cạnh văn hóa và tôn giáo và là chủ đề trong mọi
nghệ thuật. Với tính cách là một nguồn tài nguyên, nước là đối tượng nghiên cứu
của địa lý học, địa chất học, kinh tế học và khoa nông nghiệp. Hiển nhiên, tính
bền vững của nước với tính cách là nguồn lực là một chủ đề, hệt như trong vấn
đề chất thải chai nước đóng gói dùng một lần (Royte, 2008). Cũng có khía cạnh
chính trị của nước với tính cách là nguồn tài nguyên, thiếu nước có thể gây ra
nạn đói, chiến tranh, cách mạng hoặc những biến đổi chính trị xã hội sâu rộng
khác. Ta có thể kể ra vô số khía cạnh của nước cần nghiên cứu. Những câu hỏi về
nước kết nối khoa học xã hội, nhân văn, vật lý học, sinh học, và các ngành nghệ
thuật và khoa học thực tiễn theo cách có thể soi sáng cho những mục tiêu giáo
dục về tương tác giữa các bộ môn.
 |
Johann Tempelhoff |
Nhưng công
trình về nước của nhà sử học Nam Phi Johann Tempelhoff chứng tỏ xuyên ngành còn
có thể dẫn đến những kết nối vi tế và đáng ngạc nhiên hơn nữa. Khi nghiên cứu
phản ứng của cộng đồng đối với nguồn cung nước địa phương bị ô nhiễm, ông và
đội nghiên cứu của mình được soi sáng đặc biệt rõ về những vấn đề môi trường và
xã hội phức tạp trong dự án khi nghe nhạc – không phải bất kỳ nhạc nào mà cụ
thể là bài hát của Simon và Garfunkel, The Sounds of Silence (Âm thanh của sự câm lặng), mà nghệ sĩ nhạc
jazz Mỹ Pat Metheny chơi trên cây đàn guitar 42 dây (Tempelhoff, 2013).
Tempelhoff đặt âm nhạc (bao gồm khía cạnh hiện tượng học và trị liệu), cạnh các
vấn đề môi trường và nguồn tài nguyên, sự tham gia của công dân, và nghiên cứu
khoa học và công nghệ ứng dụng vào nước, việc đặt cạnh nhau như thế đem đến một
cách nghĩ xuyên ngành hoàn toàn mới lạ về tình hình. Ông viết, âm nhạc khiến
nhà nghiên cứu cảm nhận được “hiệu ứng thầm lặng nhưng đầy dấu ấn” (“profoundly
silent but marked effect”) mà hệ thống thủy sản áp lên không chỉ người dân sống
dựa trên nó mà cả lên “mạng lưới thiết bị không phải con người”. Nó giúp họ
nhìn sâu được vào sự phục hồi tinh thần con người trong những hoàn cảnh khó
khăn và khổ đau (Tempelhoff, 2013, trang 372).
Nghiên cứu
của Tempelhoff thể hiện một khuynh hướng đặc thù trong xuyên ngành, định vị và
phân tích những kết nối không thể hoài nghi giữa những cấp độ hiện thực và
phương thức phân tích. Nó bao gồm khoa học xã hội, khoa học môi trường và trái
đất, y tế công cộng, tâm lý học nhân văn, và các khía cạnh âm nhạc. Tuy có tính
đặc thù và cá biệt cao, một nghiên cứu kiểu như thế có thể phục vụ đắc lực cho
nhà giáo dục như là một mô hình mang tính đổi mới có thể làm bật lên những kết
nối bị ẩn giấu trong lối nghiên cứu chuyên ngành chính thống.
 |
Søren Brier (1951-) |
Do đó, vấn
đề tri thức với tính cách là nền tảng của văn minh và cơ sở của giao tiếp cả
bên trong lẫn bên ngoài hàn lâm có thể cung cấp một điểm xuất phát cho một quan
điểm xuyên ngành để thống nhất nhân văn, khoa học xã hội, các khoa học vật lý,
sinh học, tâm lý học, và nhiều lĩnh vực nữa, nhằm tạo ra một tiếp cận tươi mới
và liên kết đối với tri thức, như Søren Brier mới biện hộ gần đây (2009; xem
thêm Bernstein, 2014). Với tính cách một lĩnh vực kết hợp mọi môn học trong bối
cảnh dạy và học có tổ chức, giáo dục và đào tạo phải diễn tiến theo một viễn
tượng như vậy. Những tiếp cận mới đây đối với giảng dạy và thực tiễn hành chính
và quản lý kinh doanh cũng đề cao quản lý tri thức và học hỏi có tổ chức (O’Dell
& Hubert, 2011). Tái khái niệm hóa tri thức trong kỷ nguyên thị trường toàn
cầu, đặc biệt theo nghĩa tri thức được sản xuất như thế nào, vốn đã có trong
những luận đề xuyên ngành đầu tiên, bao gồm luận đề của Gibbons và cộng sự
(1994), rồi được làm nổi bật hơn trong những luận đề mới đây. Những luận đề ấy
khẳng định sự cần thiết phải có một khung khái niệm hậu nhận thức luận mới (post-epistemological
conceptual framework) để hiểu được tri thức, bởi vì các hoàn cảnh vốn được các
nhà nhận thức luận truyền thống xem là đương nhiên thì không còn có thể áp dụng
vào môi trường tân tự do, hậu hiện đại, toàn cầu hóa, nối mạng trong thế giới
ngày nay được nữa (Allen, 2004, Harris, 2009, Weinberger, 2011). Theo López-Huertas,
hậu nhận thức luận (Post-epistemology) và xuyên ngành cùng chia sẻ một số đặc điểm
sau: a) nhạy cảm với yêu cầu xã hội và phúc lợi xã hội; b) sự trỗi dậy trở lại
của khách thể (subject) như là một phản ứng với ... các tư tưởng cổ điển về
khách thể và về tri thức (vật hóa khách thể và tri thức); và c) phê phán đối
với cách khái niệm hóa tự nhiên và thế giới thực (López-Huertas, 2013, trang
403).
 |
David Hakken |
Trong cuốn
sách của mình, The Knowledge Landscapes of Cyberspace (Cảnh quan Tri thức của Không gian mạng),
David Hakken (2003) là người tiên phong trong nghiên cứu về thực tiễn tri thức
trong thế giới ảo, sử dụng tiếp cận xuyên ngành mặc dù không dùng từ đó
(Bernstein, 2014). Có thể nhìn thấy một tiếp cận xuyên ngành đối với thực tiễn
tri thức trong công trình mới đây của Barbara E. Truman (2013) nghiên cứu các
môi trường hợp tác, mô phỏng, ảo trên mạng như Second Life và các trò chơi đóng
vai trò (role-playing games) như Minecraft, Eve Online, và World of Warcraft. Dự
án nghiên cứu ấy kết hợp những kỹ thuật dân tộc học tiên tiến trong cộng đồng
mạng và thăm dò bảng hỏi về thực tiễn tri thức liên quan đến quản trị kinh
doanh, lãnh đạo, nghiên cứu tổ chức, nghiên cứu thời gian rỗi, xã hội học, tâm
lý học xã hội, nghiên cứu vận hành (operations research), tâm lý học giáo dục,
nghiên cứu truyền thông, nghiên cứu khoa học và công nghệ, và triết học. Kiểu
công trình đó đáp ứng nhu cầu tìm hiểu việc kiến tạo và sử dụng các bản sắc hỗn
hợp được trung giới qua những hình ảnh đại diện (avatars) trong điều kiện hậu
nhận thức luận.
Xuyên
ngành nổi lên cuối thế kỷ XX để đáp trả một loạt quan ngại đối với những cạm
bẫy của tình trạng chuyên ngành hóa và phân chia hóa tri thức, đối với nền kinh
tế toàn cầu hóa, đối với sự dịch chuyển trung tâm sản xuất tri thức, đạo đức
nghiên cứu, và khủng hoảng môi trường. Nó hơn là một sự phê phán tính đơn ngành
và đã được thừa nhận là một phương cách nghiên cứu áp dụng vào các vấn đề trong
thế giới thực, những vấn đề không chỉ đòi hỏi phải được hiểu theo những cách
thức mới mà còn yêu cầu những giải pháp thực tiễn. Với các nhà xuyên ngành quan
tâm đến công bằng, tính bền vững, và chấm dứt nạn nghèo, chiến tranh, diệt
chủng, nạn đói, hoặc những vấn đề ác tính khác, thì các giải pháp lý thuyết là
không đủ, ngay cả khi họ nhận ra rằng các vấn đề ác tính ấy theo định nghĩa là
không thể giải quyết được. Nhưng xuyên ngành không nhất thiết phải có tính ứng
dụng và thực tiễn. Những người quan tâm đến ích lợi giáo dục của xuyên ngành
như Roderick Macdonald (2000, trang 244), lập luận rằng “xuyên ngành cũng hệt như
nghệ thuật tự do, chủ nghĩa biểu trưng văn hóa, như cái gọi là khoa học xã hội
và khoa học tự nhiên, hay như những nghề như y học, xây dựng, hay luật”. Cái
khiến xuyên ngành khác với những tiếp cận khác và cái đảm bảo vai trò của nó
trong giáo dục thế kỷ XXI là việc nó thừa nhận và tập trung vào tính phức tạp
cố hữu của hiện thực. Điều ấy được tính đến khi người ta xem xét một vấn đề hay
một hiện tượng theo lối đa góc độ và đa chiều cạnh, với một cái nhìn hướng đến
“phát hiện ra những kết nối ẩn ngầm giữa các bộ môn khác nhau” (Madni, 2007,
trang 3).[13]
Công trình
của Tempelhoff (2013) làm sáng tỏ ý nghĩa của khó khăn và khủng hoảng bằng cách
phản tư trên một bản nhạc rock cổ điển được viết lại cho đàn guitar 42 dây diễn
tấu. Công trình ấy là một biểu tượng về hệ hình xuyên ngành (transdisciplinary
paradigm) theo nghĩa không như đàn guitar chuẩn sáu dây có một bộ dây và một
cần đàn (fingerboard), cây guitar 42 dây có ba cần đàn và bốn bộ dây (bộ dây
không căng trên cần đàn được gảy như ở đàn harp hay lyre). Không giống như trải
nghiệm nghe chơi nhạc trên guitar thông thường, trải nghiệm biểu diễn trên một
nhạc cụ ở cả cấp độ nghe và nhìn có thể gợi nên ý nghĩa đa chiều kích giống như
nhận thức về tính đa cấp độ của hiện thực mà Nicolescu mô tả (2012). Bản nhạc
phải vọng lại bản gốc, và phân tích của Tempelhoff về nó phải tính đến không
chỉ trải nghiệm chủ quan riêng của mình khi nghe bài hát, mà ít nhất cũng phải
tính đến trải nghiệm và cảm giác của các thành viên đội nghiên cứu và cộng
đồng, rồi sau đó phải kết nối mọi thứ trở lại với dự án cung cấp nước địa
phương và nguồn nước mà cộng đồng sống dựa trên nó. Đóng góp mới lạ của xuyên
ngành dựa trên việc sử dụng tính phức tạp đa phương diện để phân tích các vấn
đề, truyền thông và dạy các bài học về chúng.
Bùi Thế Cường dịch
CHÚ THÍCH
Bản dịch
là một sản phẩm của Dự án “Thúc đẩy Mạng lưới Tri thức Đa phương Nghiên
cứu Xuyên ngành Ứng phó với Thách thức Toàn cầu” (Fostering Multi-lateral
Knowledge Networks of Transdisciplinary Studies to Tackle Global Challenges.
KNOTS. Mã số: 574069-EPP-1-2016-1-AT-EPPKA2-CBHE-JP). Nguyên tác: Bernstein,
J. H. (2015). Transdisciplinarity: A review of its origins, development, and
current issues. Journal
of Research Practice, 11(1),
Article R1. Retrieved from http://jrp.icaap.org/index.php/jrp/article/view/510/412. Người dịch
và Tạp chí Khoa học xã hội TPHCM cảm ơn Ban Biên tập Journal of Research Practice cho phép
dịch và công bố ở Việt Nam. Do khuôn khổ hạn chế của tạp chí, độc giả xem mục
tài liệu tham khảo ở nguyên bản tiếng Anh tại website trên.
[1] “higher stage succeeding interdisciplinary relationships . . . which would not only cover interactions or reciprocities between specialised research projects, but would place these relationships within a total system without any firm boundaries between disciplines” (Piaget, 1972, trang 138).↩
[2] “the co-ordination of all disciplines and interdisciplines in the education/innovation system on the basis of a generalized axiomatics (introduced from the purposive level down) and an emerging epistemological (‘synepistemic’) pattern” (Jantsch, 1972a, trang 106).↩
[3] “Transdisciplinary inquiry would be characterized by a common orientation to transcend disciplinary boundaries and an attempt to bring continuity to inquiry and knowledge. Other characteristics would be: attention to comprehensiveness, context and frame of reference of inquiry and knowledge; interpenetration of boundaries between concepts and disciplines; exposing disciplinary boundaries to facilitate understanding of implicit assumptions, processes of inquiry, and resulting knowledge; humanistic reverence for life and human dignity; desire to actively apply knowledge to the betterment of man and society” (Mahan, 1970, trang 194-195).↩
[4] “scientific work done by a group of scientists . . . with the intention of systematically pursuing the problem of how the negative side effects of specialization can be overcome so as to make education (and research) more socially relevant” (Kockelmans, 1979, trang 128).↩
[5] “transdisciplinarity identifies with a new knowledge about what is between, across, and beyond disciplines (the meaning of trans)” (McGregor, 2015b, “Nicolescuian Approach to Transdisciplinarity”).↩
[6] “models connecting the theoretical principles with the already observed experimental data, in order to predict further results” (Nicolescu, 2008, trang 12).↩
[7] “intergenerational fairness extending over long time frames and on the health and integrity of human societies and the natural world” (Tina Lynn Evans, 2015, trang 72).↩
[8] “to fuse knowledge from a number of different disciplines and engage with stakeholders in the process of generating knowledge” (Wickson, Carew, & Russell, 2006, trang 1052).↩
[9] “the characteristic of ‘wetness’ cannot reasonably be assigned to individual molecules, so we see that the wetness of water is not obtained by summing up the wetness of the constituent H2O molecules— wetness emerges from the interactions between the molecules” (John Holland, 2014, trang 49).↩
[10] “information, data, theories, and methodologies from multiple disciplinary viewpoints are brought into the [transdisciplinary research] process and are . . . combined in order to create something new that is irreducible to the disciplinary components that were initially brought to bear” (Leavy, 2011, trang 31).↩
[11] “The idea of emergence speaks to the part of research practice that is unplanned, when unexpected pathways come into view, and when new insights are unearthed” (Leavy, 2011, trang 32).↩
[12] “breaking free of reductionist assumptions about the way things are related, how systems operate, and the expectation that science delivers a single ‘best’ solution or final answers” (Klein, 2015, trang 14).↩
[13] “transdisciplinarity is as much about the liberal arts, and about cultural symbolisms, as it is about the so-called social and natural sciences, or professions like medicine, engineering, or law”; “discovering hidden connections between different disciplines” (Madni, 2007, trang 3).↩