NGUỒN GỐC PHÉP BIỆN CHỨNG (KỲ 3)
(Nguyễn Thị Minh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, trích dịch từ “Main Currents of Marxism” của Leszek Kolakowski, bản dịch tiếng Anh của P. S. Falla, Clarendon Press, Oxford 1978.
MỤC LỤC KỲ 1
1. Sự bất tất của hiện hữu người
2. Sự tự cứu độ của Plotinus
3. Plotinus và thuyết Plato mang màu sắc Kito giáo. Một sự truy tầm lý tính sáng tạo
MỤC LỤC KỲ 2
4. Eriugena và thần hệ Kito giáo
5. Eckhart và phép biện chứng của sự thánh hóa
6. Nicholas of Cusa. Những mâu thuẫn của Tồn tại Tuyệt đối
![]() |
![]() |
MỤC LỤC KỲ 3
7. Boehme và tính nhị nguyên của Tồn tại
8. Angelus Silesius và Fénelon: cứu rỗi thông qua hư vô hóa
9. Thời Khai minh. Sự hiện thực hóa của con người trong sơ đồ của chủ nghĩa tự nhiên
10. Rousseau và Hume. Phá hủy niềm tin vào sự hòa điệu tự nhiên
MỤC LỤC KỲ 4
11. Kant. Tính nhị nguyên của tồn tại người, và giải pháp cho điều ấy
12. Fichte và sự tự chinh phục của tinh thần
13. Hegel. Tiến trình của ý thức hướng đến cái Tuyệt đối
* * *
7. Boehme và tính nhị nguyên của Tồn tại
- Sự mâu thuẫn, hay đúng hơn là đối kháng được quan niệm như một phạm trù bản thể học lần đầu tiên xuất hiện trong các trước tác của Bohme, giống như một đám mây nặng hơi nước, xoáy tít, song đã mở ra một chương mới trong lịch sử phép biện chứng. Bức tranh thế giới như một cảnh tượng xung đột vũ trụ giữa các lực lượng đối địch tất nhiên là một hình ảnh truyền thống, và tái xuất hiện lúc này lúc khác trong các phiên bản khác nhau của thần học Mani giáo. Nhưng việc cho toàn bộ hiện thực là một bãi chiến trường giữa các lực lượng đối lập là một chuyện, còn quy xung đột thành sự rạn nứt trong một cái Tuyệt đối duy nhất là một chuyện khác.
- Các tác phẩm mang tính thấu thị của Boehme là sự tiếp tục của thuyết Plato có tác động ở những nhà bất đồng phiếm thần luận của thời Cải cách tôn giáo và, giống như trong trường hợp của Franck và Weigel, nhiều ý tưởng lặp lại bằng ngôn ngữ khác được tìm thấy từ Eckhart và Thần học Đức (Theologia germanica). Bên trong trường phái này Bohme là một người phát kiến. Đi theo truyền thống của các nhà giả kim thuật, ông xem thế giới hữu hình như một tập hợp các kí hiệu khả giác và khả đọc tiết lộ những hiện thực vô hình, nhưng từ quan điểm của ông, sự tiết lộ này là một phương tiện tất yếu nhờ đó Thượng Đế ngoại hiện hóa và tỏ lộ chính mình. “Bậc hành giả bất diệt kiếm tìm bản ngã và phát hiện ra chính mình” nhân đôi chính mình, có thể nói, và hiện lên từ một trạng thái bất động bất phân biệt để trở thành Thiên Chúa đích thực. Vì thế ta thấy trong ý niệm về thần tính của Boehme cũng một sự hàm hồ như trong các trước tác của Eckhart, và vọng âm hai hiện thể đầu tiên của Plotinus. Thiên Chúa khai mở là Thiên Chúa đã tự chuyển hóa trong sự sáng tạo, nhưng ngài chỉ có thể làm như vậy theo cách là cái thống nhất thực sự trong ngài xuất hiện dưới lớp vỏ của các lực đối lập giữa ánh sáng và bóng tối. “Trong ánh sáng, lực này là ngọn lửa của tình yêu thần linh; trong bóng tối nó là ngọn lửa của cơn thịnh nộ của Thượng Đế, nhưng chỉ có một ngọn lửa. Nó tự chia tách mình thành hai nguyên lý, để một cái đi đến biểu lộ ra trong cái kia. Vì ngọn lửa thịnh nộ là biểu hiện của tình yêu lớn lao: ta nhận ra ánh sáng trong bóng tối, nếu không thì ánh sáng không thể được nhận ra” (Mysterium magnum, viii. 27). Bằng cách hiện lên từ trong đơn độc và vượt quá những ranh giới của mình trong quá trình tìm kiếm chính mình, Thượng Đế tất yếu sáng tạo ra một thế giới chia biệt trong đó các phẩm tính chỉ có thể được hiện thực hóa nhờ những cái đối lập của nó. Bohme chủ yếu suy nghĩ về sự đối kháng nội tại nảy sinh trong linh hồn con người bởi những ham muốn trái ngược. Màn kịch thiết yếu của sáng tạo diễn ra trong cá nhân bị giằng xé bởi các lực đối lập nhau. Ngôi nhà đích thực của linh hồn là ở trong Thượng Đế, người đã gieo vào linh hồn mầm mống của ân sủng, nhưng đồng thời linh hồn đó cũng tha thiết theo đúng ý chí của riêng mình. Vì thế không có sự trở về với Thiên Chúa mà không có xung đột nội tại, bằng con đường tự phủ nhận, cuối cùng khao khát hòa hợp chế ngự được thôi thúc hướng về tự khẳng định.
- Thuyết thần trí của Boehme, có thể nói, là một sự tự thức nhận bí hiểm về nghịch lý trung tâm cố hữu trong ý tưởng về một Hữu thể tuyệt đối sáng tạo nên một thế giới hữu hạn: thế giới hữu hạn vừa là sự thể hiện ra vừa là sự phủ nhận đấng sáng tạo của nó, và nó không thể là cái này mà không có cái kia. Trong chừng mực linh hồn tuyệt đối lựa chọn trở nên hiển hiện, nó chắc chắn mâu thuẫn với chính mình. Thế giới của những tồn tại hữu hạn, được tạo ra bởi sự nhất thể của nguồn cội của nó, không thể hoàn toàn chống lại lực thúc đẩy nó quay trở lại với nguồn gốc; song, khi nó đã hiện hữu, nó cũng không thể nào trốn thoát khỏi sự thôi thúc khẳng định chính mình trong tính hữu hạn của mình. Trong thuyết thần trí của Bohme, xung đột này lần đầu tiên hiện ra một cách rõ ràng như là sự đối kháng của hai năng lượng vũ trụ xuất hiện từ sự chia rẽ trong động lực ban sơ của sáng tạo.
8. Angelus Silesius và Fénelon: cứu rỗi thông qua hư vô hóa
- Phép biện chứng của sự tự giới hạn của Thiên Chúa và ý tưởng về sự không tự đồng nhất của Tồn tại con người tái xuất hiện trong suốt các
Angelus Silesius (1624-1677)
- Tuy nhiên, ta không cần phải kéo dài những ví dụ một cách quá mức. Chủ đề về sự bất tất của con người được tìm thấy trong tất cả các tác phẩm văn tịch phiếm thần và thư tịch huyền học, dù đó là Công giáo, Tin lành chính thống, hay kể cả những tín hữu không thuộc một giáo phái chính thống nào thì “Ôi Chúa ơi, tôi không phải là cái tồn tại”, Fenelon viết:
Chao ôi! Tôi hầu như là cái không là. Tôi tự thấy mình như một điểm trung gian không thể lĩnh hội được giữa hư vô và hiện hữu; tôi là cái đã là và là cái sẽ là, tôi là người không còn là người đã là và chưa phải là người sẽ là; và trong trạng thái lơ lửng đó tôi là gì – một thứ, tôi không biết là gì, cái không thể được bao gồm trong chính nó, không có sự ổn định và trôi chảy như nước; một thứ, tôi không biết là gì, cái tôi không thể nắm bắt và trượt qua những ngón tay tôi, cái không còn ở đây khi tôi cố sức nắm bắt nó hay thoáng thấy nó; một thứ, tôi không biết là gì, cái không còn hiện hữu ngay cả khi nó hiện hữu, để rồi không bao giờ có một khoảnh khắc tôi thấy chính mình trong một trạng thái ổn định hay hiện diện trước chính mình theo một cách thức mà tôi có thể đơn thuần nói “Tôi là” (Traite de l’existence et des attributs de Dieu, Ceuvres, 1820, i. 253-4)
![]() |
Nhà huyền học Hà Lan không thuộc giáo phái nào, Jakob Bril (Alle de Werken…, 1795, trang 534) tuyên bố rằng “Tất cả mọi vật trong tự nhiên đều là cái chúng là trừ con người, loài tự cho mình không phải là cái mà anh ta là; vì anh ta tự hình dung mình là một cái gì đó khi anh ta không là. Mọi vật đều là cái chúng là, không phải tự trong bản thân chúng mà trong đấng sáng tạo ra chúng; con người hình dung mình là một cái gì đó tự mình, nhưng đây chỉ là một suy niệm giả của anh ta”. Quan niệm về con người như một tồn tại bị phân đôi mà hiện hữu đích thực nằm trong Thượng Đế là một quan niệm phổ biến và luôn luôn gắn với niềm hi vọng quay trở lại. Quan điểm cho rằng hiện hữu bất tất là một giai đoạn phủ định trong sự tiến hóa của cái Tuyệt đối bao gồm các tiền đề bổ sung, những điều chỉ có thể thấy trong các trước tác của những người có ý thức đứng bên ngoài tính chính thống tuyên tín (confessional) của những giáo hội lớn hay những người bị gắn mác là bội giáo.
- Có vẻ như cả hai sơ đồ này chỉ có thể là sản phẩm của tư duy tôn giáo, có vẻ chúng chứa đựng một diễn giải về thế giới vật chất như là sự hiển thánh, và giải thích con người trong mối quan hệ của anh ta – hoặc là khẳng định, phủ định, hay, thường xuyên hơn, mang tính hai phần (khẳng định và phủ định) – với tinh thần tuyệt đối. Nhưng không phải vậy, vì lý thuyết về sự trở về của con người với chính mình cũng được thấy là một yếu tố cấu thành của triết học tự nhiên thời Khai minh. Trên thực tế có vẻ như là lý thuyết đang được đề cập, cùng với hình ảnh mang tính hệ hình về một thiên đường đã mất là một đặc trưng bất biến của sự tư biện của con người về chính mình, dù với các hình thức khác nhau trong các nền văn hóa khác nhau song đều có thể thấy biểu hiện trong một tôn giáo hay một khuôn khổ phản tôn giáo triệt để.
- Trong văn liệu của thời Khai minh ta thấy ý niệm về sự mất đi tính
Montesquieu (1689-1775) Michel de Montaigne (1533-1592) - Yêu sách về “con người tự nhiên” đối lập với nền văn minh đang thịnh hành bao gồm các khẳng định khác nhau về quyền và các so sánh về chất. Nhưng sự bình đẳng tự nhiên của con người, quyền được hạnh phúc, tự do, quyền sử dụng lý trí, là những chủ đề được thừa nhận đương thời và là đủ để cấu thành nên bộ máy phê bình. Tuy nhiên, ngay sau đó thành ra là khung khái niệm của các hình ảnh lý tưởng thời Khai minh là không thích đáng và các thành tố của nó không phù hợp với nhau. Các khái niệm then chốt về “tự nhiên” và “lý tính” tỏ ra, với phân tích chặt chẽ, không kết hợp trong một tổng thể nhất quán: vì làm thế nào mà việc tôn sùng lý trí như là món quà của tự nhiên hòa hợp với việc tôn sùng tự nhiên như là bản thân nó lại hợp lý? Nếu, như các nhà duy vật cơ giới cho là đúng, lý trí con người là một sự kéo dài của bản tính động vật và không có khác biệt về nền tảng giữa những sự khéo léo của loài khỉ với khả năng lý luận của nhà toán học (de la Mettrie), và nếu mọi phán đoán luân lý có thể quy giản về những phản ứng với vui sướng và đau khổ, thì con người với các quy luật luân lý và lý tính trừu tượng quả thực là tác phẩm của tự nhiên song không hơn gì một mảnh vụn mù quáng của cơ chế của tự nhiên. Ngược lại, nếu Tự nhiên, như ai cũng thừa nhận, là một thực thể có lý trí, có mục đích, có tính chở che, thì bà mẹ Tự nhiên chỉ là một cái tên khác của Thượng Đế. Vì thế hoặc lý tính không phải lý tính hoặc tự nhiên không phải tự nhiên; ta hoặc phải xem tư tưởng là phi lý tính hoặc phải gán cho Tự nhiên những thuộc tính giống như Thượng Đế. Làm sao người ta có thể chấp nhận rằng những xung lực của con người không kém tự nhiên hơn các quy tắc đạo đức quy định và điều khiển họ? Ta trở lại với
Voltaire (1694-1778)
10. Rousseau và Hume. Phá hủy niềm tin vào sự hòa điệu tự nhiên
- Rousseau, Hume và Kant đều là những người đồng tình với sự mất
J. J. Rousseau (1712-1778) - Rousseau không dấn mình vào bất kì một biện thần luận lịch sử hay nỗ lực kết hợp cái ác vào trong thế giới với hi vọng về một trật tự hài hòa nảy ra từ những điều khủng khiếp của quá khứ. Trong mắt ông việc đoạn tuyệt với sự hòa điệu nguyên thủy là cái ác không hơn không kém, không biết lý do tại sao, không biết mục đích là gì. Không có phép biện chứng của “sự tiến triển hình xoắn ốc” để nuôi dưỡng một hi vọng bất trắc về sự cải thiện của con người.
- Vì thế Rousseau có mô hình của riêng ông về nhân tính thực sự, song ông không chấp nhận bất cứ một lý do nào biện minh cho việc vi phạm mô hình đó. Theo quan điểm của ông, sự sa đọa của con người không phải là giai đoạn tự hiệu chỉnh trong quá trình tiến tới sự hoàn hảo. Ở phương diện này ông gần với tôn giáo bình thường hơn là với các nhà thần hệ luận theo kiểu Plato: cái ác là cái ác, nó là khiếm khuyết của con người và không có ý nghĩa bí mật nào liên quan đến lịch sử của vũ trụ. Ngược lại, có một lời mời gọi gửi đến con người, lời mời gọi có trước lịch sử và không phải do lịch sử đưa ra; thực tại tối hậu của lời mời gọi đó là một câu hỏi mở.
- Học thuyết của Hume, đến lượt nó, lại biểu đạt sự phân đôi của hai yếu
David Hume (1711-1776) - Hume không khẳng định tính bất tất của con người hay vũ trụ: ngược lại, khi bác bỏ bằng chứng ở tầm mức vũ trụ về hiện hữu của Thượng Đế, ông tuyên bố ta không thể biết bằng kinh nghiệm rằng vũ trụ là bất tất. Song điều này chỉ có nghĩa là vũ trụ không bất tất trong cảm giác của các nhà kinh viện, tức là không có một đặc tính nào chỉ ra rằng nó phải phụ thuộc vào một đấng sáng tạo tất yếu. Đối với các nhà kinh viện thì tính bất tất của thế giới đóng vai trò là dấu hiệu chứng minh tính tất yếu. Xem xét thế giới nơi bản thân nó thì thế giới không có gì là tất yếu, nhưng sự tất yếu phải ở đó, vì thế giới hiện hữu; sự bất tất của thế giới chỉ là cái bề ngoài, như ta thấy khi ta liên hệ nó với sự hiện hữu của Thượng Đế. Xem xét đúng như bản thân thế giới, trong mối quan hệ với Thượng Đế, thế giới là không bất tất, bởi vì không gì có thể hiện hữu do ngẫu nhiên. Vì thế khi Hume nói với ta rằng từ kinh nghiệm thì không có gì chỉ ra rằng thế giới là bất tất, ông thực sự nói rằng thế giới là bất tất, tức là, không gì bắt buộc ta liên hệ nó với bất kì một hiện thực tất yếu hay tuyệt đối nào. Nói cách khác, cách nói “bất tất” chỉ có nghĩa trong quan hệ đối lập với “tất yếu”. Quan điểm của Hume là thế giới là cái mà nó là, và phản đề giữa bất
Immanuel Kant (1724-1824) - Sự phê phán của Hume cuối cùng làm lung lay những nền tảng của hệ thống thế kỉ 18 dường như đã hòa giải giữa chủ nghĩa kinh nghiệm mang niềm tin vào sự hòa hợp của tự nhiên với thuyết vị lợi đạo đức học mang niềm tin rằng con người vốn được dành cho hạnh phúc, lý tính và món quà của tự nhiên là lý tính như một sức mạnh tối cao. Nếu nỗ lực của con người là để phục hồi tính hợp thức của niềm tin trong sự thống nhất và tất yếu của Tồn tại và trong một tiêu chuẩn người đích thực phân biệt với nhân tính thường nghiệm và mang sử tính, thì người ta phải tính đến những hàm ý gây choáng váng của Hume. Đây là vấn đề Kant đối mặt, và ông đã nỗ lực giải quyết.
Nguồn: Trích đăng từ bản của người dịch - Nguyễn Thị Minh - gửi cho PTKT.
