ĐỌC “GOD & THE NEW PHYSICS” CỦA PAUL DAVIES
Trương Văn Tân
Ở lúc khởi đầu, Thượng Đế sáng tạo ra trời đất.
(Kinh Sáng thế)
Nhưng không ai ở đó chứng kiến sự kiện.
(Steven Weinberg, Nobel Vật lý, 1979)
Mở đầu
![]() |
Lịch sử khoa học công nhận rằng Galileo Galilei đã khai sáng ra khoa học hiện đại 400 năm trước. Những công trình của Galileo Galilei và sau đó là Isaac Newton và các khoa học gia đương thời ở thế kỷ 17 đã thiết lập nên nền tảng cho phương pháp khoa học để khảo sát có hệ thống về vật chất, lực và chuyển động. Đó là cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất. Cuộc cách mạng khoa học lần thứ hai diễn ra vào đầu thế kỷ 20 từ việc phát hiện ra thuyết lượng tử (cơ học lượng tử) và thuyết tương đối, tạo nên hai cột trụ của “tân vật lý”. Chưa bao giờ trong lịch sử khoa học xuất hiện một loạt thiên tài như ở đầu thế kỷ 20, đó là Max Planck, Erwin Schrödinger, Werner Heisenberg, Niels Bohr, Albert Einstein, Louis de Broglie, những người hình thành nên thuyết lượng tử. Mặt khác, Einstein là người sáng tạo ra thuyết tương đối, một hệ thống khoa học bàn về không gian, thời gian và chuyển động ở vận tốc cao gần vận tốc ánh sáng (300.000 km/s). Einstein đã thống nhất không gian và thời gian thành không thời gian (spacetime) có 4 chiều, 3 chiều cho không gian và 1 chiều cho thời gian. Sự co giãn của thời gian và không gian xuất hiện khi vận tốc tiến gần vận tốc ánh sáng. Trong thuyết tương đối, mọi thực thể đều tương đối, chỉ có vận tốc ánh sáng 300.000 km/s là tuyệt đối. Chúng ta sống trong thế giới của Newton nơi mà vận tốc chuyển động con người có thể đạt tới nhiều lắm là 8 km/s của con tàu vũ trụ, nhưng vẫn quá chậm để nhận thấy sư co giãn của thời gian. Thuyết tương đối cho thấy rằng khi ta di chuyển gần đến vận tốc ánh sáng thì thời gian chậm lại. Một ví dụ thường được nhắc đến để hình dung thời gian co giãn là chuyện hai anh em sinh đôi, người anh ở lại quả đất còn người em du hành không gian bằng chiếc tàu vũ trụ được phóng đi ở vận tốc gần vận tốc ánh sáng. Nhiều năm sau, người em trở lại quả đất, người anh đã già lụm khụm nhưng người em vẫn ở tuổi thanh xuân. Câu chuyện nghe như huyền thoại Lưu Nguyễn lạc thiên thai hay Urashima Taro được rùa chở xuống Long Cung. Các ông chìm đắm vui chơi với các nàng tiên nữ, long nữ đến khi trở lại trần thế thì trăm năm đã lặng lẽ trôi qua.
Paul Davies là giáo sư vật lý lý thuyết giảng dạy tại nhiều trường đại học ở Mỹ, Anh và Úc. Ông là một giáo sư đa tài và uyên bác. Chỉ trong khoảng thời gian 45 năm (1974 – 2021) ông đã viết 30 quyển sách vật lý đại chúng, phần lớn về vật lý vũ trụ và nguồn gốc của sự sống. Trung bình mỗi 18 tháng, ông cho ra đời một quyển sách. Ở tuổi 37 tác giả Davies viết quyển “God and the new physics” (Thượng Đế và tân vật lý)[1]. Tác giả xác nhận quyển sách không phải là sách tôn giáo cũng không phải sách khoa học mà là sách nói về khoa học ở một ý nghĩa rộng hơn. Tác giả không đề cập những khái niệm về Phật giáo hay tư tưởng triết học phương Đông. Nói cách khác, tác giả muốn nối kết khoa học và tôn giáo mà tôn giáo ở đây là Ki-tô giáo. Ông tuyên bố cố gắng loại trừ những ý kiến cá nhân của mình nhưng dù không nói thẳng, một tiền đề quan trọng trong quyển sách mà tác giả muốn người đọc ngầm hiểu là tác giả mặc nhận sự hiện hữu của Thượng Đế (God).
Quyển sách này là một tổng hợp về thiên văn học, vật lý cổ điển, vật lý lượng tử, thuyết tương đối, tâm lý học và thần học... mô tả sự hiện hữu của vũ trụ, việc xuất hiện sự sống trên quả đất, về không gian, thời gian; những thực thể mà theo tín điều tôn giáo là do Thượng Đế đã sáng tạo.
