18.3.24

Những thủ phạm phá hoại hành tinh (3)

NHỮNG THỦ PHẠM PHÁ HOẠI HÀNH TINH

PHẦN 3: CÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG NGHIỆP HIỆN ĐẠI THẾ KỶ 20 

Tác giả: Tôn Thất Thông
(Phỏng theo phóng sự truyền hình Die Erdzerstörer của đài Pháp-Đức ARTE.TV)

Việc cứu vãn hành tinh bằng những công nghệ xanh và kỹ thuật số hóa chỉ làm chúng ta hoang mang, không biết có giống lời hứa của giới tinh hoa châu Âu vào đầu thế kỷ 19 hay không? Thuở ấy, những bộ óc thông minh nhất cho rằng, rừng rậm và khí hậu cần được cứu vãn bằng cách sử dụng than đá thay cho gỗ. Có lẽ chúng ta không còn đường rút lui khỏi kỷ nguyên loài người, kỷ nguyên phá hoại hành tinh. Hay có lẽ chỉ còn một giải pháp: chúng ta, những thực thể tiêu thụ không mệt mỏi, cũng là tội đồ phá hoại hành tinh, liệu chúng ta có tự nguyện đứng ra cứu vãn hành tinh trong những giây phút cuối cùng, trước khi mọi chuyện trở nên vô phương cứu chữa.

***

Người dân Mỹ trung bình trong thời hậu chiến không mơ ước những gì cao sang, hoặc quyền uy như sức mạnh nguyên tử, hoặc lãng mạn như những kênh đào vĩ đại mới mẻ. Các gia đình có những lo lắng hết sức bình thường. Cuộc chiến đã bắt buộc nhiều người hy sinh, và giờ đây họ đối mặt với việc xây dựng cuộc sống thời bình. Nhưng khủng hoảng nhà ở là mối lo lớn nhất trong xã hội hậu chiến. Lý do cũng dễ hiểu: Trong thời chiến tranh, tất cả các dự án xây dựng nhà cửa đều bị đình chỉ để dành ưu tiên cho nền sản xuất chiến tranh. Khi thế chiến chấm dứt, khắp nơi ở Chicago, New York, Los Angeles, khắp nơi trên nước Mỹ, rất nhiều gia đình và cựu chiến binh phải sống tạm bợ trong xe buýt cũ, nhà xe lưu động, hoặc được gom lại ở các khu tập trung khẩn cấp.

Phải bắt tay giải quyết! Đúng lúc đó, một nhà thầu xây cất xuất hiện như vị cứu tinh. William Levitt trở về với những kinh nghiệm thu lượm được từ chiến trường. Ông đã phục vụ bốn năm trong đơn vị công binh, chịu trách nhiệm xây dựng các trung tâm hậu cần và nhà cư trú cho quân nhân sinh sống ở gần chiến tuyến. Đòi hỏi trong thời chiến là phải xây dựng thật nhanh với phí tổn thấp. Từ đó, người ta bỗng nhiên khám phá một kỹ thuật xây dựng hàng loạt dựa vào nguyên tắc lắp ghép cấu kiện có sẵn, đồng nhất và được sản xuất đại trà.

Print Friendly and PDF

Những thủ phạm phá hoại hành tinh (2)

NHỮNG THỦ PHẠM PHÁ HOẠI HÀNH TINH

PHẦN 2: NGUYÊN TỬ VÀ CUỘC ĐỌ SỨC GIỮA CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN

Tác giả: Tôn Thất Thông
(Phỏng theo phóng sự truyền hình Die Erdzerstörer của đài Pháp-Đức ARTE.TV)

Những thập niên ở giữa thế kỷ 20 đánh dấu một điều mà các nhà tư tưởng trong thời đại này gọi là sự tăng tốc của phá hoại hành tinh. Đó là một bước ngoặt của hành tinh chúng ta, một biến đổi hệ hình cho sự tồn tại của quả đất. Đó là điểm khởi đầu cho thời đại nguyên tử.

***

Gần 150 năm kể từ những năm tháng đầu tiên của thời đại công nghiệp hóa, dân số thế giới đã tăng lên gấp đôi. Các quốc gia, các đô thị, các doanh nghiệp đã phát triển với tốc độ chóng mặt. Ở Mỹ cũng như ở châu Âu, cuộc đại khủng hoảng năm 1929 đã đẩy hàng chục triệu người đàn ông, phụ nữ, trẻ em vào cuộc sống bần cùng và đói. Trong làn sóng đó, chủ nghĩa quốc gia cực đoan phát triển mạnh mẽ ở Đức. Thế giới phải bắt đầu tìm giải pháp và tăng tốc một quá trình phát triển mới, tìm công nghệ mới, kỹ thuật mới, quy trình sản xuất mới.

Đại khủng hoảng 1929

Trong thế kỷ 20, ngay cả lúc các tập đoàn hóa học như IG Farben, hoặc các tập đoàn công nghiệp khác như Siemens, Krupps vẫn tạo nên lợi nhuận cao, thì Đức với tư cách là một quốc gia chỉ có thể tồn tại bằng nợ nần cao như núi và nền kinh tế quốc dân rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chính chưa từng có trước đó. Người ta nghe trong Radio Pháp: “Cả dân tộc Đức đã rơi vào hỗn loạn. Từ lúc báo chí thông báo tình trạng khẩn cấp, rằng quốc gia đang ở trong tình trạng nợ nần chưa bao giờ có, người dân có chút ít tiết kiệm đổ xô đến các ngân hàng để rút tiền”. Người dân phải mang cả bao tải tiền giấy mới có thể mua được thực phẩm cho gia đình. Đơn vị mua bán thường là tiền tỉ trở lên. Đó là tình trạng của nền tài chính Đức trong thập niên 1920.

Print Friendly and PDF

Những thủ phạm phá hoại hành tinh (1)

NHỮNG THỦ PHẠM PHÁ HOẠI HÀNH TINH

PHẦN 1: THAN ĐÁ, DẦU LỬA VÀ HÓA CHẤT

Tác giả: Tôn Thất Thông

(Phỏng theo phóng sự truyền hình Die Erdzerstörer của đài Pháp-Đức ARTE.TV)

Sự sụp đổ của dịch vụ đường sắt đô thị ở Mỹ, vốn dĩ là phương tiện giao thông công cộng rất thân thiện với môi trường, không phải là sự tiến hóa tự nhiên của thị trường, mà là kết quả của một âm mưu thâm độc của giới công nghiệp liên quan đến dầu lửa. Trong lúc loài người hít thở ngày càng nhiều khí thải CO₂, thì giới vận động hành lang tuyên truyền rằng, đó là tiến bộ, là hiện đại, là xu hướng tất yếu để phát triển phồn vinh.

***

Từ không trung nhìn xuống, chúng ta thấy quả đất với hai màu sắc tinh khiết: trắng và xanh. Đó là màu của mây, của các lục địa và đại dương mênh mông. Ở bên dưới tầng mây có vẻ như một thiên đường với không khí tỏa hương thơm ngát, thêm mùi muối biển đậm đà và những khối nước trong xanh.

Nhưng trong khoảng không gian từ 0 đến 15 km trên mặt nước biển, ở mọi nơi trên quả đất, đó là một kho bãi khổng lồ chứa 1.400 tỉ tấn khí thải CO₂, thứ khí độc mà loài người, hay nói đúng hơn, những nước công nghiệp sớm phát triển đã thải ra kể từ lúc cuộc cách mạng công nghiệp được bắt đầu cách đây hơn 200 năm. Hàng vạn tấn khí CO₂ thải ra không ngừng, năm này qua năm khác, cô đọng lại và tích tụ ở vùng thấp của tầng khí quyển mà chúng ta phải hít thở hằng ngày.

Đó là sản phẩm phụ của công cuộc xây dựng thành quả tiến bộ mà loài người đạt được từ 200 năm nay. Những tiến bộ khoa học và kỹ thuật đã cải thiện đáng kể chất lượng sống của chúng ta, đồng thời chúng cũng sản sinh ra Napalm, thuốc trừ sâu, chất độc hóa học, rác thải hạt nhân và những thứ khác vốn dĩ đã nâng cao nhiệt độ khí hậu. Chúng ta đã tạo ra tiến bộ, đồng thời cũng mang tai họa cho hành tinh này, mà các thế hệ về sau sẽ phải hứng chịu. Điều đó chúng ta có thể thấy rõ ở không khí, ở các lớp cặn, trên đất liền, ở hiệu ứng nhà kính khắp nơi.

***

Các nhà khoa học đã không ngừng lên tiếng báo động. Tác động của con người lên thiên nhiên đã đạt đến mức độ cao để chúng ta có thể kết luận rằng, hiện nay chúng ta đang sống trong kỷ nguyên mới của lịch sử loài người, một kỷ nguyên mới về địa chất. Trong thực tế, kỷ nguyên địa chất thay đổi không nhiều. Cho đến nay chúng ta vẫn sống trong kỷ nguyên địa chất Holocene vốn đã bắt đầu từ lúc chấm dứt kỷ nguyên băng hà cách đây 12 thiên niên kỷ. Và bây giờ mới đến kỷ nguyên địa chất tiếp theo. Những gì loài người chưa đạt được trong 11.700 năm đã qua, thì con người cận và hiện đại đã đạt đến đích chỉ trong vòng 200 năm, tạo nên bước ngoặt để loài người chứng kiến một kỷ nguyên địa chất mới. Kỷ nguyên mới này đã được hàng ngàn báo cáo khoa học vừa làm nhân chứng vừa thúc đẩy sự biến hóa, kỷ nguyên mà Hiệp hội Quốc tế về Khoa học Địa chất (International Union of Geological Sciences) đặt tên là kỷ nguyên của loài người (Anthropocene), kỷ nguyên của những tội đồ phá hoại hành tinh.

Nói rõ là, không phải chúng ta đang sống trong một một cuộc khủng hoảng môi trường, mà chúng ta sắp hoàn tất cuộc cách mạng địa chất do chính con người tạo ra, cuộc cách mạng đã mang lại một số điều tốt đẹp, đi kèm với nhiều điều phiền toái làm con người khó sống hơn trong tương lai. Biến cố lịch sử nào, thành quả khoa học kỹ thuật nào, quyết định chính trị và công nghiệp nào đã dẫn chúng ta đến bước ngoặt này? Tiến bộ nào trong lịch sử đã mang chúng ta đi xa như thế?

Print Friendly and PDF

16.3.24

Sử dụng song ngữ làm chậm quá trình lão hóa não, và có thể ngừa bệnh Alzheimer

SỬ DỤNG SONG NGỮ LÀM CHẬM QUÁ TRÌNH LÃO HÓA NÃO, VÀ CÓ THỂ NGỪA BỆNH ALZHEIMER

PeopleImages.com - Yuri A/Shutterstock

Con người được tổ chức thành khoảng 200 dân tộc, song có khoảng 6.000 ngôn ngữ đang tồn tại. Do đó, có vẻ hiển nhiên việc sử dụng song ngữ mang tính phổ biến nhiều hơn so với những gì chúng ta tưởng. Đây là một thực tế xuất hiện ngày càng rõ, làm suy yếu mô hình nổi bật về “một nhà nước, một ngôn ngữ”, một hệ quả của việc thống nhất các khu vực và nền văn hóa khác biệt trước đây thành các quốc gia rộng lớn hơn.

Khi các quan điểm về chủ đề này bắt đầu thay đổi, thì người ta đã nghiên cứu tác động của việc sử dụng song ngữ lên sự phát triển nhận thức và ngôn ngữ trong những thập kỷ gần đây. Câu hỏi liệu việc sử dụng song ngữ có thể bảo vệ con người chống lại căn bệnh Alzheimer hay không đã được chú ý trong một thời gian, và thậm chí ngày nay mức độ hiệu quả của nó trong việc chống lại sự suy giảm nhận thức vẫn là một chủ đề tranh luận.

Print Friendly and PDF

14.3.24

Hãy tập trung vào những rủi ro hữu hình của AI thay vì cứ suy đoán về những khả năng một mối đe dọa hiện sinh phát sinh từ các khả năng này

HÃY TẬP TRUNG VÀO NHỮNG RỦI RO HỮU HÌNH CỦA A.I. THAY VÌ CỨ SUY ĐOÁN VỀ NHỮNG KHẢ NĂNG MỘT MỐI ĐE DỌA HIỆN SINH PHÁT SINH TỪ CÁC KHẢ NĂNG NÀY

Shutterstock/gopixa

Trong vài tháng qua, do việc áp dụng rộng rãi các công cụ dựa trên AI tạo sinh như chatbot và các chương trình tạo ảnh tự động, trí tuệ nhân tạo (AI) đã gia nhập cuộc đối thoại toàn cầu. Các nhà khoa học và kỹ thuật viên AI nổi tiếng đã đưa ra các quan ngại về những rủi ro hiện sinh giả định do những phát triển này gây ra.

Sau nhiều thập kỷ làm việc trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, chúng tôi không khỏi bất ngờ trước mức độ phổ biến tăng vọt lẫn chủ nghĩa giật gân ăn theo nó. Chúng tôi viết bài này không phải để chống lại (sự bùng nổ AI), mà nhằm cân bằng nhận thức của công chúng vốn dường như bị chi phối một cách không tương xứng bởi những nỗi sợ hãi về các mối đe dọa hiện sinh mang tính thuần túy tư biện liên quan đến AI.

Chúng tôi không có quyền bảo ai đó không thể hoặc không nên lo lắng về những rủi ro kỳ quặc hơn này. Với tư cách là thành viên của Phòng thí nghiệm Châu Âu về các Hệ thống Học tập và Trí thông minh (European Laboratory for Learning and Intelligent Systems – ELLIS), một tổ chức nghiên cứu tập trung vào học máy, rõ ràng việc chúng tôi nên làm là xem xét những rủi ro (kì quặc) đấy, đặc biệt là trong bối cảnh các tổ chức chính phủ đang cân nhắc các hành động pháp lý với ý kiến đầu vào từ các công ty công nghệ.

Print Friendly and PDF

12.3.24

Về bí ẩn của ý thức: tại sao một lý thuyết chủ đạo lại bị gắn nhãn ‘ngụy khoa học’

VỀ BÍ ẨN CỦA Ý THỨC: TẠI SAO MỘT LÝ THUYẾT CHỦ ĐẠO LẠI BỊ GẮN NHÃN ‘NGỤY KHOA HỌC’

Hubis/Shutterstocl

Trong lĩnh vực nghiên cứu về ý thức, nội chiến đã nổ ra. Hơn 100 nhà nghiên cứu về ý thức đã ký vào một lá thư tố cáo một trong những lý thuyết khoa học thịnh hành nhất về ý thức – lý thuyết thông tin tích hợp – là ngụy khoa học.

Ngay lập tức, một vài nhân vật khác trong lĩnh vực này đã phản ứng bằng cách phê phán bức thư là lý luận kémkhông tương xứng.

Cả hai phe đều được thúc đẩy bởi mối quan tâm đến sức khỏe lâu dài và sự tôn trọng đối với khoa học về ý thức. Một phe (bao gồm cả những người ký thư) lo ngại rằng sự nối kết giữa khoa học về ý thức với thứ mà họ cho là lý thuyết ngụy khoa học sẽ làm suy yếu độ tin cậy của lĩnh vực này.

Giulio Tononi

Còn phe kia đang nhấn mạnh rằng những gì họ cho là những cáo buộc không có cơ sở ngụy khoa học cuối cùng sẽ dẫn đến việc toàn bộ khoa học về ý thức bị nhìn nhận là ngụy khoa học.

Lý thuyết thông tin tích hợp (integrated information theory) – thường được gọi tắt là IIT – là một lý thuyết rất tham vọng về ý thức do nhà thần kinh học Giulio Tononi đề xuất. Cuối cùng, nó nhằm mục đích đưa ra các điều kiện toán học chính xác cho bất kỳ hệ thống nào – não bộ hay tập hợp thành phần hay vấn đề – là có ý thức hay không.

Print Friendly and PDF

10.3.24

Lượng hoá các khoa học xã hội: một so sánh lịch sử

LƯỢNG HOÁ CÁC KHOA HỌC XÃ HỘI: MỘT SO SÁNH LỊCH SỬ[1]

Alain Desrosières

Alain Desrosières (1940-2013)

Từ giữa thế kỉ XIX đến giữa thế kỉ XX, các khoa học xã hội đa dạng đã dần dần được lượng hoá. Sự lượng hoá này được xem như biểu tượng của việc tiếp cận tính khoa học, so sánh được với tính khoa học của các khoa học tự nhiên. Nhưng phong trào này đã theo những con đường tương đối khác nhau, tuỳ theo mỗi bộ môn. Ngày nay, nếu đã có nhiều công trình tập hợp tư liệu về lịch sử sự lượng hoá này thì vẫn còn hiếm những nghiên cứu, theo quan điểm này, thử so sánh giữa các bộ môn khoa học khác nhau. Cách mà mỗi bộ môn đã tích hợp những công cụ thống kê và xác suất nói được gì chăng, không chỉ về khoa học luận hay các phương pháp riêng, mà còn, theo quan điểm xã hội học về các khoa học, về các tác nhân, các mạng lưới, các quy chuẩn, các tiêu chí hợp thức hoá của bộ môn ấy?

Ở đây chúng tôi sẽ không tìm lời giải đáp cho một vấn đề rộng như thế, nhưng chỉ đề xuất một khuôn khổ nhỏ và tạm thời để so sánh năm bộ môn: sử học, xã hội học, khoa học chính trị, kinh tế học và tâm lí học[2]. Tất nhiên bản thân mỗi bộ môn là một thế giới phức tạp, phân mảnh thành xu hướng, trường phái kéo theo những hệ ý khác nhau và trải qua những cuộc tranh luận, thậm chí là những cuộc xung đột gay gắt. Nhưng, nói chung, điều đặc trưng cho trường của một bộ môn chính là một sự đồng ý tương đối về những điểm bất đồng giữa những thành viên có một thói quen đối đầu nhau nhất định. Trái lại, hiếm khi có những xung đột giữa một bộ môn này với một bộ môn khác vì những lí do thuộc về xã hội học các thế giới hàn lâm và khoa học. Mỗi bộ môn là một thế giới có kỉ luật, phần lớn tự khép kín vào chính mình, với ngữ vựng, hệ ý, định chế, ghế giáo sư và tạp chí của mình. Vì thế dùng sự lượng hoá như một lưới đọc và như dấu hiệu của một đặc trưng của năm thế giới này có lẽ không phải là một ý tồi, cho dù tất nhiên nó là một sự đơn giản hoá.

Print Friendly and PDF

8.3.24

Tại sao giờ đây đúng là lúc cần sớm thay đổi các ý tưởng của chúng ta về các nhà khoa học nữ?

TẠI SAO GIỜ ĐÂY ĐÚNG LÀ LÚC CẦN SỚM THAY ĐỔI CÁC Ý TƯỞNG CỦA CHÚNG TA VỀ CÁC NHÀ KHOA HỌC NỮ?

Công bố ngày 12/2/2024

Các tác giả: Sandrine Aragon Isabelle Vauglin

Nữ diễn viên Ella Rumpf trong vai một nhà toán học nữ trẻ trong phim “Le Théorème de Marguerite”, Anna Novion. DR

Ngày 11 tháng hai đánh dấu Ngày quốc tế của các nhà khoa học nữ do UNESCO tổ chức - Journée internationale des femmes et des filles de sciences organisée par l’Unesco -. Ngày này có mục đích hỗ trợ và tăng cường sự tham gia của phụ nữ nói chung và phụ nữ trẻ vào các lĩnh vực khoa học.

Tại Pháp, vào lúc sự cân bằng (giữa số nam sinh và nữ sinh - ND) trong các ban khoa học gần đạt được, việc cải cách các chương trình trung học năm 2020, với việc bỏ môn toán khỏi chương trình học chung, đã triệt tiêu nhiều năm nỗ lực tiến tới bình đẳng. Số nữ sinh trong các ban toán ở trung học đã suy giảm: chỉ 40% trong ban toán ở lớp 11, 30% trong các ban chuyên toán ở lớp 12. Nghĩa là giảm 28% số nữ sinh trong các ban khoa học ở lớp 12 từ 2019 đến 2021, và đặc biệt là nhiều nữ sinh không học môn “Kỹ thuật số và tin học”. Như vậy, những thế hệ này sẽ không thay đổi hướng chuyên môn ở bậc đại học.

Ví dụ, tỷ lệ những nhà toán học nữ dừng lại ở mức 20% từ lâu rồi. Toán học là bắt buộc để đi vào những ngành nghề chuyên môn về khoa học, kỹ thuật, kinh tế và trở thành kỹ sư hay lập trình viên. Tất nhiên là một giỡ rưỡi toán hàng tuần đã được đưa trở lại vào các chương trình năm 2023 để củng cố nền tảng văn hóa của nam và nữ sinh không theo chuyên môn toán. Tuy nhiên, không đủ để học sinh hội nhập vào các chuyên ngành khoa học ở bậc đại học. Phải hướng đến những hành động nào để đảo ngược đường biểu diễn đang đi xuống này?

Print Friendly and PDF

6.3.24

Châu Âu và phương Nam: điểm hội tụ mới? Cuộc trò chuyện với Josep Borell, Gabriella Ramos, Rémy Rioux, Ghassan Salamé, Nathalie Tocci và Laurence Tubiana

CHÂU ÂU VÀ PHƯƠNG NAM: ĐIỂM HỘI TỤ MỚI? CUỘC TRÒ CHUYỆN VỚI JOSEP BORRELL, GABRIELA RAMOS, RÉMY RIOUX, GHASSAN SALAMÉ, NATHALIE TOCCI VÀ LAURENCE TUBIANA

Trong một đám cháy lớn trải dài từ Ukraine đến Biển Đỏ, các cuộc chiến tranh năm 2023 đã tái triển khai mối quan hệ giữa các khối mà chúng ta cho rằng đã được thiết lập một cách chắc chắn. Bên bờ vực của một thế giới bị xáo trộn, nơi các liên minh truyền thống nổ tung và các liên minh mới đang vất vả xuất hiện, làm sao chúng ta thể hội tụ mà không hề có ý muốn chuyển hóa? Một đoạn trích mới các cuộc thảo luận cấp cao của phiên bản đầu tiên của Hội nghị thượng đỉnh của tạp chí Le Grand Continent.

Các tác giả: Josep Borrell[1], Gabriela Ramos[2], Rémy Rioux[3], Ghassan Salamé[4], Nathalie Tocci[5]Laurence Tubiana[6]

Cuộc trò chuyện này là bản ghi lại của bàn tròn “Châu Âu và Phương Nam: Xây dựng một sự hội tụ mới”, do Laurence Tubiana điều hành, quy tụ Josep Borrell, Gabriela Ramos, Rémy Rioux, Ghassan Salamé và Nathalie Tocci trong phiên bản đầu tiên của Hội nghị thượng đỉnh của tạp chí Le Grand Continent, ở Thung lũng Aosta, từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 12 năm 2023. Tuần này, chúng tôi công bố kỷ yếu của Hội nghị thượng đỉnh cũng như video về các phiên họp công khai.

Hội nghị thượng đỉnh của tạp chí Le Grand Continent - Châu Âu và Phương Nam Toàn Cầu (vào đây để xem video)

Print Friendly and PDF

4.3.24

Mười nhà giáo dục lớn của Nhật Bản hiện đại

NỀN GIÁO DỤC NHẬT BẢN ĐÃ ĐƯỢC ĐỊNH HÌNH NHƯ THẾ NÀO

Nguyễn Xuân Xanh

Giới thiệu sách

Benjamin C. Duke, Ten Great Educators of Modern Japan

Nhật Bản hôm nay đứng giữa hai nền văn hoá Đông và Tây. Lý tưởng lớn của chúng ta nằm ở chỗ tạo dựng sự hài hoà của hai nền văn hoá này, và ở sự nâng nền văn minh phương Đông lên ngang tầm của nền văn hoá phương Tây, để cho hai nền văn hoá cùng tồn tại trong sự hài hoà…

Ōkuma Shigenobu, người sáng lập Đại học Wasade

Print Friendly and PDF