Đại học Stanford tuyển
các siêu sao về kinh tế học như thế
nào
Trọng
tâm của lực hấp dẫn về tư tưởng kinh tế ở Hoa Kỳ từ lâu đã được tìm thấy nằm
dọc theo hai dặm ở Cambridge, Massachusetts, chạy dài giữa Đại học Harvard và
trường M.I.T. Nhưng đã có một
sự cạnh tranh mới về danh hiệu đó, và nó ở khá xa về phía Tây.
Đại học Stanford đã
thu hút một đội hình toàn sao các nhà kinh tế học đến Palo Alto, California,
trong vài năm gần đây – và đánh bật Đại học Harvard và trường MIT
(Massachusetts Institute of Technology) trong nỗ lực lôi kéo các nhà kinh tế
học của Đại học Stanford.
![]() |
Alvin E. Roth (1951-) |
Những
giáo sư mới được tuyển vào Đại học Stanford có một người đoạt giải Nobel –
Alvin E. Roth, trước đây là người của Đại học Harvard – nhưng sự thay đổi đáng
chú ý nhất là các nhà kinh tế học trẻ tuổi hàng đầu. Trong số 11 người nhận
được Huy chương John Bates Clark
cho danh hiệu nhà kinh tế học giỏi nhất dưới 40 tuổi kể từ năm 2000, thì đã có
bốn người hiện ở Đại học Stanford, nhiều hơn bất kỳ trường đại học nào khác.
Hai người trong số đó vừa mới gia nhập trong một vài tháng gần đây: Raj Chetty,
nhà nghiên cứu về bất bình đẳng, từ Đại học Harvard, và Matthew Gentzkow, người
đã rời Đại học Chicago.
Thành
công của Đại học Stanford với các nhà kinh tế học là một phần của một chiến
dịch rộng lớn để khẳng định mình như là trường đại học hàng đầu của đất nước.
Nỗ lực ấy kết hợp danh hiệu là trường đại học “IT” của quốc gia — hiện nay với
tỷ lệ tuyển sinh đại học thấp nhất, và vị trí thứ hai sau Đại học
Harvard về khả năng huy động vốn lớn nhất — gần với nhiều công ty năng động
nhất thế giới. Cuộc chiến với các trường đại học ở phía Đông lặp lại cuộc chiến
trong các ngành nghề khác, trong đó các công ty đã được thành lập lâu năm, bất
luận là các khách sạn hay nhà sản xuất ô tô, đang bị thách thức bởi đồng tiền
và tinh thần doanh nhân của Silicon Valley.
Và
điều ấy cũng phản ánh một sự thay đổi rộng lớn hơn trong nghiên cứu về kinh tế
học, trong đó những công trình tiên tiến nhất ngày càng ít phụ thuộc vào một cá
nhân học giả thông thái phát triển những lý thuyết toán học, mà phụ thuộc nhiều
hơn vào khả năng nghiền ngẫm một lượng lớn dữ liệu để hiểu được nhiều chủ đề đa
dạng, như vấn đề thu nhập khác nhau như thế nào giữa các xã hội và các ngành
nghề tự tổ chức như thế nào.
![]() |
Tyler Cowen (1962-) |
"Ai lại không muốn ở nơi mà tương lai của thế
giới đang được hình thành?" Tyler Cowen, một nhà kinh tế học tại Đại
học George Mason (và là cộng tác viên thường xuyên của tờ The New York Times), người thường xuyên viết blog về các xu hướng
trong kinh tế học hàn lâm, cho biết. Ông nói, Khoa kinh tế học của Đại học
Stanford "rất phấn khích về điều đó,
điều mà Đại học Boston và Đại học Cambridge không thể tiếp cận”.
Về
kinh tế học, Đại học Stanford thường chỉ xếp sau Đại học Harvard, trường MIT,
Đại học Princeton và Đại học Chicago, theo một khảo sát gần đây nhất của US
News & World Report về xếp hạng các trường đại học, được tiến hành vào năm
2013, và theo các tính toán về số các học giả của khoa được thường xuyên viện
dẫn nhất trong các tài liệu học thuật. Điều đó có thể thay đổi. Trong bốn năm
qua, Đại học Stanford đã tăng số lượng các giảng viên cấp cao lên 25%, và 11
học giả với tiền lương lũy tích hàng triệu đô la hoặc đã được tuyển từ các
chương trình học thuật hàng đầu khác hoặc đã cưỡng lại nỗ lực săn đón đầu người
từ các chương trình ấy.
![]() |
Janet L. Yellen (1946-) |
Điều
đó nói lên rằng, danh tiếng của Đại học Stanford trong tương lai có thể ít phụ
thuộc vào một vài tên tuổi lớn được tuyển dụng hơn là vào khả năng đào tạo các
vị tiến sĩ mà công trình nghiên cứu của họ hoặc được viện dẫn rộng rãi và định
hình lại các cuộc tranh luận kinh tế quan trọng, hoặc họ trở thành những nhà
hoạch định chính sách có ảnh hưởng, tư vấn cho các tổng thống và lãnh đạo các
ngân hàng trung ương. Mười người sau cùng từng là Chủ tịch Hội đồng cố vấn kinh
tế của Nhà Trắng, tất cả đều có bằng tiến sĩ (Ph.D) hoặc của Đại học Harvard
hoặc của trường MIT (người cuối cùng không xuất thân từ hai “lò” đó là Janet L.
Yellen, thôi việc vào năm 1999, và đã nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Yale). Trong
số các nhà tiến sĩ kinh tế học, từng có ảnh hưởng lớn đến chính sách kinh tế
toàn cầu trong những năm gần đây, có Ben S. Bernanke, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ; Mario Draghi, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu; Olivier
Blanchard, kinh tế trưởng sắp nghỉ hưu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế; và Stanley
Fischer, phó chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), tất cả đã đều học tại
trường MIT.
![]() |
David Laibson (1966-) |
Người
ta không ngạc nhiên khi những ai thuộc các chương trình East Coast (bờ biển
phía Đông) hàng đầu xem vai trò lãnh đạo trí tuệ của hai Đại học bang
Massachusetts là vẫn an toàn. "Sự
quan tâm sâu sắc của Đại học Stanford trong việc tuyển dụng các giảng viên của
Đại học Harvard là một minh chứng cho sức mạnh của chúng tôi", David
Laibson, trưởng khoa kinh tế học thuộc Đại học Harvard, cho biết. "Chúng tôi có một mục tiêu lớn bởi vì nhiều
học giả say mê nhất, sáng tạo nhất, và đổi mới nhất trên thế giới là giảng viên
của chúng tôi, và Đại học Stanford đang mời gọi một số họ một cách chính đáng”.
Ông lưu ý rằng khoa của ông có rất nhiều chương trình hợp tác với các trường
khác tại Đại học Harvard, và rằng trường MIT lân cận và tổ chức Nghiên cứu Kinh
tế Quốc gia tập trung sâu vào tư duy kinh tế, và ông cho biết khoa đang đẩy
mạnh công tác tuyển dụng.
![]() |
Roland G. Fryer Jr. (1977-) |
Nhưng
sự thành công trong công tác tuyển dụng của Đại học Stanford gần đây cho thấy
một cái gì đó rộng lớn hơn trong cách giới kinh tế học đang thay đổi. Chuyên
môn của những người mới tuyển là đa dạng, nhưng tất cả họ đều là những ví dụ về
sự vươn lên của kinh tế học, chuyển từ mô hình hóa mang tính lý thuyết sang hướng
tới một "kinh tế học vi mô thực
nghiệm”, phân tích sự vật vận hành như thế nào trong thế giới thực, thường dàn
xếp những thí nghiệm phức tạp hoặc khai thác những tập hợp dữ liệu lớn. Kiểu
công việc ấy đòi hỏi rất nhiều nhà trợ lý nghiên cứu, phối hợp với nhiều bộ môn
bao gồm những lĩnh vực như xã hội học và khoa học máy tính, và sử dụng những kỹ
thuật tính toán tiên tiến, chưa hề sẵn có cho thế hệ trước đây.
![]() |
Esther Duflo (1972-) |
Xu
hướng này được thể hiện rõ qua các khoa kinh tế học hàng đầu — các định chế
truyền thống có ảnh hưởng có rất nhiều học giả đang làm những công trình nghiên
cứu theo hướng trên, trong đó có thể kể công trình của Esther Duflo tại trường
MIT về cách thức thử nghiệm các chính sách để giải quyết tình trạng đói nghèo
toàn cầu và công trình của Roland G. Fryer Jr. tại Đại học Harvard về gốc rễ
của sự bất bình đẳng chủng tộc. Nhưng những học giả mới ký hợp đồng với Đại học
Stanford đã mô tả đại học này là đặc biệt phù hợp cho công tác nghiên cứu theo xu
hướng trên, kết hợp với không gian phòng thí nghiệm, có ngân sách dồi dào hỗ
trợ cho công tác nghiên cứu và gần với những tài năng kỹ thuật.
"Tôi rất hạnh phúc khi ở Đại học Chicago,
nhưng tôi thấy như có một cảm giác kích động và thực sự xây dựng một điều gì đó
ở Đại học Stanford”, ông Gentzkow nói. "Đại học Stanford ngày nay đang ở một vị trí thực sự vững vàng, có rất
nhiều nguồn lực, và có vẻ rất cam kết trong việc sử dụng những nguồn lực ấy để đẩy
lùi các ranh giới của kinh tế học”.
![]() |
John W. Etchemendy (1952-) |
Những
người mới được tuyển gần đây cho biết gói thù lao của họ cũng tương tự như ở
các trường đại học cũ, thế nhưng trong một số trường hợp, ngân sách dành cho
nghiên cứu thì rộng rãi hơn. Hiệu trưởng John W. Etchemendy lập luận rằng công
tác tuyển dụng của trường đại học hưởng lợi từ quan hệ liên phòng ban khi các
nhà kinh tế học chia sẻ ý tưởng và nguồn lực, ví dụ, với các khoa khoa học máy
tính và thống kê.
Ông
Roth, người đã gia nhập Đại học Stanford từ Đại học Harvard vào năm 2012, viện
dẫn công trình cấy ghép thận của chính ông như là một ví dụ. Ông đã nỗ lực để
xây dựng một hệ thống "trao đổi kép",
qua đó những người không thể hiến thận cho người thân vì lý do nhóm máu không
phù hợp, vì kháng nguyên hay vì kháng thể, thì có thể hiến thận cho một người
nhận là người phù hợp và có một người sẵn sàng và có khả năng hiến tặng thận
cho một người nhận khác. Ông cộng tác với các đồng nghiệp từ các trường y khoa
và kỹ thuật. "Điều này được tính
toán rất phức tạp", ông nói.
Trong
khi đó, ông Chetty lại thấy những lợi ích trong việc tập trung những nghiên cứu
có sử dụng Big Data (dữ liệu lớn), những tập hợp nghiên cứu rộng lớn khó sưu
tập tài liệu và khó phân tích. Ví dụ, công trình của ông xem xét liệu phẩm chất
của một bảo mẫu trường mẫu giáo sau này có ảnh hưởng lâu dài đến đời sống và
thu nhập của một người hay không.
![]() |
Matthew Gentzkow (1975-) |
"Sức thu hút của Bay Area (vùng Vịnh) chỉ đơn
giản là tại đây có những cơ hội lý thú với những dữ liệu và phương pháp và học
máy”, ông nói. Và loại công việc đó đòi hỏi một không gian phòng thí nghiệm
gần giống với những gì cần thiết trong các ngành khoa học cứng – một thực tế mà
Đại học Stanford đã khai thác.
Chưa
rõ là liệu các chòm sao kinh tế tại Đại học Stanford chung quy có trở thành
kiểu trường phái tư tưởng chặt chẽ đã từng gặt hái thành công tại một số trường
đại học lớn khác hay không.
Trường
phái Chicago, mang dấu ấn sâu đậm của nhà trí thức Milton Friedman, là trường
phái đi đầu về tư tưởng tân cổ điển, nhấn mạnh đến tính hiệu quả của thị trường
và những rủi ro của sự can thiệp của chính phủ. Khoa kinh tế học của trường MIT
có một tiếng tăm lâu đời về tư tưởng kinh tế theo truyền thống của Keynes, và
đã sản sinh ra nhiều nhà hoạch định chính sách hàng đầu, dẫn dắt nền kinh tế
thế giới qua nhiều năm song gió gần đây.
![]() |
B. Douglas Bernheim (1958-) |
"Không có một trường phái tư tưởng Stanford”,
B. Douglas Bernheim, trưởng khoa kinh tế học của Đại học Stanford, cho biết.
"Đây không phải là một nơi mang tính
giáo điều. Nói chung học thuyết thường kéo theo việc đơn giản hóa, và chúng ta
ngày càng nhận ra rằng những vấn đề xã hội mà chúng ta đang cố hình dung là
những vấn đề mang tính phức tạp phi thường. Sự đồng thuận tại Đại học Stanford tập trung xung quanh ý tưởng cho
rằng cần phải cởi mở với rất nhiều cách tiếp cận và cách suy nghĩ về sự vật, và
cần phải đưa ra, một cách rất chặt chẽ, thấu đáo và cẩn thận, những tiêu chuẩn
cao nhất liên quan đến những nghiên cứu của bạn”.
Nói
cách khác, tập trung ít hơn vào những kết luận cụ thể mà một học giả cần đạt
được, và nhiều hơn về cách thức để đạt được điều đó.
![]() |
Raj Chetty (1979_) |
"Ý của tôi là đây là một sự phát triển tốt
cho kinh tế học”, ông Chetty nói. "Tôi
nghĩ Đại học Stanford đang trở thành một khoa lớn khác làm công việc ấy ở trình
độ của Đại học Harvard và trường MIT, đó là một ví dụ về kinh tế học đã trở
thành một lĩnh vực sâu sắc. Đó là một điều tuyệt vời cho tất cả các trường đại
học – Tôi không nghĩ đó là trò chơi
có tổng bằng không".
Và
trong công tác tuyển dụng gần đây, Đại học Stanford có thể đã có một vũ khí bí
mật, đến từ trên trời. "Ngay cả thời
tiết cũng hợp tác với chúng tôi trong năm nay”, ông Bernheim nói. "Gần 3m tuyết ở Boston trong mùa đông vừa qua
đã không thể gây hại đến công tác tuyển dụng”.
![]() |
Neil Irwin |

Trước đây, ông Irwin là cây bút bình luận của
tờ Washington Post và là một biên tập viên về kinh tế học của trang web
Wonkblog. Là một phóng viên có tin đăng đầu tiên về kinh tế học và Cục dự trữ
liên bang Mỹ, ông lãnh đạo việc đưa tin của tờ Post về cuộc khủng hoảng tài
chính và phản ứng của chính phủ với cuộc khủng hoảng đó.
Ông Irwin đỗ bằng MBA tại Đại học Columbia,
nơi ông là nghiên cứu viên của Knight-Bagehot về Kinh tế học và Báo chí về Kinh
doanh, và học đại học tại trường St. Mary’s College of Maryland. Ông thường
xuất hiện trên đài truyền hình phân tích các chủ đề về kinh tế học, kể cả trên
các đài "PBS NewsHour" và CNBC.
Neil Irwin
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Nguồn: “How Standford Took on The Giants of
Economics”, The New York
Times, Sep. 10, 2015
