Cải cách
kinh tế học nhìn từ bên trong
THÁCH THỨC CỦA CẢI CÁCH KINH TẾ HỌC
Cameron Murray

Điều cốt lõi vẫn không hề suy
suyển.
Các khái niệm lỗi thời và không thích đáng về mặt kinh tế vẫn
chiếm đầy các trang của những quyển giáo trình nhập môn. Từ đó, chúng được nhồi
vào tâm trí của mỗi thế hệ sinh viên mới, đến lượt mình, họ tiếp tục chuyển giao
các ý tưởng này cho thế hệ sinh viên tiếp theo, và toàn bộ xã hội rộng lớn hơn.
Để biến đổi bộ môn [kinh tế học], điều cần thiết là phải phá vỡ những vòng phản
hồi trong hệ thống này.
Lời
kêu gọi đa nguyên xứng đáng được ca tụng. Đa
nguyên là một mục tiêu mà hầu hết các nhà cải cách đều đồng thuận. Nhưng theo
quan điểm của tôi, những nỗ lực cải cách kinh tế học trước đó đã thất bại vì
chúng lẩn tránh, hoặc không đủ thấu hiểu, hai rào cản chính đối với sự thay đổi.
Thoạt tiên, trông có vẻ không thể vượt qua được những rào cản này, nhưng nếu
không tận dụng chúng để tạo ra sự thay đổi, [kinh tế học] dòng chính sẽ vẫn chiếm
ưu thế bởi cách tiếp cận phân tích kinh tế chủ đạo.
Rào cản chính đầu tiên là xã
hội. Kinh tế học là một ngành
thường tưởng thưởng cho lòng trung thành đối với bộ lạc hơn là việc điều hòa ý
kiến bất đồng. Nếu bạn theo
dõi các blog về kinh tế học trong những năm gần đây, bạn có thể có cái
nhìn khá rõ về điều này. Nhưng những hoạt động sôi nổi
tương tự cũng xảy ra trong giới học thuật. Các tạp chí buộc [các bài viết
phải] tuân theo các phương pháp và các khái niệm ưa thích của mình và hành động
như người gác cổng cho bộ lạc,
yêu cầu tất cả mọi người khi đến bộ lạc đều phải dâng
hương kính lễ cho các tộc trưởng lão làng. Thêm vào đó, [kinh tế học]
dòng chính đại diện cho hơn 80% của ngành, vì vậy, bất kỳ thay đổi nào do các
nhóm thiểu số khởi xướng đều nhận được những cái chau mày khó chịu. Và đây
chính là hiện thực xã hội.
Thách thức về mặt xã hội này, về bản chất, là làm thế nào
mang các bộ lạc lại với nhau sao cho tất cả đều cảm thấy bản thân mình là “người
trong nhà” trong một nhóm mới lớn hơn. Điều này không có nghĩa là khiêu chiến với
các bộ lạc hùng mạnh, đặc biệt là không gây chiến với [kinh tế học] dòng chính
hiện nay; mà nó có nghĩa là nêu bật bất kỳ nền tảng chung nào mà các bộ lạc đồng
thuận và tin tưởng vào cách mà họ góp tay xây dựng một quan điểm tốt hơn về
kinh tế học. Còn nhiều vấn đề có thể bàn về các rào cản xã hội đối với sự thay
đổi trong kinh tế học, và tôi hy vọng sẽ giải quyết chúng vào chi tiết trong
tương lai. Nhưng với những mục đích hiện tại thì điều này cũng cung cấp đủ bối
cảnh để thảo luận về rào cản thứ hai đối với sự thay đổi.
Rào cản chính thứ hai là kỹ
thuật. Vấn đề liên quan đến kỹ thuật
ở đây là: Làm sao bạn có thể giảng dạy một chương trình đa nguyên khi không có
cấu trúc chính thức để giới thiệu nội dung từ các tư tưởng khác nhau và thường
trái ngược với nhau, và khi mà có rất ít học giả được đào tạo đủ khả năng để thực
hiện điều này?
![]() |
Simon Wren-Lewis |
Giảng dạy một chương trình đa nguyên không nên giống như là
đang giới thiệu bộ môn kinh tế học như thể nó là một trong các bộ lạc có mối
thù truyền kiếp. Tôi chia sẻ nỗi
lo sợ của Simon Wren-Lewis rằng một chương trình giảng dạy đa nguyên có
thể trở thành một cửa hàng mà sinh viên có thể mua sắm tất cả mọi thứ, họ lướt
qua các bộ lạc trước khi gia nhập vào bộ lạc nào phù hợp với hệ tư tưởng chính
trị hiện có của mình nhất. Thay vào đó, mục tiêu nên là đào tạo một thế hệ kinh
tế gia nhận thức được di sản của mỗi trường phái tư tưởng, và thừa nhận nền tảng
chung giữa chúng.
Có một câu châm ngôn xưa cũ cho rằng nếu bạn hỏi năm nhà kinh
tế cùng một câu hỏi, bạn sẽ nhận được năm câu trả lời khác nhau – và sáu nếu có
nhà kinh tế ở Harvard. Liệu chúng ta có thể giảng dạy một chương trình đa
nguyên mà chương trình này sẽ làm cho các kinh tế gia suy nghĩ theo cách tương
tự nhau, để rồi khi bạn đặt cùng một câu hỏi cho năm nhà kinh tế, bạn sẽ nhận
được một câu trả lời hay ho?
Vấn đề này cần một giải pháp có hệ thống. Ví dụ, chúng ta cần
suy nghĩ về phương cách để cấu trúc việc giảng dạy xung quanh các chủ đề và
khái niệm cho phép sinh viên có thể nghiên cứu các vấn đề và đánh giá các cách
tiếp cận tiềm năng. Chúng ta cần một giáo trình hoặc một bộ giáo trình thay thế
mà ở đó có thể thể hiện thỏa đáng mỗi cách tiếp cận và cuối cùng là cung cấp nền
tảng cho một chương trình giảng dạy đa nguyên.
Hiện nay, thậm chí các quyển giáo trình chính thống nhất cũng
chỉ bổ sung một vài ý kiến về các cách tiếp cận khác. Ví dụ, các trường phái kinh tế học thực nghiệm hoặc kinh tế
học hành vi phổ biến hiện nay - dù cho
khắp nơi coi đó là một cuộc cách mạng trong tư duy kinh tế và khoa học kinh tế
- nhận được rất ít tín nhiệm trong các quyển giáo trình phổ biến nhất. Sau khi
xem xét nội dung của 25 quyển giáo trình nhập môn kinh tế vi mô phổ biến ở bậc
đại học, Lombardini-Riipinien
và Autio thấy rằng:
“... mười trong số 25 quyển
giáo trình được kiểm tra không có tài liệu tham khảo nào về kinh tế học hành
vi; sáu quyển dành cho nó ít hơn 1% tổng số trang, sáu quyển từ 1% đến 2,6%, và
ba quyển từ 6% đến 11%. Khi thảo luận về kinh tế học hành vi, trọng tâm vẫn có
xu hướng bàn về duy lý hạn chế (bounded rationality) hơn là tư lợi hạn chế
(bounded self-interest) hoặc ý chí hạn chế (bounded willpower).”
“Kinh tế học thực nghiệm
không hề được thảo luận trong mười quyển giáo trình, mười hai quyển dành cho nó
ít hơn 0,6% tổng số trang, trong khi ba quyển dành từ 2% đến 10% tổng số
trang.”
![]() |
Joan Robinson (1903-1983) |
![]() |
John Eatwell (1945-) |
Joan Robinson đã cố gắng viết
lại toàn diện quyển giáo trình cốt lõi về nhập môn kinh tế học với John
Eatwell vào năm 1973. Tuy quyển sách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là đặt phân
tích kinh tế trong bối cảnh triết học và lịch sử, nhưng nó lại không cung cấp
khung sườn cố kết để dựa vào đó mà xây dựng sự thông hiểu về kinh tế học. Nó chứa
đựng rất ít nội dung hỗ trợ sinh viên trong việc trả lời các câu hỏi thực tế
hàng ngày về nền kinh tế. Tiền đến từ đâu? Làm thế nào để đo lường thất nghiệp?
Làm thế nào chúng ta có thể đánh giá các đối chọn thay thế để giải quyết các hiệu
ứng ngoại lai tiêu cực (negative externalities)? Khái niệm rất riêng về hiệu ứng
ngoại lai này có hữu ích không khi nó ngụ ý sự tồn tại của một thế giới không hề
có hiệu ứng ngoại lai?
![]() |
Điều cần thiết ở đây là một phương cách để kết cấu việc khảo
sát phân tích kinh tế bằng cách sắp xếp các vấn đề kinh tế xung quanh một số
lĩnh vực cốt lõi. Các phương pháp tiếp cận từ những trường phái tư tưởng khác
nhau có thể được đưa vào phân tích khi thích hợp, cùng với việc nhấn mạnh nền tảng
chung và các mối liên kết giữa chúng.
Theo quan điểm của tôi, để đạt được điều này đòi hỏi phải sắp
xếp những mô hình và ý tưởng vào các lĩnh vực khái niệm vượt khỏi các trường
phái tư tưởng cụ thể. Sau đó, bất kỳ chủ đề kinh tế nào cũng đều có thể được
trình bày như một vấn đề chung, chẳng hạn như, “Tại sao các công ty tồn tại?”,
hoặc “Tại sao chúng ta quan tâm đến việc phân bổ các nguồn lực?” Nhưng các cuộc
thảo luận này sẽ được cấu trúc thành các lĩnh vực có thể áp dụng rộng rãi.
Để minh họa, hãy xem xét sơ đồ sau đây. Hai mức thấp hơn (được
đánh dấu màu vàng) là hai lĩnh vực kinh tế học dòng chính hiện hành.
Khi thảo luận về hành vi của người tiêu dùng, nó sẽ được lưu
ý rằng đây là một phân tích về phúc lợi. Một giảng viên giỏi sẽ giải thích rằng
bất kỳ lựa chọn nào của người tiêu dùng cũng sẽ phụ thuộc vào tình hình trong
các lĩnh vực ở phía cao hơn [trong sơ đồ trên]. Khi thảo luận về sản xuất và
các lựa chọn của công ty, chúng sẽ được phác họa như là một trong những nguồn lực
thực được đồng thuận, hàng hóa vật chất mà chúng ta tiêu thụ, và tư bản hữu
hình mà chúng ta đầu tư. Một lần nữa, các lĩnh vực ở phía cao hơn [trong sơ đồ
trên] sẽ cung cấp kiến thức cho những điều này, chẳng hạn như ai sở hữu quyền đối
với tài sản. (Rốt cuộc thì bạn sẽ không thể xây dựng một tòa nhà mà không có
quyền hợp pháp đối với địa điểm bạn dự kiến sẽ xây.)
![]() |
Cameron Murray |
Chúng ta cần phải khám phá các mối liên kết giữa các lĩnh vực
và những hạn chế của từng lĩnh vực trong việc đưa ra lời giải thích cho toàn bộ,
và tôi hy vọng sẽ phát triển khái niệm này trong tương lai.
Nếu cộng đồng các nhà cải cách kinh tế không nỗ lực để tái
xây dựng đường lối giảng dạy kinh tế học, và đưa ra những quyết định khó khăn về
phương cách kết cấu các giáo trình cốt lõi mới, bao gồm những gì nên để lại và
những gì nên bỏ đi, khi đó sự thay đổi vẫn còn ngoài tầm tay. Chúng ta không thể
kêu gọi sự thay đổi trong môi trường xã hội bộ lạc của kinh tế học mà không đưa
ra một lựa chọn hấp dẫn thay thế - một lựa chọn mà trong đó bao trùm những tinh
hoa từ mỗi trường phái tư tưởng và tìm kiếm nền tảng chung mà không cần tạo ra
một tập hợp mới những người ngoài cuộc.
Nguyễn Hoàng Mỹ Phương dịch
Nguồn: Murray, Cameron. “Inside
the reform of Economics. Reforming Economics: The Challenge”. Inside, Vol. 1, no.1, November 10, 2014.
