Kinh tế học thực nghiệm
Experimental Economics
® Giải Nobel: ALLAIS, 1988 – NASH, 1994 – SELTEN, 1994
Kinh tế học thực nghiệm là một phương pháp điều tra mới trong khoa học
kinh tế. Phương pháp này nhằm quan niệm và thực hiện những thí nghiệm trong đó
những con người hay động vật hành động và tương tác với nhau trong một môi
trường được kiểm soát, rồi quan sát và nghiên cứu những sự kiện xảy ra nhằm xác
định qui luật, xác nhận/phủ định hay khơi lên những ý tưởng. Khác biệt với kinh
trắc học, một bộ môn xử lí những biến cố ngẫu nhiên hợp thành lịch sử và thời
sự, lẫn với những thử nghiệm mô phỏng lặp lại một cách giả tạo hoạt động của
một hệ thống kinh tế bằng một chương trình tin học, kinh tế học thực nghiệm tập
hợp những thí nghiệm tiến hành trong thế giới thực tế của nền kinh tế cũng như
trong thế giới thu nhỏ trong phòng thí nghiệm. Mục đích chính của những thử
nghiệm trên thực địa, trong đó có những thí nghiệm nổi tiếng nhất được
Greenberg và Shroder (1997) tổng hợp và những thí nghiệm gần đây nhất được phân
tích trong Journal of Economic Perpectives mùa xuân 1995 là giúp chính
phủ nào đặt hàng những thử nghiệm này đánh giá một dự án chính sách mới, như
chính sách thuế thu nhập âm. Nhiều tham vọng hơn, những thử nghiệm trong phòng
thí nghiệm nhằm cụ thể hoá ba cuộc đối thoại giữa nhà thực nghiệm với, theo thứ
tự, nhà lí thuyết, người bạn chí cốt của mình, và với người trách nhiệm chính
trị. Dưới đây chỉ đề cập đến những thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, những thử
nghiệm này thường được trình bày trong các tạp chí, trong số đó có tạp chí Experimental
Economics dành riêng cho chủ đề này.
Daniel Bernouilli (1700-1782) |
John Nash (1928-2015) |
Theo Kagel và Roth (1995), hai tác giả đã tổng hợp kinh văn này, thử
nghiệm đầu tiên kiểu này do Daniel Bernouilli tiến hành về nghịch lí
Saint-Pétersbourg, một nghịch lí cho phép lí thuyết ra quyết định trong tình
thế bất trắc vượt qua một giai đoạn đầu bằng cách để kì vọng lợi ích thế chỗ
của kì vọng thu hoạch. Được công bố lần đầu năm 1738, và in lại trong Econometrica
năm 1954, công trình này ở ngọn nguồn của bộ phận thứ nhất – quyết định – (nghịch lí
Allais cũng gắn với bộ phận này) của bộ ba hợp thành, theo Davis và Holt (1992)
kinh tế học thực nghiệm. Bộ phận thứ hai của bức tranh này liên quan đến quyết
định đồng thời và bắt đầu, vào cuối những năm 1950, bằng những thử nghiệm về
thế tiến thoái lưỡng nan của người tù. Cũng có thể gắn Nash và Selten với những
nghiên cứu này nhằm tạo ra một lí thuyết trò chơi thực chứng bổ sung cho của lí
thuyết chuẩn tắc. Chamberlin là nhân vật chính của bộ phận thứ ba: những công
trình của ông, nhằm xác thực bằng thử nghiệm tầm quan trọng của lí thuyết của
ông về cạnh tranh độc quyền và được công bố năm 1948 trong Journal of
Political Economy, là điểm xuất phát của nhiều thử nghiệm, đặc biệt là
những thử nghiệm của Smith và Plott.
Reinhard Selten (1930-) |
Theo Smith, người phát triển ý tưởng này đặc biệt trong Journal of
Economic Perspectives mùa hè 1989, có hai sự kiện giải thích sự phong phú
như được nhấn mạnh trên đây của kinh tế học thực nghiệm. Sự kiện thứ nhất, một
sự kiện cho phép có được việc thử nghiệm, là tầm quan trọng ngày càng tăng của
những hệ thống kinh tế vi mô trong lòng của khoa học kinh tế. Mỗi một hệ thống
này là một tập hợp gồm có ba phần tử sau: môi trường, thể chế, hành vi. Bằng
cách kiểm soát hai phần tử đầu, nghĩa là, một mặt các tác nhân và, mặt khác,
các thông điệp, hành động có thể và luật chơi, nhà thực nghiệm có thể xác
nhận/phản bác những mệnh đề của lí thuyết về phần tử thứ ba. Sự kiện thứ hai,
đảm bảo giá trị của những cuộc thử nghiệm, là những cuộc thử nghiệm này thoả
mãn năm nguyên lí – không bão hoà, hiển nhiên, không chết, bí mật và song song – mà những hệ quả đối với mỗi tác nhân theo thứ tự là: lợi ích
của tác nhân là một hàm đơn điệu tăng với những thu hoạch của tác nhân; thu
hoạch của tác nhân là một hàm biết được của những hành động của tác nhân này và
của các tác nhân khác, phần thưởng mà tác nhân có thể thu được là động cơ duy
nhất của những hành động của tác nhân; tác nhân chỉ có thông tin về những chu
cấp và phần thưởng của bản thân; tác nhân vận động trong một môi trường giống
gần nhất có thể với thế giới kinh tế. Tôn trọng năm nguyên lí này, những nguyên
lí làm cơ sở cho những phương pháp thực nghiệm được Friedman và Sunder (1994)
mô tả, thì nhà thực nghiệm chắc chắn là sẽ xây dựng một cách vững chắc.
Là nguồn gốc của tiến bộ khoa học, kinh tế học thực nghiệm cũng có một ích
lợi sư phạm. Những thực nghiệm làm trong lớp học, mà ngày càng có nhiều tạp
chí, như Economic Inquiry, dành một phần để phát triển, giúp sinh viên
tự khám phá những khái niệm cơ bản của lí thuyết kinh tế. Trên lĩnh vực này,
tác phẩm của Bergstrom và Miller (1997) là quí báu.
▶ BERGSTROM T. C. & MILLER J. H., Experiments with
Economic Principles, New York, McGraw-Hill, 1977. – DAVIS D. D.
& HOLT C. A., Experimental Ecconomics, Princeton, University Press,
1993. – FRIEDMAN D. & SUNDER D.,
Experimental Methods: a Primer for Economists, Cambridge,
University Press, 1994. – GREENBERG D. & SHRODER M., The Digest of Social
Experiments, Washington, Urban Institute Press, 1997. – KAGEL J. H.
& ROTH A.E., The Handbook of Experimental Economics, Princeton,
Princeton University Press, 1995.
Régis DELOCHE
Giáo sư đại học Franche-Comté (BesanVon)
Nguyễn Đôn Phước dịch
Nguồn: Dictionnaire des sciences
économiques, sous la direction de Claude Jessua, Christian Labrousse,
Daniel Vitry, PUF, Paris, 2001