30.8.23

Cuộc sống trong xã hội: một sự ngẫu hứng. Phỏng vấn Howard Becker

CUỘC SỐNG TRONG XÃ HỘI: MỘT SỰ NGẪU HỨNG

Phỏng vấn Howard Becker

Pauline Peretz, Olivier PilmisNadège Vezinat

PTKT: Howard Becker (1928-2023), nhà xã hội học Mĩ vừa qua đời hôm 16.8.2023. Chúng tôi đăng dưới đây bài phỏng vấn Howard Becker của tạp chí La vie des idées năm 2015.

Nhà xã hội học người Mỹ Howard Becker nổi tiếng vì ông bác bỏ lý thuyết và gắn bó với việc quan sát dân tộc học về các thế giới mà bản thân ông là một tác nhân. Hỏi “làm thế nào” thay vì “tại sao” là một trong những bài học chính của ông dành cho các nhà xã hội học.

Là giáo sư lâu năm tại Đại học Northwestern và Đại học Seattle, ông là một trong những nhà tư tưởng chủ chốt của thuyết tương tác. Dựa trên nghệ thuật, triết học và âm nhạc, trong cuộc phỏng vấn này, Howard Becker thể hiện lập trường chiết trung của mình và bộc lộ quan điểm phân tích độc đáo của ông: một cách tiếp cận đơn giản và thiết thực để nắm bắt các hiện tượng xã hội phức tạp, những ví dụ cụ thể để tạo nội dung cho những ý tưởng trừu tượng.

Sự hiểu biết được chia sẻ

La Vie des idées: Vấn đề về trật tự xã hội, các chuẩn mực và sự xuất hiện của các chuẩn mực là trọng tâm trong các công trình của ông. Ông đã quan tâm đến vấn đề này như thế nào?

Howard Becker: Tôi không sử dụng khái niệm chuẩn mực mà là khái niệm “sự hiểu biết được chia sẻ”. Chuẩn mực giống như một quy tắc trong khi sự hiểu biết được chia sẻ là những gì bạn và tôi có thể cùng thống nhất để đạt được điều mình mong muốn. Đây không phải là một quy tắc mà chúng ta đã có thể chấp nhận. Đây là những gì chúng ta chấp nhận ngay bây giờ. Chúng ta muốn thực hiện một cuộc phỏng vấn nên chúng ta sẽ làm như thế này, chúng ta có thể làm như thế kia. Khái niệm “sự hiểu biết được chia sẻ” không giả định trước sự tồn tại của một thỏa thuận - tuy nhiên, thỏa thuận này có thể tồn tại, nhưng chỉ về chủ đề (vâng, chúng ta sẽ thảo luận) - nhưng nói chung hơn thì đây không phải là trường hợp, chúng ta sẽ tìm thấy được trong quá trình thực hiện những gì chúng ta có thể đồng ý với nhau.

La Vie des idées: Mối quan tâm đến vấn đề của sự thỏa thuận và sự hiểu biết được chia sẻ đến từ đâu?

Howard Becker: Đối với tôi, đó là một ý tưởng cơ bản. Nó giải thích sự tồn tại của xã hội. Mọi người hiểu nhau. Tôi biết rằng bạn biết. Tôi nghĩ rằng nếu tôi làm điều này, tôi có thể mong đợi bạn làm điều kia, nói một cách đại khái. Và cũng có thể bạn không làm nó. Nói chung là bạn thường không làm đúng như những gì tôi dự đoán. Nhưng bạn làm điều gì đó cho phép tôi phản ứng. Wittgenstein có câu nói tuyệt vời “Nếu con sư tử biết nói, chúng ta sẽ không hiểu nó”: ý ông ấy là chúng ta không có cùng một lối sống. Nhưng tôi xin sửa lại câu này như sau: “Nếu con sư tử biết dùng lời nói thì thoạt tiên chúng ta sẽ không hiểu nó được”. Bởi vì nếu chúng ta bắt đầu nói chuyện thì chúng ta sẽ bắt đầu cuộc sống chung... Đây là hình ảnh minh họa cho quan điểm của tôi. Tôi không biết lập luận này đến từ đâu, nhưng tôi nghĩ nó đến với tôi khi tôi còn là sinh viên ở Chicago.

La Vie des idées: Vấn đề này hiện diện trong mọi công trình của ông. Nó là một chủ đề định hướng cho nghiên cứu của ông.

Bruno Latour (1947-2022)

Howard Becker: Đúng và không đúng. Tôi không xuất phát từ ý tưởng này. Đối với tôi, ý tưởng này không ngừng được làm phong phú, nó có thêm những nghĩa mở rộng, những âm cộng hưởng (theo nghĩa âm nhạc của thuật ngữ này). Tôi ngày càng hiểu sâu hơn ý nghĩa của nó. Tôi không thể chấp nhận ý tưởng xử lý toàn bộ ý tưởng, suy nghĩ và công việc của mình như là một tổng thể. Nó giống một cuộc hành trình hơn. Theo thời gian, mọi thứ thay đổi. Hai mươi lăm năm trước tôi đã làm việc sáu tuần tại Đại học Manchester. Sau khi giảng dạy ở đó, tôi tới các đảo của Anh để giảng sáu bài ở các trường đại học khác nhau. Tôi có cảm tưởng rằng ở mọi nơi, bất kể tôi đã nói gì, khi tôi nói xong, một thanh niên sẽ đứng dậy và nói với tôi: “Thưa Giáo sư Becker, năm 1965 ông viết điều này, nhưng năm 1972 ông lại viết điều kia. Hai điều này mâu thuẫn với nhau. Ông giải thích điều này như thế nào? Đối với tôi, điều này không thành vấn đề: kể từ đó, tôi đã khám phá ra điều mà trước đây tôi chưa biết và nhờ đó suy nghĩ của tôi đã phát triển. Những gì tôi viết luôn luôn mới. Ý tưởng của tôi liên tục thay đổi. Và tôi nghĩ đó là bức chân dung thực tế hơn về sự lao động khoa học. Bởi vì tôi tin rằng những gì chúng tôi đang làm là khoa học. Đó không phải là thương mại. Nội dung là quan trọng. Chúng tôi cố gắng giải mã cách thế giới vận hành chứ không phải muốn tạo ra một cấu trúc ý tưởng hoàn hảo. Đây là cách nhìn của tôi về sự lao động khoa học. Theo nghĩa này, cách suy nghĩ của tôi có vẻ rất giống với những gì các nhà xã hội học khác làm, chẳng hạn như Latour. Đây là một lĩnh vực rất năng động. Khi họ nói về khoa học, đối với tôi công việc tôi làm dường như tìm thấy được chỗ đứng ở trong đó, hơn là mục đích xây dựng một cấu trúc đẹp đẽ gồm những ý tưởng hài hòa hoàn hảo. Tôi không bắt đầu từ một ý tưởng mà sau đó được tôi phát triển. Tôi bắt đầu với một ý tưởng và nó đã thay đổi, sau đó nó tiếp tục tiến hóa.

Cuốn sách cuối cùng tôi xuất bản bằng tiếng Anh, với Robert Faulkner, có tựa đề Bây giờ chúng ta chơi bài nào đây/Qu’est-ce qu’on joue maintenant?[1]. Tôi nghĩ đây là một cột mốc quan trọng trong việc hiểu cách mọi người hành động và chia sẻ những hiểu biết. Bài viết mở đầu bằng một câu hỏi. Bốn người đến một quán bar hoặc nơi nào đó, họ không biết nhau, không có bản dàn bè và đã gần đến lúc bắt đầu. Họ làm gì đây? Họ cùng chơi với nhau được. Mọi người trong quán bar đều nghĩ rằng họ đã chơi cùng nhau nhiều năm rồi. Họ đã làm như thế nào? Đây là câu hỏi nghiên cứu của chúng tôi. Câu trả lời đầu tiên của chúng tôi, rút ​​ra từ kinh nghiệm của chúng tôi, là: họ đều biết cùng những bài hát nên họ chỉ cần nói tên bài hát là có thể chơi bài hát đó. Khi Robert Faulkner bắt đầu cuộc điều tra thực địa, ông đã ghi lại những gì xảy ra. Và đó không phải là những gì đã xảy ra. Điều xảy ra là một người nói “Chúng ta chơi bài ‘Let's Fall In Love’. Thật ra, anh ấy nói, “Anh có biết “Let’s Fall In Love” không? Và một người khác nói, “Chắc chắn rồi, âm điệu nào?” “Si giáng”. “Được rồi, chơi thôi”. Nhưng đôi khi có người nói “Không, tôi không biết bản đó”. Lúc đó chuyện gì sẽ xảy ra? Chúng ta thấy rằng có cả một quá trình làm việc tập thể được tiến hành để xem họ có thể làm gì. Đó là một phép ẩn dụ hoàn hảo cho sự hiểu biết được chia sẻ: có một số điều chúng ta đều biết, một số điều không phải mọi người đều biết, nhưng chúng ta có thể sử dụng những gì mình biết để có thể chơi cùng nhau. Một câu trả lời điển hình khác có thể là: “Không, tôi không biết bản nhạc này, nhưng nếu anh chơi đoạn jazz ngẫu hứng đầu tiên thì tôi có thể chơi đoạn ngẫu hứng thứ hai”. Họ có một khối kỹ năng chung đủ để chơi cùng nhau. Đó là điều tôi đã học được. Tôi đã nghiên cứu ý tưởng về sự hiểu biết được chia sẻ này trong một thời gian dài, nhưng mãi đến hôm nay tôi mới thực sự hiểu được ý nghĩa của nó. Theo nghĩa này, đời sống xã hội có thể được coi là sự ngẫu hứng. Mọi người ứng biến và khi họ tìm thấy thứ gì đó hiệu quả, họ sẽ nắm lấy nó.

Những nghề nghiệp thông thường

La Vie des idées: Ông đã từng nghiên cứu về các nghề nghiệp. Ở Pháp, ngày nay có mối quan tâm ngày càng rõ rệt đến các ngành nghề gắn liền với ảnh hưởng của các lý thuyết Anh-Mỹ cũng như ảnh hưởng của xã hội học về các nhóm nghề nghiệp; các biến thể của thuyết chức năng và thuyết tương tác của Mỹ đang phát triển. Ông đặt nghiên cứu của mình về các ngành nghề (chẳng hạn như công việc của ông về các giáo viên) trong mối quan hệ với xã hội học về nghề nghiệp mới này của Pháp như thế nào?

Everett Hughes (1897-1983)

Howard Becker: Khi tôi còn là sinh viên, người hướng dẫn/mentor tôi, Everett Hughes, đang đọc một bài giảng có tên Xã hội học về nghề nghiệp. Nhưng ông cho rằng đó là một sai lầm: sinh viên quan tâm đến chúng vì họ cho rằng những ngành nghề nổi tiếng này (luật, y, tôn giáo, v.v.) khác với các loại ngành nghề khác. Họ coi đây là những nghề tốt hơn, cao quý hơn. Hughes cho rằng đây là một góc nhìn rất phiến diện về thế giới lao động. Khi tôi nói với ông ấy rằng tôi sẽ thực hiện nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ về các nhạc sĩ trong các quán bar, thật ra ông ấy đang tìm kiếm những người như tôi, sẵn sàng nghiên cứu những hiện tượng kém uy tín hoặc danh giá hơn. Nói tóm lại là những nghề bình thường. Sau đó, ông nhanh chóng đổi tên khóa học của mình, đầu tiên trở thành “Xã hội học về các ngành nghề/métier và các nghề nghiệp/profession” sau đó là “Xã hội học về các nghề”. Và cuối cùng nó trở thành Xã hội học Lao động.

Trong xã hội học Mỹ, có một mối quan hệ đặc biệt giữa các nghề nghiệp và thuyết chức năng. Talcott Parsons tin rằng có những vấn đề cơ bản, những giá trị cơ bản sâu sắc và rằng các nghề nghiệp đã hiện thực hóa, thể hiện những lý tưởng cao nhất đó, những giá trị của xã hội. Đó là về những điều quan trọng, chẳng hạn như y khoa, cơ thể, sức khỏe. Đây không phải là kết luận nghiên cứu của ông. Đó là một niềm tin. Bởi vì nếu bạn biết các bác sĩ, luật sư, bạn sẽ biết họ cũng là những người như bao người khác, không cao thượng đến thế.

Eliot Freidson (1923-2005)

Đối với tôi và các đồng nghiệp của tôi, chẳng hạn như Eliot Freidson, các nghề nghiệp là một quy ước xã hội mà một số người có tổ chức trong công việc của họ dựa vào vì nó mang lại cho họ nhiều quyền tự chủ hơn, quyền tự do làm những gì họ muốn. Trong khi các nhạc công trong quán bar có nghĩa vụ phải làm theo những gì người chủ ra lệnh cho họ. Họ không thể nói không với ông ấy, “Tôi đại diện cho lý tưởng âm nhạc của xã hội chúng ta”, họ chơi những gì họ được yêu cầu chơi. Vì vậy, đối với tôi, nghề này chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể lớn hơn của xã hội học lao động. Đối với Hughes, xã hội học lao động được mở rộng đến mọi thứ. Anh ấy thích nói rằng mọi thứ xảy ra đều là kết quả công việc của ai đó.

“Bất cứ điều gì có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn”

La Vie des idées: Trong cuốn sách của ông Các thế giới của nghệ thuât/Les mondes de l'art[2], ông sử dụng khái niệm “thế giới” để chỉ lĩnh vực nghệ thuật cũng như để chỉ các giới chuyên môn khác. Khái niệm “thế giới” cho phép ông nhấn mạnh đến khái niệm “sự hiểu biết được chia sẻ” mà chúng ta vừa nói đến. Khi làm như vậy, ông phân biệt mình với một truyền thống khác sử dụng một khái niệm khác để giải thích logic của thế giới nghệ thuật, khái niệm “trường” của Bourdieu. Ông không đề cập đến nó trong cuốn sách này.

Howard Becker: Tôi chưa đọc Bourdieu khi bắt đầu viết về các thế giới của nghệ thuật, bởi vì ông ấy chưa viết những điều đó. Khi lần đầu tiên tôi đề xuất ý tưởng về một thế giới nghệ thuật, trong một bài báo năm 1974, nó không nhằm mục đích gây ra một sự đoạn tuyệt. Lúc đó tôi chưa đọc được tiếng Pháp. Tôi đã học được sau này. Tôi thường nói thế nhưng cũng không kém phần đúng: cuốn sách đầu tiên tôi đọc bằng tiếng Pháp là tác phẩm về thị trường nghệ thuật của Raymonde Moulin[3]. Đối với tôi, đó là xã hội học nghệ thuật của Pháp. Công việc của Bourdieu không có ích gì cho tôi. Khái niệm “thế giới” đề cập đến một thực tế hoàn toàn khác với thực tế có trong khái niệm “trường”. Khái niệm “trường” chứa đầy những thứ mà mắt thường không thể thấy được, những thế lực vô hình. Ngược lại, ý tưởng về thế giới đề cập đến những thứ hữu hình, những thứ phổ biến có thể dễ dàng quan sát được. Nhìn vào bất cứ đâu, tôi đều quan sát thấy hoạt động của những kết nối cấu thành nên thế giới nghệ thuật. Giai thoại tuyệt vời này đã xuất hiện với tôi khi xem xét tiểu sử của Picasso, về người đàn ông đã làm ra đồ gốm mà Picasso trang trí. Người thợ này nói rằng điều Picasso yêu cầu ở ông là không thể, nhưng Picasso đã thao túng ông ấy để cuối cùng ông ấy cũng làm điều Picasso muốn, những điều mà ông ấy đã nói là không thể làm được. Khi người thợ gốm nói với ông “Thưa ông không thể được”, Picasso trả lời: “À, xin lỗi, tôi tưởng ông là người có tài và hình như ông cũng không có tài như người ta nghĩ”. Điều này là tài năng của Picasso. Là một nghệ sĩ, ông phải biết phải nói gì với người đàn ông này để khiến anh ta làm được điều mà anh ta không thể làm được. Ý tưởng về “trường” không có chỗ cho điều này. Tôi thậm chí không nghĩ có mâu thuẫn giữa Bourdieu và tôi, tôi nghĩ đó chỉ là một cách suy nghĩ khác mà thôi. Đối với tôi, ý tưởng trường không hữu ích[4]. Tôi không quan niệm khoa học xã hội như là một chiến trường. Tất nhiên, đôi khi điều này cũng xảy ra, nhưng cốt lõi của nghề là khám phá. Điều này hoạt động như thế nào? Quán bar này, kia… những người này làm thế nào để có thể làm việc cùng nhau? Tất cả điều này đòi hỏi một lời giải thích. Đây là điều tôi muốn giải thích. Từ một quan điểm khác, vấn đề được đặt ra như sau: “Ở đây, nơi tôi nhìn, chắc chắn có một hình thức thống trị. Nó nằm ở đâu?”. Nhưng nếu bạn quan sát những gì đang thực sự xảy ra trong không gian này, bạn có thấy sự thống trị ở đó không? Đây là một vấn đề thực sự. Chắc chắn là có, nhưng điều đó không làm cạn kiệt tình huống. Đây là loại vấn đề mà tôi quan tâm. Điều khiến tôi quan tâm chỉ đơn giản là để những ý tưởng này phát triển bình thường và xem có thể học được gì từ chúng. Chính Hughes là người đã truyền đạt cách tiếp cận này cho tôi. Cách này rất thiết thực. Bất cứ điều gì hoạt động tốt đều có thể được sử dụng. Bất cứ điều gì có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn.

Sự lệch lạc là sự phán xét

La Vie des idées: Trong định nghĩa về sự lệch lạc mà ông đề xuất trong cuốn Người ngoài cuộc/Outsiders[5], có một mức độ tùy tiện đáng kể. Ông đưa ra ví dụ về Cục Ma túy Liên bang, sau đạo luật cấm, đã trở thành một ông chủ đạo đức. Dường như ông cũng đi đến cùng những kết luận như Foucault mặc dù ông đi theo một con đường rất khác để đạt được điều đó. Công trình của Foucault có góp phần giúp ông suy ngẫm về sự lệch lạc không?

François-Xavier Dudouet

Howard Becker: Không. Nhiều năm sau, tôi biết được từ một nhà nghiên cứu trẻ người Pháp rằng những gì tôi viết về sự phát triển của đạo luật này là rất ngây thơ. François-Xavier Dudouet đã viết một luận án xuất sắc về việc kiểm soát quốc tế các chất bất hợp pháp[6]. Ở Hoa Kỳ, các luật cấm sử dụng ma túy đều được biện minh bởi một ý tưởng và lý do này là như sau: Hoa Kỳ đã tán thành ký một hiệp ước quốc tế với các quốc gia khác, yêu cầu phải áp dụng những luật đó, do đó Hoa Kỳ có nghĩa vụ theo pháp luật này vì những hiệp ước quốc tế có tính ràng buộc này, được ký kết đầu tiên dưới thời Hội Quốc Liên và sau đó là Liên Hiệp Quốc. Nhưng đó không phải là nguồn gốc của những điều cấm đoán. Không ai trong số những người liên quan đến việc ký kết các thỏa thuận này quan tâm đến vấn đề nghiện ngập hoặc sử dụng trái phép ma túy. Những gì họ muốn hoàn toàn khác: duy trì sự độc quyền của Pháp, Anh và Hoa Kỳ trên thị trường ma túy hợp pháp, về thuốc phiện được sử dụng trong chăm sóc y tế và các bệnh viện. Đây là vấn đề tài chính. Các quốc gia này muốn duy trì sự độc quyền sinh lời rất cao. Đó không phải về những người nghiện ma túy trên các đường phố. Điều được mất là các bệnh viện và các phòng khám y tế, nơi sử dụng rất nhiều cocaine và morphine mỗi ngày. Đây chính là nơi của sự thách thức tài chính. Đại diện của các quốc gia này muốn đảm bảo rằng không ai đưa ma túy bất hợp pháp vào thị trường, điều này sẽ làm xáo trộn sự độc quyền của họ. Vì vậy, tất cả mọi thứ mọi người đã viết về nó là sai. Tôi cho rằng Foucault đã không nhận thức được khía cạnh cơ bản này của vấn đề. Vì vậy, bây giờ tôi có một cái nhìn hoàn toàn khác về những sự kiện này. Trên thực tế, đó là những chủ thể chính trị và kinh tế quan tâm đến lợi ích của mình.

La Vie des idées: Ông xác định chuẩn mực một cách tương đối - liên quan đến một thời điểm lịch sử, đến một nhóm cụ thể. Những người tự nhiên bị gắn mác “lệch lạc” cũng tuân theo một bộ quy tắc đặc thù của một nhóm. Ông không sợ khái niệm “lệch lạc” sẽ bị loãng đi?

Michel Foucault (1926-1984)

Howard Becker: Tôi không bao giờ sử dụng thuật ngữ “chuẩn mực”. Tôi thích ý tưởng về “quy ước được chia sẻ”. Đó không chỉ là vấn đề về cách sử dụng từ mà còn là ý tưởng nằm sau từ này mà tôi bác bỏ. Mọi người không có chuẩn mực, họ có ý tưởng. Nếu bạn làm điều này theo cách như vậy thì chắc chắn bạn có lý do để tiến hành theo cách này. Nếu bạn không làm theo cách đó thì sẽ lãng phí thời gian của bạn, vì vậy tôi sẽ chỉ cho bạn cách thực hiện. Đó không phải là một chuẩn mực mà là một thực tiễn. Các chuẩn mực luôn có hàm ý “đây là điều bạn phải làm”. Nhưng sẽ không có ai nói với bạn rằng điều cần làm là hút cần sa, hoặc bạn phải hút cần sa vì nếu không thì bạn đang đi sai hướng. Tuy nhiên, điều họ sẽ nói với bạn là, “Nếu bạn muốn đạt được kết quả này – bị phê thuốc – tốt nhất bạn nên hút thuốc như thế này”.

David Matza (1930-2018)

Sự lệch lạc là kết quả của một công việc định nghĩa. Không có sự lệch lạc tự nó. Bạn biết đấy, nó giống như con vịt-con thỏ trong ảo ảnh quang học. Nhìn từ một góc độ, nó trông giống như một con vịt. Nhưng nhìn từ một góc độ khác, nó trông giống một con thỏ. Có một định nghĩa tuyệt vời về ý tưởng này trong tiếng Pháp. Mauvaise herbe/Cỏ dại[7] là gì? (Nghĩa đen là “cây xấu”, tức là trong tiếng Anh thông dụng là “cỏ dại”). Bản thân nó không phải là xấu, nó chỉ đơn giản được tìm thấy ở nơi không muốn sự hiện diện của nó. Ví dụ, đối với tôi, bụi ngấy không phải là cỏ dại, nó là một loại dâu tằm dại cho quả mọng thơm ngon. Nhưng đối với người có vườn thì đó là một loại cỏ dại đáng sợ. Đây là một ví dụ sáng tỏ cho việc suy nghĩ về những vấn đề như vậy. Một trong những nhà xã hội học đầu tiên về sự lệch lạc ở Hoa Kỳ, David Matza[8], thậm chí còn viết một bài báo mà ông chưa bao giờ xuất bản về “cỏ dại”. Đó là một phép ẩn dụ hoàn hảo.

La Vie des idées: Điều ông nói là con người luôn lệch lạc so với một người khác? Nhưng liệu sự lệch lạc có thực sự tồn tại nếu nó phụ thuộc vào vị trí của mỗi người?

Howard Becker: Sự lệch lạc là một sự phán xét hơn là một sự thật. Nó giống như ảo ảnh quang học. Tôi biết mọi người suy luận như vậy, họ không nhận thấy rõ ràng cái lý luận của chính mình, tôi biết đó điều xảy ra và tôi chấp nhận rằng một số người cũng nghĩ như vậy. Vì vậy, đối với tôi điều đó là hiển nhiên, cũng như đối với họ. Nếu tôi bảo họ hãy chỉ cho tôi thấy sự lệch lạc, họ sẽ nói “Đừng ngốc nghếch. Anh biết tôi muốn nói gì rồi”. Không. Tôi giống như chương đầu tiên trong cuốn Khoa học hành động/La science en action[9] của Latour, bạn thấy đấy: một con người nghi ngờ, “Tôi không hiểu điều đó, hãy cho tôi xem cái máy này, làm sao bạn biết cái máy này hoạt động?” Cuối cùng, nhà khoa học nói: “Hãy nhìn xem, chúng tôi thêm morphine vào dung dịch và cơ bắp sẽ phản ứng như thế này”. Và ta hỏi “Nhưng làm sao bạn biết đó là morphin?” Nhà khoa học nói, “Hãy nhìn vào nhãn, nó ghi ‘morphine’, nó được sản xuất bởi một phòng thí nghiệm ở Chicago”, “Nhưng làm sao bạn biết họ không nói dối?” “Thôi nào, cút đi.” Đến một lúc nào đó, phải phát điên mới cố gắng tiếp tục cuộc thảo luận. Tất nhiên, đôi khi morphine không thực sự là morphine. Một số công ty gian lận. Nhưng có những điều chúng ta chấp nhận. Chúng tôi sẽ không đấu tranh, chúng tôi chấp nhận rằng nếu nhãn ghi morphin thì đó là morphin. Điều này cũng đúng với nghệ thuật. Làm sao chúng ta biết đây là nghệ thuật, đối lập với bất cứ thứ gì không phải là nghệ thuật? Khi tôi còn là sinh viên, một thời gian ngắn, tôi có theo học khóa nhiếp ảnh nghệ thuật ở một trường nghệ thuật ở San Francisco, có một nghệ sĩ người Pháp khách mời đang chụp ảnh và lấy đi những đồ vật trên bàn nhà hàng ngổn ngang chén dĩa và món ăn chưa ăn, thức ăn thừa từ những bữa ăn thực sự. Đó có phải là nghệ thuật? Điều này nhấn mạnh tính trung tâm của Marcel Duchamp. Câu hỏi đặt ra không phải là việc Duchamp đang làm có phải là nghệ thuật hay không. Đó là nghệ thuật vì nó ở trong bảo tàng. Đây là định nghĩa chức năng của nghệ thuật: nó ở trong bảo tàng, các nhà sưu tập sẵn sàng chi trả để sở hữu được nó. Tuy nhiên, về mặt triết học, có một khó khăn thực sự. Giới nghệ thuật đã xác định lập trường về Duchamp, họ đều đồng ý rằng đó là nghệ thuật. Vì vậy, trong thực tế, đó không phải là một vấn đề, nhưng ở cấp độ triết học thì đó là vấn đề.

La Vie des idées: Trong Người ngoài lề-cuộc/Outsiders, ông cho thấy lệch lạc là cả một sự nghiệp. Theo ông, câu hỏi thích đáng không phải là “tại sao” mà là “như thế nào”. Tuy nhiên, câu hỏi “tại sao La vie des idées” dường như kháng cự lại điều này, như được minh họa bằng sự gia tăng nhanh chóng của các nghiên cứu dịch tễ học, các bài phát biểu chính trị...

Howard Becker: Tôi nói phải đặt câu hỏi “như thế nào” chứ không phải “tại sao” vì một lý do rất thiết thực. Nếu tôi hỏi bạn “tại sao bạn lại trở thành nhà xã hội học”, bạn sẽ phải cho tôi một câu trả lời xác đáng. Tuy nhiên, hầu hết chúng ta đều không biết mình dấn thân vào con đường nào khi chọn nghề này. Tôi chưa bao giờ có ý định trở thành một nhà xã hội học, tôi muốn trở thành một nghệ sĩ piano tuyệt vời [Becker là người đam mê nhạc jazz; ông đã từng chơi piano trong những ban nhạc chuyên nghiệp ở môt một số quán nhạc – ND) . Xã hội học chỉ là một trò tiêu khiển. Nhưng vài năm sau, tôi nhận ra rằng mình có thể trở thành một nghệ sĩ piano giỏi, nhưng không bao giờ trở thành một nghệ sĩ piano tuyệt vời. Tôi phải thừa nhận sự thật: tôi là nhà xã hội học, không phải nhạc sĩ chuyên nghiệp. Tôi vẫn không thể nói cho bạn biết tại sao tôi lại trở thành nhà xã hội học, nhưng tôi có thể cho bạn biết bằng cách nào. Nếu tôi hỏi tại sao thì câu trả lời đưa ra sẽ mang tính phòng thủ, người được hỏi sẽ muốn đưa ra lý do “chính đáng”, có thể bào chữa được. Nhưng nếu tôi hỏi, “Sao chuyện này lại xảy ra?” bạn có thể cho tôi câu trả lời thực tế. Cách tiếp cận này có nguồn gốc chính xác từ Hoa Kỳ, trong bài báo năm 1940 của C. Wright Mills, “Hành động trong tình huống và Từ vựng về Động cơ/Situated Actions and the Vocabulary of Motives[10].

Cuộc phỏng vấn được Pauline Peretz, Olivier Pilmis và Nadège Vezinat thực hiện, ngày 12 tháng 10 năm 2010 ở Paris. Bản dịch tiếng Pháp của Nicole Forstenzer được đưa lên trang mạng của La Vie des Idées ngày 3 tháng 2 năm 2015.

Pauline Peretz & Olivier Pilmis & Nadège Vezinat

Phạm Như Hồ dịch

Nguồn:La vie en société; une improvisation. Entretien avec Howard Becker”, La vie des idées, 3.2.2015.




Chú thích:

[1] Qu’est-ce qu’on joue maintenant? Le répertoire de jazz en action (La Découverte, 2011 pour la traduction française de Bruno Gendre; édition originale en anglais: Chicago: University of Chicago Press, 2009), coécrit avec Robert R. Faulkner.

[2] H.S. Becker, Les mondes de l’art (Paris: Flammarion, 1988 pour la traduction française; original: Art Worlds, Berkeley: University of California Press, 1982).

[3] R. Moulin, Le marché de la peinture en France. Paris, Minuit, 1967 (Abridged English translation: The French Art Market. A Sociological View. New Brunswick, Rutgers, 1987).

[4] Howard S. Becker et Alain Pessin: Dialogue sur les notions de Monde et de Champ, Sociologie de l’Art, 2006/1 OPuS 8, p. 163-180. DOI: 10.3917/soart.008.0163.

[5] Howard Becker, Outsiders. Études de sociologie de la déviance, Métailié, Paris, 1985 (éd. originale 1963).

[6] F.-X. Dudouet, Le grand deal de l’opium: Histoire du marché légal des stupéfiants. Paris, Syllepse, 2009.

[7] Chú thích: tiếng Pháp trong nguyên tác.

[8] Cf. D. Matza, Becoming Deviant. Englewood Cliffs (NJ), Prentice Hall, 1969.

[9] B. Latour, La science en action. Paris, La Découverte, 1987.

[10] C. W. Mills, “Situated Actions and Vocabularies of Motive”, American Sociological Review 5 (6), 1940: 904-913.

Print Friendly and PDF