13.8.24

Thời Đại Khai Sáng – Hai luồng triết học chính

THỜI ĐẠI KHAI SÁNG – HAI LUỒNG TRIẾT HỌC CHÍNH

Tác giả: Tôn Thất Thông

Trong thời đại khai sáng, những lâu đài triết học mọc lên một cách nhộn nhịp, liều lĩnh và kiêu kỳ. Triết học trong thời đại này được vinh danh rực rỡ như chính trào lưu nghệ thuật Barock đương thời. Những tên tuổi lớn như Descartes, Spinoza, Leibniz cũng như Locke, Hobbes, Hume đại diện cho những lâu đài triết học tráng lệ. Nhưng khi đi vào bên trong để quan sát cấu trúc bản vẽ của từng lâu đài, chúng ta cũng thấy những nét đặc thù riêng. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, các lâu đài này thể hiện hai xu hướng nổi bật: Thuyết duy lý và thuyết duy nghiệm[1].

Johannes Hirschberger, giáo sư đại học Frankfurt

* * *

Sự khác nhau căn bản giữa hai luồng triết học này là cách trả lời những câu hỏi: Nhận thức là gì? Đâu là nguồn gốc của nhận thức? Làm thế nào để đạt đến nhận thức? Những câu trả lời của hai luồng triết học đó dù rất khác nhau thậm chí xung khắc nhau, nhưng đều là những đóng góp vô cùng vĩ đại vào việc xây dựng hệ thống triết học hiện đại.

Nhưng không riêng gì trong thế giới triết học, cả hai thuyết duy lý (rationalism) và thuyết duy nghiệm (empirism) đã cung cấp cho người nghiên cứu khoa học tự nhiên những phương pháp hữu hiệu để cắt nghĩa các hiện tượng thiên nhiên và giải quyết các vấn đề thực tiễn nảy sinh trong quá trình nghiên cứu. Đó là phương pháp diễn dịch vốn có nguồn gốc từ thuyết duy lý và phương pháp quy nạp[2] vốn là nhân cũng là quả của những luận cứ căn bản trong thuyết duy nghiệm.

Pierre Bayle (1647-1706)
Christian Wolff (1679-1754)

Thuyết duy lý chủ yếu được quảng bá rộng rãi ở các nước trên lục địa, trong lúc thuyết duy nghiệm thì phát xuất và được phổ biến mạnh ở đảo quốc Anh. Những tên tuổi đã đi vào lịch sử triết học thời đại khai sáng có thể kể như, ở Pháp có René Descartes, Blaise Pascal, Pierre Bayle, Baron de Montesquieu, Jean-Jacques Rousseau, Voltaire, cũng như đông đảo học giả thuộc nhóm khởi xướng Bách Khoa Toàn Thư; ở Đức có Gottfried Wilhelm Leibniz, Christian Thomasius, Christian Wolff, Moses Mendelssohn, Gottfried Lessing, Immanuel Kant; ở Anh có Francis Bacon, Isaac Newton, Thomas Hobbes, John Locke, David Hume; ngoài ra còn có Baruch de Spinoza của Hà Lan; Giambattista Vico của Ý, v.v.. Đó chỉ là những gương mặt nổi bậc nhất trong một tập thể học giả vô cùng đông đảo.

Mặc dù kể từ giữa thế kỷ 18, nhiều luồng triết học khác nhau ra đời được giới học giả nồng nhiệt đón nhận, vì chúng gần gũi với cuộc đời thế tục và những biến chuyển trong xã hội đương thời, nhưng thuyết duy lý và duy nghiệm vẫn tiếp tục giữ địa vị sáng ngời trong thế giới triết học cận đại.

Thuyết duy lý

René Descartes (1596-1650)

Nói về thuyết duy lý, trước hết phải đề cập đến René Descartes. Ông là người đầu tiên làm một cuộc thử nghiệm táo bạo, muốn đạt đến nhận thức chỉ bằng phương tiện duy nhất là tư duy. Điều này dù mới được Descartes bắt đầu trong những thập niên đầu của thế kỷ 17, nhưng nó đã dẫn đến tình trạng “đột phá của sự trưởng thành[3]” vào cuối thế kỷ đó và đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực trong đời sống văn hóa, chứ không riêng gì trong phạm vi triết học. Cũng nhờ Descartes mà toàn bộ nhận thức của con người từ đây bắt đầu dựa vào một nền tảng mới, đó là lý tính. Trong bối cảnh lịch sử ấy, ông xứng đáng được xem là vị tổ phụ của thuyết duy lý.

Đại biểu cho thuyết duy lý: René Descartes (1596-1650), Baruch de Spinoza (1632-1677), Gottfried W. Leibniz (1646-1716).

Sau Descartes, bóng tối dần dần bị đẩy lùi. Bóng tối đó chính là sự thống trị tinh thần một cách phi lý của Giáo hội, là chủ nghĩa giáo điều và sự mù quáng trong hệ thống giáo dục, là sự mù quáng tin vào những ý tưởng vô căn cứ cũng như định kiến trong triết học, là sự thống trị bất công về mặt chính trị của hệ thống quân chủ chuyên chế vốn dĩ được khoác áo “ân sủng của Thượng Đế”. Thành quả đó đã có sự tham gia vô cùng tích cực của thuyết duy lý nói chung và các công trình triết học của Descartes nói riêng. Điều đáng ngạc nhiên là, dù René Descartes là một tín đồ Thiên Chúa rất sùng đạo, nhưng với tinh thần đề cao lý tính, tự do và khoan dung, thuyết duy lý của ông không hề thừa nhận vai trò của Thượng Đế trong quá trình con người đi đến nhận thức.

G. W. Leibniz (1646-1716)
Baruch Spinoza (1632-1677)

René Descartes, cũng như nhiều nhà duy lý tiếng tăm khác như Leibniz hoặc Spinoza, không chỉ là triết gia mà còn là nhà toán học vốn bị lôi cuốn bởi sự chính xác, rõ ràng và chắc chắn. Phán đoán của toán học luôn luôn mang tính hiển nhiên và bất biến. Descartes không thấy tính chất đó trong các ngành khoa học khác, vì thế chúng đều đáng nghi ngờ. Triết học cho đến thời điểm đó, theo Descartes, cũng đáng nghi ngờ không kém.

Vì thế, Descartes tự đặt cho mình một nhiệm vụ, ấy là thay đổi tận gốc phương pháp tư duy triết học, xa rời chủ nghĩa kinh viện, hạ bệ tư tưởng bi quan của thuyết hoài nghi vốn cho rằng không hề có chân lý, hay ít ra là chân lý khó nhận thức được. Descartes chờ đợi ở triết học cũng như từ chính mình là phải thiết lập những nguyên lý căn bản đầu tiên có giá trị phổ quát về nhận thức, mà chân lý và tính chắc chắn của chúng không thể bị nghi ngờ. Descartes đòi hỏi rằng, các ngành khoa học khác cũng phải có một nền tảng triết lý chắc chắn như thế. Đó chính là sự nghiệp mà Descartes theo đuổi suốt đời[4].

Nhưng khi nói đến thuyết duy lý, trước tiên chúng ta cần phá tan những ngộ nhận dẫn đến sự đánh giá sai lạc và hạ thấp thuyết duy lý. Đó là quan niệm cho rằng, thuyết duy lý không gì khác hơn là một nền triết học mang tính khái niệm thuần túy. Đó là một quan niệm sai lầm mà chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy khi khảo sát trên cả hai phương diện: Thuyết duy lý như là nền tảng của lý thuyết nhận thức, và thuyết duy lý như là phương pháp.

Về nền tảng của lý thuyết nhận thức, thuyết duy lý không phải là một triết học mang tính khái niệm hoặc là xem mọi tri thức đều bắt nguồn từ lý tính một cách tuyệt đối. Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong các tác phẩm của Descartes. Ông cho rằng, kinh nghiệm cũng là một yếu tố cần xét đến để đạt đến nhận thức. Ông công kích cả những triết gia duy lý vốn  xem chân lý có nguồn gốc từ tâm trí riêng của họ. Trên quan điểm nhận thức luận, thuyết duy lý có nguồn gốc sâu xa hơn nhiều. Nó liên quan đến một vấn đề logic và hữu thể học quan trọng, đó là thuyết tiên nghiệm. Và đây chính là vấn đề vô cùng thiết thân mà mọi triết gia duy lý đều ấp ủ trong tim[5].

Người duy lý tự định hướng theo các tính chất gương mẫu của toán học, đó là sự rõ ràng và tính chính xác. Giống như toán học, các nhà duy lý cho rằng có những nhận thức thuần lý tính, gọi cách khác là nhận thức tiên khởi, a priori, độc lập với kinh nghiệm có được thu lượm từ cảm quan hay không. Điều đó cũng xuất phát từ những ý niệm đã hiện hữu từ lúc sinh ra. Descartes đạt đến nguồn gốc của nhận thức bằng cách nghi ngờ tất cả. Ý niệm và nhận thức có thể bị nhầm lẫn, nhưng bản thân của chính sự nghi ngờ thì không. Câu nói “tôi tư duy, tức là tôi hiện hữu[6]” đã trở thành căn bản của triết học Descartes, qua đó ông đưa ra giả thiết rằng, cái tôi tư duy mang tính hiện hữu, độc lập với thế giới vật chất bên ngoài, và rằng đã có một nhận thức có sẵn lúc con người vừa được sinh ra, độc lập với mọi kinh nghiệm sau này[7].

Nói cách khác, Descartes đặt tất cả xuống dưới sự nghi ngờ cực đoan. Cảm nhận từ giác quan có thể là ảo giác, phép kiểm tra toán học có thể sai, ngay cả Thượng Đế cũng có thể nhầm lẫn. Chỉ có một điều không thể nghi ngờ, đó là sự hiện hữu của bản thân như là một thực thể tư duy. Ngoài ra, cái tôi tư duy còn mang một giá trị lịch sử khác: Nhận thức của con người không còn phụ thuộc vào Thượng Đế, mà chỉ phụ thuộc vào tư duy của chính bản thân mình. Nói cách khác, Descartes đã khởi động quá trình tách rời Thượng Đế ra khỏi triết học, điều mà trước đó cả ngàn năm, chưa ai dám đặt ra, nhưng chỉ trong vòng một thế kỷ sau, đã trở thành hiện thực ở cao điểm của thời đại khai sáng. 

Thomas Hobbes (1588-1679)

Thuyết duy lý là luồng triết học có ảnh hưởng lớn nhất tại châu Âu trong thế kỷ 17. Những đại biểu tiên phong và sáng giá nhất của thuyết duy lý trước hết tất nhiên là René Descartes người Pháp, kế đó là Gottfried Wilhelm Leibniz người Đức và Baruch de Spinoza người Hà Lan. Ngoài ra có thể kể thêm Thomas Hobbes người Anh, mặc dù đặc trưng của triết học Hobbes nổi bật hơn ở thuyết duy nghiệm. Ngoài ra còn có nhiều triết gia danh giá khác.

Descartes cho rằng, nền tảng vững chắc của mọi nhận thức đều xuất phát từ tư duy của con người, tức là từ lý tính. Và đó chính là cội nguồn, là nơi sinh thành của thuyết duy lý. Đồng thời, với sự giải thoát ra khỏi sự ràng buộc với Thượng Đế mà con người cảm thấy không cần sự có mặt của Ngài, thuyết duy lý cũng ghi dấu bước khởi đầu của triết học hiện đại, xác định một vị trí không thể nhầm lẫn của triết học trong tương quan với thần học, đồng thời khởi động quá trình xóa bỏ ảnh hưởng của thần học lên giới học thuật châu Âu. Vì thế, Descartes không chỉ là người khai sinh ra thuyết duy lý, mà còn xứng đáng được gọi là vị tổ phụ của phương pháp tư duy hiện đại.

Những triết gia duy lý có niềm tin vững chắc rằng, nhận thức về chân lý trong thế giới thực không phải được chắt lọc từ kinh nghiệm, cũng không đặt nền tảng trên tri giác thu nhận được khi làm công việc nghiên cứu thiên nhiên, mà nhận thức về chân lý chỉ xuất phát duy nhất từ lý tính. Vì thế mới có tên Rationalism để chỉ thuyết duy lý. Thuật ngữ đó vốn có nguồn gốc từ tiếng la-tinh “Ratio”, tức là lý tính. Theo nhận xét của các triết gia duy lý, nhận thức trong thế giới thực mang tính cấu trúc rất hợp lý, vì thế chúng cũng dễ dàng được khám phá bởi lý tính, hoặc chí ít là những điều cơ bản nhất của nhận thức để từ đó, những điều khác cũng được soi sáng nhờ việc sử dụng những nguyên lý chặt chẽ như các nhà toán học vẫn thường làm [xem Michael Conradt]. Nói cách khác, người duy lý có niềm tin tuyệt đối vào lý tính con người như là gốc rễ của nhận thức. Đó chính là đặc trưng của các triết gia duy lý.

Triết gia Baruch de Spinoza còn phát biểu cực đoan hơn, rằng phương pháp tư duy chặt chẽ của toán học và sự gắn chặt vào lý tính là con đường duy nhất để đạt đến sự nhận thức. Học giả đa ngành Gottfried W. Leibniz sử dụng một mô hình cụ thể trong đời sống để lý giải sự liên hệ giữa lý tính và nhận thức. Mô hình đó là ngôn ngữ, vốn được thành hình bằng sự phối hợp chặt chẽ giữa các chữ cái và văn phạm.

Sự nối kết các chữ cái lại với nhau thông qua những quy ước nhất định sẽ tạo nên từ ngữ, thuật ngữ, câu kéo mà khi liên kết với nhau, chúng có thể diễn đạt tất cả những gì tồn tại trong ý thức con người. Bằng cách làm tương tự, tất yếu chúng ta có thể sử dụng các chữ cái như là nguyên tố, kết hợp với văn phạm như các quy ước liên kết để biên soạn toàn bộ tri thức đang hiện hữu và có thể sẽ hiện hữu. Nếu có một ngộ nhận nào đó sau này về mặt triết học, thì đó cũng chỉ là những sự cố nhỏ có thể được điều chỉnh dễ dàng[8].

Người theo thuyết duy lý sử dụng một lộ trình thống nhất để tiến đến sự nhận thức. Trước hết, lý tính phát hiện những quy luật tổng quát mang tính trường tồn bất biến, rồi từ đó chỉ cần thông qua suy luận, con người có thể nhận thức các trường hợp riêng lẻ. Điều này rất dễ dàng được các nhà toán học hưởng ứng. Thí dụ, chỉ cần hiểu những nguyên lý hoạt động của bảng cửu chương, người ta có thể suy đoán kết quả của các phép nhân riêng lẻ như 2 x 2 = 4 hoặc 13 x 5 = 65. Đó cũng chính là phương pháp diễn dịch được sử dụng rộng rãi trong khoa học tự nhiên, đặc biệt trong ngành toán học. Nói cách khác, triết học duy lý đã cung cấp phương pháp luận cho khoa học tự nhiên, và ngược lại, khoa học trong một mức độ nào đó cũng có thể trở thành công cụ để kiểm chứng các biện giải triết học.

Trong chính trị, những người duy lý đóng vai trò của chiến binh đấu tranh không mệt mỏi cho sự cải thiện nhân quyền. Họ đòi hỏi phải thay đổi quyền tự nhiên vốn dĩ đã tự phát triển trong tiến trình lịch sử, để trở thành quyền con người dựa trên những nguyên tắc của lý tính. Trên con đường đó, những người duy lý không thừa nhận quan hệ quyền lực hiện hữu, thể hiện qua những đặc quyền của giới quý tộc và tăng lữ. Họ cũng đòi hỏi rằng, quyền con người phải được xác định và bảo vệ bởi hiến pháp. Luồng chính trị duy lý này được xem là động lực mạnh mẽ cho cuộc cách mạng Pháp năm 1789[9].

Điều làm cho giới học giả phàn nàn là, thuyết duy lý vẫn còn ít nhiều liên hệ nguồn gốc với truyền thống, vẫn mang âm hưởng của chủ nghĩa kinh viện, vẫn chấp nhận sự ảnh hưởng của siêu hình học lên nền tảng lý luận. Ngoài ra, những người duy lý bị phê phán là cuồng tín với lý tính. Họ quá đề cao sức mạnh của lý tính trong các lĩnh vực lý thuyết cũng như thực hành, trong lúc hạ thấp vai trò của kinh nghiệm và lịch sử. Người duy lý thì phản bác lại và cho rằng, những sai lầm xảy ra có thể tránh được, nếu lý tính được sử dụng cương quyết hơn và nhiều hơn, chứ không phải là ít hơn[10].

Kỷ nguyên của thuyết duy lý kéo dài trên dưới một thế kỷ. Với Gottfried W. Leibniz, thuyết duy lý đạt đến đỉnh cao mới, nhưng dần dần bị đẩy lùi bởi những luồng triết học mới mẻ hơn như thuyết duy nghiệm hay thuyết duy tâm (Idealism), song song với việc vươn lên như vũ bão của khoa học thực nghiệm, nhất là sau những thành công vang dội của của Isaac Newton vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18 trong lĩnh vực toán, vật lý và cơ học. Thành công của Newton dựa vào phương pháp kết nối hài hòa giữa một bên là cách tiếp cận duy lý và suy luận toán học, bên kia là sự quan sát, đo đạc, kiểm tra cẩn thận các bước đi khảo sát thực nghiệm. Đồng thời, Newton quả quyết rằng, mọi định luật và nguyên lý liên quan đến vật thể, chỉ có thể kết luận được sau khi đã quan sát thận trọng dạng thức xuất hiện của chúng[11]. Dù thuyết duy lý đã bị đẩy lùi, nhưng những xung lực mạnh mẽ của cách suy luận duy lý vẫn còn tiếp tục tác động và chi phối nền triết học hiện đại kéo dài về sau, nhất là niềm tin vào lý tính, cho dù nó không còn tính chất tuyệt đối như trước.

Thuyết duy nghiệm

Thuyết duy lý đã chiếm chỗ đứng vững vàng và lâu dài, mặc dù theo thời gian đã có nhiều phê phán. Sự rạn nứt của nền triết học cận đại sơ kỳ thực sự xuất hiện từ lúc một luồng triết học mới với phong thái hoàn toàn mới xuất hiện, phong thái duy nghiệm và những luồng triết học sau đó. Có thể xem đó là một phong cách biện giải triết học mới mẻ hơn, mang tính cách mạng hơn. Nói đúng ra, thuyết duy nghiệm quả thật là một luồng triết học mang tính cách mạng, đánh dấu khởi điểm của nền triết học hiện đại[12].

Nói cách khác, triết học hiện đại chỉ có thể phát triển mạnh mẽ từ lúc thuyết duy nghiệm được phổ biến rộng rãi trong giới học thuật. Thông qua thuyết duy nghiệm, triết học đã làm một vạch ngang đoạn tuyệt với truyền thống siêu hình học theo tư tưởng Plato-Aristotle, thậm chí ngay cả thời đại của Leibniz vẫn còn vương vấn ít nhiều với truyền thống cổ điển. Người đi theo thuyết duy nghiệm không xem tư duy tiên nghiệm là gốc rễ của nhận thức, mà tất cả đều xuất phát từ thế giới vật chất, được cảm nhận trước hết bằng giác quan, trước khi chuyển giao chúng cho tư duy để tạo nên những khuôn mẫu được cất giữ trong tiềm thức, rút ra quy luật để sử dụng sau này trên con đường đi đến nhận thức.

Thuyết duy nghiệm có gốc rễ từ thời cổ đại. Định nghĩa cổ điển của tư duy duy nghiệm được Aristotle tóm tắt trong một câu ngắn gọn: “Không có điều gì có thể hiện hữu trong ý thức nếu trước đó nó không được nhận thức bằng giác quan”. Điều đó có nghĩa là, mọi nhận thức đều có nguồn gốc từ kinh nghiệm, được chắt lọc từ những cảm nhận của giác quan trong quá khứ. Mãi gần hai ngàn năm sau, thuyết duy nghiệm với tư cách là một hệ thống triết học bắt đầu vươn lên từ những tiền đề đầu tiên về triết học tự nhiên của trào lưu phục hưng, tiếp theo là những tiền đề mang tính cơ học định lượng khi khảo sát về thiên nhiên[13]. Đó là thời kỳ bùng nổ của khoa học tự nhiên với phương pháp nghiên cứu thực nghiệm áp dụng rất thành công trong các lĩnh vực khoa học ở thế kỷ 16: trong thiên văn học với Copernicus, Galilei, Kepler; trong vật lý học với Gilbert, Galilei, Stevin; trong y khoa với Paracelsus, Vesalius, v.v.. Tất cả các khoa học gia này đều cùng sử dụng phương pháp thực nghiệm gần giống nhau, vốn dĩ đi theo mô hình tư duy của thuyết duy nghiệm.

Francis Bacon (1561-1626)

Nhà thiên văn cách mạng đầu tiên, Nicolaus Copernicus dùng phương pháp quan sát, đo đạc và thử nghiệm, sau đó chuyển giao kết quả cho tư duy suy luận để rút ra kết luận về cấu trúc vũ trụ, khai sinh thuyết nhật tâm (heliocentrism), hạ bệ thế giới quan địa tâm (geocentrism) vốn đã ngự trị suốt gần hai thiên niên kỷ. Nhưng Copernicus cũng như các nhà nghiên cứu đương thời vốn là những nhà khoa học, không quan tâm đến những vấn đề triết học trừu tượng, cho nên cũng không đưa ra được những định đề mang tính quy luật phổ quát. Phải đợi đến cuối thế kỷ 16, triết gia người Anh vốn nổi tiếng với khẩu hiệu bất tử “tri thức là sức mạnh”, Francis Bacon mới tổng kết, hệ thống hóa những khuôn mẫu tư duy của con người khi đi tìm chân lý, từ đó, phương pháp quy nạp ra đời.

Thế nào là quy nạp theo diễn giải của Bacon? Lấy một thí dụ giản dị, tôi quan sát và cảm nhận điều gì đó trong thiên nhiên, rồi khám phá ra một khuôn mẫu nào đó được lặp đi lặp lại, tôi tạm thời cất giữ nó trong tiềm thức và tìm kiếm những quy luật nào liên quan đến nhiều khuôn mẫu tương tự, nhờ thế có thể đi đến một nhận thức rõ ràng khi một vật thể với khuôn mẫu ấy xuất hiện, mặc dù tôi chưa hề thấy vật thể đó bao giờ.

Nhờ phương pháp quy nạp này, tôi có thể biết một con vật nào đó có bốn chân và biết sủa là chó, chứ không phải là linh dương, hoặc biết được một con vật có đôi cánh và bay trên trời là chim, chứ không phải là cá. Với phương pháp quy nạp này, Francis Bacon đã đặt những viên đá đầu tiên cho thuyết duy nghiệm, đồng thời kiến tạo một phương pháp nghiên cứu khoa học còn được ưa chuộng cho đến ngày nay.

Đảo quốc Anh kể từ Bacon về sau vẫn là quê hương cội nguồn của thuyết duy nghiệm vốn dĩ sẽ được tiếp tục hoàn thiện bởi Thomas Hobbes, John Locke và David Hume. Từ Anh, thuyết duy nghiệm nhanh chóng lan qua lục địa và để lại ảnh hưởng sâu đậm lâu dài.

Đại biểu cho thuyết duy nghiệm: Francis Bacon (1561-1626), Thomas Hobbes (1588-1679), John Locke (1632-1704), David Hume (1711-1776)

John Locke (1632-1704)

Nếu Francis Bacon với phương pháp quy nạp đã đặt những viên đá đầu tiên cho thuyết duy nghiệm, thì John Locke mới thực sự là người khai sinh ra nó. Với tác phẩm Khảo luận về giác tính con người[14], Locke đã cung cấp một văn bản nền tảng cho thuyết duy nghiệm. Khác với thuyết duy lý vốn cho rằng, ý niệm đã hiện hữu từ lúc con người mới sinh ra, các triết gia duy nghiệm phản bác rằng, lý tính cũng chỉ là sản phẩm của kinh nghiệm, chứ không thể xem là công cụ phổ quát và mang tính chắc chắn để có thể sử dụng trên đường đi đến nhận thức. Với sự xuất hiện của Locke, thuyết duy lý bắt đầu bị đẩy vào thế thủ, có lẽ ngoại trừ ở Đức, nơi mà ảnh hưởng của trường phái Leibniz và Wolff vẫn còn kéo dài thêm một thời gian.

Thuyết duy nghiệm của John Locke dựa trên nhận thức cơ bản rằng, tâm trí của đứa trẻ mới sinh trống rỗng như một tờ giấy trắng, một tabula rasa, không có một dấu vết gì, cũng không có một ý niệm nào[15]. Vậy nó được lấp đầy bằng cái gì? John Locke trả lời bằng một chữ duy nhất: kinh nghiệm. Trên tờ giấy trắng đó, kinh nghiệm sẽ viết lên bằng chữ nghĩa, từ đó phát sinh kiến thức, giác tính, và với sự tương tác lẫn nhau dẫn đến cảm nhận bên trong ý thức. Theo Locke, toàn bộ nhận thức của con người chỉ bắt đầu phát triển sau khi kinh nghiệm được thu thập qua thời gian, gọi là cảm xúc với thế giới vật chất bên ngoài (sensation). Chúng là chất liệu được cung cấp để phục vụ cho các hoạt động tiếp theo của tinh thần như suy nghĩ, phân tích, tổng hợp, tin tưởng, nghi ngờ, nói chung là sự phản tỉnh (reflexion) bên trong ý thức.

Từ hai loại kinh nghiệm bên ngoài và bên trong đó, những ý niệm giản dị trước hết được thành hình, thí dụ màu sắc, hình dáng, trạng thái, v.v.. Tiếp theo, nhiều ý niệm giản dị có thể phối hợp với nhau, kết hợp với những cảm xúc mới, những phản tỉnh mới, những mối liên hệ mới được bổ sung để tạo nên những ý niệm phức tạp hơn, chi tiết hơn, chính xác hơn, và cả những quy luật liên quan cũng được khám phá. Thí dụ, với phương pháp đó và sau khi quan sát ánh mặt trời trong nhiều ngày, chúng ta có thể quả quyết rằng, mặt trời luôn luôn mọc từ phương đông. Đó là một quy luật bất biến được nhận thức từ sự quan sát những trường hợp đặc thù trong quá khứ. Cho nên, cách làm như thế được gọi tên là phương pháp quy nạp.

Tuy nhiên, John Locke không phải là triết gia duy nghiệm thuần túy. Bên trong tư tưởng của Locke đã hàm chứa những nhân tố duy lý. Tri thức được thu thập từ hai nguồn: thứ nhất là môi trường chung quanh chứ không phải di truyền, và thứ hai là lý tính chứ không phải là niềm tin. Cách nhìn thực tế của Locke và thuyết duy nghiệm của ông đã đặt ông vào giữa những người duy lý. Locke tin rằng, lý tính con người dù không giải thích được mọi vấn đề trong vũ trụ, nhưng có thể lý giải những gì mà con người cần biết. Ông viết: Ngọn nến đốt cháy trong lòng chúng ta tỏa đủ ánh sáng để soi rọi những mục đích mà ta muốn đạt đến[16].  

David Hume (1711-1776)

Sau Locke, David Hume đưa thuyết duy nghiệm đến đỉnh cao mới, bắt đầu từ giữa thế kỷ 18. Nếu như John Locke quá khoan nhượng với truyền thống, thì những phê phán của Hume đã cung cấp một lực đẩy mang tính cách mạng để hoàn tất thuyết duy nghiệm với những tính chất mà nó cần phải có. Phê phán của Hume rất sắc bén và quyết liệt, và ý muốn hệ thống hóa luồng triết học này cũng được thực hiện với quyết tâm cao. Hume không ngần ngại gọi siêu hình học là một công trình xảo quyệt, luôn núp bóng sau những lùm cây tối tăm để sẵn sàng xông ra áp đảo tinh thần con người bằng định kiến và nỗi sợ hãi tôn giáo[17].

Với David Hume, thuyết duy nghiệm đã dứt khoát đoạn tuyệt với truyền thống siêu hình học của châu Âu, từ Heraclitus thời cổ đại xuyên suốt đến Leibniz thế kỷ 18. Đồng thời, Hume cũng khởi động quá trình phát triển vốn sẽ dẫn đến nền triết học hiện đại đối nghịch với siêu hình học truyền thống. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, qua lối phê phán cực đoan đối với siêu hình học truyền thống, Hume đã mang lại không ít phiền toái cho thuyết duy nghiệm và cho chính bản thân ông sau này.

Công trạng của Hume không chỉ là vạch một lằn ranh rõ rệt với siêu hình học cổ điển, mà điều quan trọng là ông đã hoàn tất và hệ thống hóa triết học duy nghiệm bằng cách tương đối hóa các biện giải cơ bản, tránh cho việc thuyết duy nghiệm có thể rơi vào ngõ bí khi phải đối mặt với các vấn đề phi thực nghiệm. Tiền đề này đã được John Locke nêu lên một cách tổng quát, nhưng chính Hume là người hoàn tất, hệ thống hóa và tích hợp vào thuyết duy nghiệm. Điều này xuất phát từ thuyết hoài nghi “chừng mực” của Hume mà tự bản chất là khác với thuyết “hoài nghi quá đáng” cổ đại theo nghĩa của Pyrrho of Elis (Pyrrhonism). Theo Hume, mỗi một bằng chứng vốn dĩ có thể dẫn người ta đến nhận thức đều hàm chứa một khả năng là nó sai lạc hoặc dễ nhầm lẫn[18].

Với David Hume, chỉ còn có con người, và nhận thức của họ là một cái gì đó giống như một bức tranh. Thuyết hoài nghi nêu lên giả thiết rằng, cảm nhận đã mong đợi của chúng ta vốn dĩ có thể xảy đến, nhưng cũng không có gì là chắc chắn để biết trước. Vấn đề là, không có điều gì có thể chứng minh được, do đó đối với Hume, tất cả các khoa học thực tế và đặc biệt là khoa học tự nhiên cũng giống như một sự tin tưởng. Ở đây không có một sự diễn đạt rõ ràng nào như trong quan điểm lý tính, mà cùng lắm là những biện giải vốn chỉ có giá trị xác suất[19]. Nếu mặt trời đã mọc ở phương đông suốt cả tháng, thì cũng không thể chắc chắn rằng ngày mai nó không mọc ở phương tây. Kinh nghiệm của chúng ta càng nhiều bao nhiêu thì độ xác suất càng lớn bấy nhiêu, nhưng ngay cả với mức độ quy nạp hoàn hảo nhất, thì kết quả vẫn luôn luôn mang tính xác suất, không có gì là chắc chắn[20].

Từ thời cổ đại, Plato đã phê phán tư duy duy nghiệm là ảo tưởng, vì không có điều gì có thể chứng minh được. Tuy nhiên, kể từ thế kỷ 17, với sự phát triển vũ bão của khoa học tự nhiên, việc chứng minh điều gì đó đúng với sự thật là chuyện khả thi. Trong ý nghĩa này, giữa triết học duy nghiệm và phương pháp nghiên cứu khoa học tự nhiên có một mối quan hệ hữu cơ qua lại, vừa là con gà mái, vừa là quả trứng gà. Cả hai đều nương tựa vào nhau và phát triển song song suốt một thời gian dài.

Mặc dù thuyết duy nghiệm không có những bậc thầy vĩ đại như thuyết duy lý, nhưng nó lại được đón nhận nồng nhiệt trong giới khoa học gia, những người đang mày mò đi tìm phương pháp nghiên cứu, giúp họ vượt qua thói quen của nền khoa học cổ đại để đưa khoa học hiện đại lên đỉnh cao, phù hợp với những tri thức khoa học mới mẻ và ngày càng nhiều. Và cũng chính nhờ thành quả dồn dập của khoa học trong thời đại khai sáng, mà thuyết duy nghiệm càng củng cố và nâng cao vị trí của mình trong những tòa lâu đài triết học lúc ấy. Nói cách khác, thuyết duy nghiệm vừa là nhân, cũng vừa là quả của phương pháp khoa học ngày càng định hình rõ rệt trong hai thế kỷ 17 và 18, vì thế thuyết duy nghiệm xứng đáng có chỗ đứng trang trọng trong thời đại khai sáng.

* * *

Tóm tắt

Thoạt nhìn qua hai luồng triết học ở trên, thuyết duy lý và duy nghiệm có vẻ đối chọi nhau như nước với lửa, khó lòng tồn tại trong một lâu đài triết học duy nhất. Từ khi thuyết duy nghiệm ra đời và tuyên chiến với thuyết duy lý, cuộc đấu tranh giành giật ấy đã để lại một bãi chiến trường vô cùng lớn trong lịch sử tranh luận triết học, tác động lên hầu hết mọi mặt trong đời sống văn hóa, nhất là những tranh luận liên quan đến câu hỏi vô cùng quan trọng của thế kỷ 17 và 18: Với phương pháp nào và làm thế nào để hoạt động khoa học được khả thi?

Immanuel Kant (1724-1824)

Nhưng qua sự khảo sát quá trình phát triển của lịch sử học thuật suốt nhiều thế kỷ, chúng ta phát hiện một điều lý thú, là cả hai luồng triết học duy lý và duy nghiệm xem ra rất đối nghịch lại tồn tại song song, cả hai đều được giới học thuật ưa chuộng rộng rãi, cả hai đều tham gia vào quá trình phát triển mọi mặt trong xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học tự nhiên. Điều này đạt được cũng do công trình phân tích và tổng hợp của các triết gia đi sau, trước hết với David Hume bắt đầu từ tiền bán thế kỷ 18, và sau đó là Immanuel Kant ở hậu bán thế kỷ.

Có những phản biện đánh đúng vào cốt lõi của hai thuyết, một bên là phê phán gốc rễ của thuyết duy lý: “không có ý niệm bẩm sinh, ngay cả lý tính cũng là sản phẩm của kinh nghiệm” và bên kia là phản bác thuyết duy nghiệm: “cảm xúc từ thế giới bên ngoài có thể là ảo giác; không có gì có thể chứng minh được”.

Trong ý nghĩa đó, Immanuel Kant đưa ra một định nghĩa mới cho rằng, có ý niệm bẩm sinh cũng như nhận thức xuất phát từ lý tính thuần túy, ông gọi đó là nhận thức tiên nghiệm (a priori), đồng thời cũng có nhận thức được rút tỉa từ kinh nghiệm, biến thành giác tính và được xác minh bởi lý tính, Kant gọi đó là nhận thức hậu nghiệm (a posteriori). Với biện giải của Kant về sự tồn tại của cả hai loại nhận thức này vào hậu bán thế kỷ 18, thuyết duy lý và duy nghiệm đã thoát ra khỏi ngõ bí, giảm bớt những tranh luận ồn ào suốt hơn một thế kỷ để cùng tồn tại song song, chừng mực nào cũng có thể nói là, cả hai đã có sự thỏa hiệp cộng sinh.

Trong thực tế, giả thiết nói trên đã được nhà khoa học đa năng, Isaac Newton chứng nghiệm bằng khoa học khi hoàn tất lý thuyết về vũ trụ trước đó nhiều thập niên. Từ thế kỷ 16, Copernicus, Galilei và Kepler đã dùng phương pháp thực nghiệm để diễn giải thuyết nhật tâm, nhưng vẫn còn những câu hỏi chưa thể trả lời về sự chuyển động của các hành tinh, nhất là câu hỏi, liệu các hành tinh có thể thoát ra khỏi quỹ đạo và một lúc nào đó sẽ va chạm nhau hay không?

Phải đợi đến hậu bán thế kỷ 17, lúc Isaac Newton khám phá những định lý căn bản về trọng lực như là sức hút và lực ly tâm như là sức đẩy, rồi kết hợp với phương pháp toán học thuần lý, lúc đó Newton mới có thể đưa ra lời giải cuối cùng có giá trị đến hôm nay về cấu trúc của vũ trụ, và câu hỏi ở trên cũng được trả lời dứt khoát: các hành tinh sẽ mãi mãi chạy trên quỹ đạo của chúng và không bao giờ va chạm nhau.

* * *

Như vậy, phải chăng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm vốn đặt trên nền tảng của thuyết duy nghiệm đôi lúc cũng chỉ cho kết quả tương đối, hạn chế, và nó cần được bổ sung thêm bằng suy luận toán học và vật lý, vốn là công cụ hữu hiệu của thuyết duy lý. Sự thỏa hiệp cộng sinh của hai luồng triết học này xem ra là điều rất có ích để giải quyết các vấn đề phức tạp. Và sự phối hợp giữa hai phương pháp cũng đã được các nghiên cứu khoa học chứng minh là cần thiết.

Thế kỷ 17 là thế kỷ của thuyết duy lý, vốn dĩ là cơ sở lý luận cho phương pháp diễn dịch trong nghiên cứu, và là nền móng cho tư duy lo-gic. Sang thế kỷ 18, thuyết duy nghiệm lên ngôi, có thể xem là điểm khởi đầu của triết học hiện đại, làm cột mốc quan trọng trong lịch sử triết học thế giới, mở đầu cho thời kỳ thăng hoa các luồng tư tưởng. Sự đối đầu giữa hai học thuyết này đã dẫn đến cuộc tranh luận dữ dội nhất trong lịch sử triết học.

Cho đến lúc Immanuel Kant tìm ra con đường đi đến nhận thức: “Không có giác quan, chúng ta không nhận thức được đối tượng. Không có giác tính, thì không có gì tư duy được”. Nói cách khác, nếu thiếu một trong hai, sẽ không đạt đến một nhận thức nào. Kể từ đó, những tranh luận ồn ào về duy lý và duy nghiệm cũng chấm dứt, hai triết thuyết này cùng tồn tại song song và hợp tác cộng sinh.

Tuy thế, kể từ đầu thế kỷ 19, thuyết duy lý và duy nghiệm dù chưa bị lãng quên, nhưng đã trở nên lu mờ và phải nhường chỗ cho những luồng triết học mới mẻ hơn, hiện đại hơn, mà Immanuel Kant là đại biểu sáng giá nhất.

./.

Tôn Thất Thông, tháng 6/2024

Nghe bài viết này trên Video Youtube:

Và các bài khác (Playlist) trong chủ đề “Thời Đại Khai sáng”:

https://www.youtube.com/playlist?list=PLMoc-FETlUMo1mJG2U-ltPwLQQjZ5gPGj

Tài liệu tham khảo:

1. Brinton, Crane (1), Christopher, John B. và Wolff, Robert Lee: A history of civilization – 1715 to the present. ISBN 0-13-389593-9. (Lịch sử văn minh – 1715 đến hôm nay).

2. Châtelet, François chủ biên và nhiều tác giả: Geschichte der Philosophie Band IV – Die Aufklärung (Lịch sử triết học tập IV – Khai sáng). ISBN 3-548-03063-7. (Eva Brückner-Pfaffenberger và Donald Watts Tuckwiller dịch từ gốc tiếng Pháp: Les Lumières).

3. Guizot, François: The History of Civilization in Europe (Lịch sử Văn minh châu Âu – William Hazlitt dịch từ tiếng Pháp: Histoire Générale de la Civilisation en Europe). Penguin Books 1997.

4. Hazard, Paul (2): European Thought in the Eighteenth Century (Tư tưởng châu Âu thế kỷ 18). Pelican Book 1965 (J. Lewis May dịch từ tiếng Pháp: La Pensée européenne au XVIIIè siècle: de Montesquieu à Lessing).

5. Hirschberger, Johannes: Geschichte der Philosophie – Band II: Neuzeit und Gegenwart (Lịch sử triết học – Tập II: Thời cận và hiện đại). ISBN 3-933366-00-3). Có thể tham khảo thêm trọn bộ tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Việt: Lịch sử triết học Tập I & II – Bùi Văn Nam Sơn và tập thể dịch giả – NxB Tri Thức.

6. Hogen, Hildegard và Ban biên tập DIE ZEIT: Welt- und Kulturgeschichte Band 10 – Zeitalter der Revolution (Lịch sử văn hóa và thế giới, Bộ 10 – Thời đại Cách mạng). ISBN 3-411-17600-8.

7. Höffe, Otfried (I) chủ biên và nhiều tác giả: Klassiker der Philosophie I (Những triết gia kinh điển, Tập I). ISBN 3-406-08048-0.

8. Metzler Verlag chủ biên và nhiều tác giả: Philosophen (Những triết gia). ISBN 3-476-02026-6.

9. Samhaber, Ernst: Geschichte Europas (Lịch sử châu Âu). ISBN 3-771-30169-6.

10. Schneiders, Werner (1) chủ biên và nhiều tác giả: Lexikon der Aufklärung (Từ điển tường giải về khai sáng). ISBN 3-406-39920-7.

11. Störig, Hans Joachim: Weltgeschichte der Wissenschaft (Lịch sử khoa học thế giới). ISBN 3-89350-519-9.

12. Van Doren, Charles: Geschichte des Wissens. ISBN 3-764-35324-4. (Lịch sử của tri thức – Anita Ehler dịch từ tiếng Anh: A history of knowledge).

13. Vorländer (1), Karl: Geschichte der Philosophie V: Philosophie der Neuzeit – Die Aufklärung (Lịch sử triết học V: Triết học hiện đại – Trào lưu khai sáng). ISBN 3-499-55281-7.

14. Ziegler, Walther (KANT): Kant trong vòng 60 phút. Nhà xuất bản Hồng Đức và Văn Lang 2019. ISBN 978-604-9948-26-8. Tủ sách “Những nhà tư tưởng lớn” (Lưu Hồng Khanh dịch từ bản tiếng Đức: Kant in 60 Minuten. ISBN 978-3-7347-8172-8).

15. Zimmer, Robert: Philosophie von der Aufklärung bis heute (Triết học từ thời đại khai sáng đến nay). ISBN 3-589-21499-6.

Nguồn: Thời Đại Khai Sáng – Hai luồng triết học chính, DienDanKhaiPhong.Org, 03.07.2024




Ghi chú:

[1] Xem J. Hirschberger trang 86.

[2] Diễn dịch tiếng Anh là Deduction; Quy nạp là Induction

[3] Xem R. Zimmer trang 17.

[4] Xem M. Conradt.

[5] Xem J. Hirschberger trang 87-88.

[6] Descartes: Je pense donc je suis.

[7] Xem R. Zimmer trang 21.

[8] Xem M. Conradt. (video phút 0:30).

[9] Xem W. Schneiders (1) trang 339.

[10] Xem W. Schneiders (1) trang 340 – Günter Gawlick.

[11] Xem H.J. Störig trang 367.

[12] Xem J. Hirschberger trang 87.

[13] Xem J. Hirschberger trang 188.

[14] John Locke – An Essay Concerning Human Understanding (1689).

[15] Xem J. Hirschberger trang 202-203.

[16] Xem C. Brinton trang 620.

[17] Xem J. Hersberger trang 223-226.

[18] Xem O. Höffe (I) trang 437.

[19] Xác suất là lý thuyết toán học khảo sát về biến cố ngẫu nhiên, chỉ cho ta cách tìm ra kết quả “có thể có hoặc có thể không”, “thế này hoặc thế kia”.

[20] Xem J. Hersberger trang 231.

Print Friendly and PDF