3.9.25

Nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam - Cuộc đời tận hiến cho y học

Dấu ấn trí tuệ của nhà khoa học nữ Việt Nam và khát vọng bứt phá trong kỷ nguyên mới

Bài 1: 

NỮ BÁC SĨ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM - CUỘC ĐỜI TẬN HIẾN CHO Y HỌC

Tác giả: Trần Đình Ba

PNO - Thọ 106 tuổi, bác sĩ Henriette Bùi (1906-2012) để lại dấu ấn riêng khi là nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam thời hiện đại. Bà còn được biết đến với những hành xử tôn vinh y đức trong nghề nghiệp, thể hiện sự tự chủ trong việc lựa chọn hạnh phúc của bản thân.

LTS: Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia tạo động lực bứt phá mạnh mẽ cho các nhà khoa học, trong đó có nhà khoa học nữ. Báo Phụ nữ TPHCM tổ chức loạt bài: “Dấu ấn trí tuệ của nhà khoa học nữ Việt Nam và khát vọng bứt phá trong kỷ nguyên mới” nhằm tôn vinh những đóng góp nổi bật của nhiều nhà khoa học nữ trên mọi lĩnh vực trải dài từ đầu thế kỷ XX đến nay.

Qua đó khẳng định vai trò, vị thế và tiềm năng của đội ngũ nhà khoa học nữ; cũng như khơi dậy và lan tỏa cảm hứng sáng tạo, đổi mới trong nghiên cứu khoa học của nữ trí thức trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh toàn cầu.

Nữ bác sĩ trước nhất của nước Việt

Cái tên của Henriette Bùi có mối liên hệ mật thiết với gốc gác của cô, cũng là chứng tỏ dòng dõi trâm anh thế phiệt của vị nữ bác sĩ đầu tiên ngành y nước Việt. Nói vậy, bởi cha cô chính là nhà báo, nhà chính trị Bùi Quang Chiêu (1873-1945) nổi tiếng đất Nam Kỳ nửa đầu thế kỷ XX.

Theo thông tin trong tác phẩm Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 đến 1945) (Nguyễn Duy Oanh, 1971), ông Bùi Quang Chiêu quê Bến Tre, từng du học Pháp, lĩnh bằng kỹ sư canh nông. Như ghi chép trong Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ (Nguyễn Thế Anh, 1974), ông tham gia thành lập Đảng Lập hiến năm 1923 cùng Nguyễn Phan Long, Dương Văn Giáo.

Theo Làng báo Sài Gòn 1916-1930 (Philippe M.F. Peycam, 2015), ông sáng lập tờ La Tribune Indochinoise năm 1926 làm cơ quan ngôn luận của Đảng Lập hiến. Trước đó, ông cùng Nguyễn Phú Khai lập Báo La Tribune Indigène năm 1917.

Là con của chính trị gia, lại có quốc tịch Pháp, Henriette Bùi được hưởng nền giáo dục Pháp Việt tân tiến từ nhỏ khi theo học Trường Saint Paul de Chartres (Trường Nhà Trắng) tại Sài Gòn. Năm 1915, Henriette nhận bằng Certificat d’Études rồi vào học Trường Collège des Jeunes Filles (nay là Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai).

Tiếp đó, Henriette Bùi sang Pháp du học. Tốt nghiệp bậc trung học tại Trường Lycée Fenelon ở Paris năm 1926. Năm 1927, nữ sinh An Nam ghi danh vào Đại học Y khoa Paris. Sau 7 năm miệt mài nơi ghế giảng đường và trong phòng thí nghiệm, cô gái Á Đông tốt nghiệp năm 1934.

Theo tờ Đuốc nhà Nam số 1489 ra ngày 22/5/1935 thì “tiểu thơ Henriette Bùi là một người phụ nữ Việt Nam chiếm bằng tấn sĩ thứ nhứt. Chắc các bạn đọc còn nhớ cô Henriette Bùi đỗ bằng y khoa tấn sĩ từ mấy tháng nay, nhưng cô còn phải lưu lại ở Pháp là để huấn luyện cho rành nghề”.

Biệt thự tư gia của Henriette Bùi ở số 28 đường Testard, nay là đường Võ Văn Tần, thuộc khuôn viên Bảo tàng Chứng tích chiến tranh - Ảnh tư liệu

Ông Bùi Quang Chiêu, lúc ấy là thành viên Hội đồng Quản hạt đã sang Paris dự hội nghị kinh tế thuộc địa. Hai cha con cùng hồi hương trên chiếc tàu biển Kerguelen. Vẫn Đuốc nhà Nam số 1489 tiếp lời, “một đường thì cha làm vẻ vang cho bạn dân biễu [biểu] của Việt Nam, một đàng thì con làm vẻ vang cho hạng phụ nữ trí thức Việt Nam”.

Sự kiện hai cha con ông về nước ngày 7/6/1935 được báo giới Nam Kỳ quan tâm, như Đuốc nhà Nam số 1503 có bài tường thuật trên trang nhất ngay ngày hôm sau. Hiện nay, một số thông tin viết Henriette Bùi về nước đầu năm 1935 là không chính xác.

Với cuộc trở về của Henriette Bùi, ngoài là con của một người có danh vọng, cô còn đại diện cho nữ giới Việt Nam tân tiến dạo ấy khi cô gái trẻ du học ở xứ văn minh, lại nhận bằng bác sĩ, một ngành nghề mà trong ngành y dạo ấy ở xứ ta, là phần việc của nam giới, và cũng còn rất ít bác sĩ người Việt được đào tạo bên châu Âu. Thế nên, Henriette Bùi như một vì sao sáng đại biểu cho sự tiến bộ, tôn vinh nữ quyền của chị em.

Tờ Đàn bà mới số 25, ngày 17/6/1935 viết “cô là người đầu tiên đậu y khoa bác sỉ [sĩ]. Vẩn [vẫn] biết đối với nước ngoài, và với các anh em Việt Nam, bằng cấp đó không phải lớn lao gì, nhưng đối với chị em Việt Nam lại là một sự vinh hạnh lớn, có thể tự hào với chị em nước ngoài rằng mình cũng đã có người bạn gái trẻ có cấp bằng y khoa như họ. Lấy danh nghĩa một tờ báo của đàn bà, tán dương đàn bà trên con đường học vấn, chúng tôi cỗ [cổ] động đi đón cô Bùi là đón một người đàn bà An Nam đầu tiên đậu y khoa bác sỉ [sĩ] chớ không phải đón con gái của một người đại biểu Việt Nam”.

Sống đời tận hiến với nghề, với người

Mới về nước, Henriette Bùi nhận được sự quan tâm, mến mộ của nữ giới Nam Kỳ. Báo chí đưa tin theo sát, nhiều cuộc nói chuyện, tiếp rước diễn ra. Đơn cử như ngày 20/6/1935, một tiệc trà được tổ chức với sự tham dự của phu nhân Toàn quyền Robin, phu nhân Thống đốc Pages để chào mừng vị nữ bác sĩ mới tốt nghiệp. Chủ lễ là cô giáo Phạm Thị Mỹ của Trường Nữ học đã phát biểu khẳng định: “Xưa người ta có thành kiến rằng đàn bà về phương diện tri thức tinh thần kém đàn ông, nay cô Bùi đã tỏ ra rằng cái thành kiến ấy là không đúng”.

Hình Henriette Bùi trên Báo Đàn bà mới số 25 - Ảnh tư liệu

Với tấm bằng bác sĩ y khoa, Henriette Bùi bước vào con đường thực hành y đức khi nhận chức Trưởng khoa Hộ sinh ở Bệnh viện Chợ Lớn (Bệnh viện Từ Dũ nay). Dù là thập niên 1930 khi y học phương Tây đã hiện diện ở các thành phố lớn của Việt Nam như Sài Gòn, Hà Nội, nhưng dân trí chưa cao, người dân phần nhiều còn xa lạ với nhà thương, bệnh xá cũng như phương pháp chữa bệnh bằng tây y.

Thêm vào đó, dù là bằng cấp bác sĩ ngang nhau, nhưng bác sĩ người Việt vẫn bị phân biệt, đối xử chưa được ngang hàng so với đồng nghiệp Pháp, lương thậm chí thấp hơn nhiều.

Vượt qua những khó khăn đó, Henriette Bùi - bằng lòng yêu nghề và sự tự tôn dân tộc - đã thực hành y đức xứng đáng với lời thề Hippocrates. Cô đấu tranh cho sự công bằng của y bác sĩ Việt so với đồng nghiệp Pháp; phản đối việc mặc đầm tây đi làm và chọn ăn mặc như một người Việt Nam; sang Nhật hàm thụ phương pháp châm cứu áp dụng trong sản khoa; làm không lương trong ngành hộ sản và nhi khoa tại Bệnh viện Phú Thọ năm 1970…

Thậm chí, cô còn không tiếc tài sản riêng để phục vụ cộng đồng. Ngôi biệt thự số 28 đường Testard của gia đình xây dựng tại khu vực là địa điểm chùa Khải Tường xưa, được Henriette Bùi hiến tặng làm Y khoa Đại học đường. Ngày nay, hình dáng của ngôi biệt thự kiểu Pháp ấy thuộc phần đất Bảo tàng Chứng tích chiến tranh ở số 28 Võ Văn Tần, TPHCM đã không còn.

Bà Henriette Bùi lúc còn tại thế, khi về già - Ảnh tư liệu

Về hạnh phúc riêng, về nước chưa được 2 tháng, thuận theo sự sắp đặt của mẹ cha, Henriette Bùi kết hôn với người chồng được xem là môn đăng hộ đối. Ngày 29/7/1935, cô sánh duyên cùng trạng sư Vương Quang Nhường, “một vị thầy kiện có tiếng ở Sai Gòn, rất tận tâm giúp người An Nam”, như lời Đàn bà mới số 30, ngày 29/7/1935 viết. Tuy nhiên, 2 năm sau, họ chia tay khi sống không hạnh phúc.

Sau này, Henriette Bùi gá nghĩa với ông Nguyễn Ngọc Bích, từng du học bên Pháp ngành kỹ sư cầu đường. Là người yêu nước, khi trở về làm việc tại Sóc Trăng, ông gia nhập Việt Minh, sau trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I. Ông được biết đến là “kỹ sư phá cầu” khi đánh sập cầu Cái Răng, Tân Hương phục vụ cho việc tiêu thổ kháng chiến. Bị địch bắt, vì có quốc tịch Pháp, ông bị trục xuất sang Pháp. Từ năm 1961, vợ chồng Henriette Bùi - Nguyễn Ngọc Bích định cư ở Pháp.

Trong quãng đời hơn 40 năm gắn bó với nghề y, Henriette lúc làm việc ở Việt Nam, lúc sang Pháp hành nghề. Ông Bích mất năm 1966, còn bà làm nghề y đến năm 1976, nghỉ hưu và qua đời năm 2012, thọ 106 tuổi.

Trần Đình Ba

Kỳ tới: Nữ tiến sĩ toán học Việt Nam đầu tiên và luận án trong mưa bom B-52

Nguồn: Nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam - Cuộc đời tận hiến cho y học, Báo Phụ Nữ Online, 11/08/2025

Print Friendly and PDF