HỌ CUNG CẤP MỘT CÁCH GIẢI THÍCH CHO LÝ DO TẠI SAO MỘT SỐ NƯỚC LẠI GIÀU, CÒN NHỮNG NƯỚC KHÁC LẠI NGHÈO
Những người nhận giải [các khoa học kinh tế của ngân hàng Sveriges Riksbank để tưởng nhớ Alfred Nobel - ND] năm nay đã cung cấp những thấu nhận |insight| mới nhằm giải thích cho lý do tại sao lại có những khác biệt lớn như vậy về sự thịnh vượng giữa các quốc gia. Một cách giải thích quan trọng là những khác biệt tồn tại dai dẳng trong các thể chế xã hội. Bằng cách khảo cứu các hệ thống chính trị và kinh tế khác nhau do những người thực dân châu Âu đưa vào thực thi, Daron Acemoglu, Simon Johnson và James A. Robinson đã có thể chứng minh một mối liên hệ giữa các thể chế và sự thịnh vượng. Họ cũng đã phát triển các công cụ lý thuyết có thể giải thích tại sao những khác biệt trong các thể chế vẫn tồn tại và các thể chế có thể thay đổi ra sao.
Hiện nay, 20% các nước giàu nhất thế giới
giàu hơn 20% các nước nghèo nhất khoảng 30 lần. Hơn nữa, khoảng cách thu nhập
giữa các nước giàu nhất và các nước nghèo nhất vẫn tồn tại dai dẳng; mặc dù các
nước nghèo nhất đã trở nên giàu có hơn, song họ vẫn chưa bắt kịp với các nước
thịnh vượng nhất. Tại sao lại vậy? Những người nhận giải [Nobel kinh tế - ND]
năm nay đã tìm thấy chứng cứ mới và thuyết phục đối với một cách giải thích cho
khoảng cách tồn tại dai dẳng này – những khác biệt trong các thể chế của một xã
hội.
Việc cung cấp chứng cứ cho điều này không phải là nhiệm vụ dễ dàng. Một mối tương quan giữa các thể chế trong một xã hội và sự thịnh vượng của xã hội đó không nhất thiết có nghĩa là cái này là nguyên nhân của cái kia. Các nước giàu có khác với các nước nghèo trên nhiều phương diện – không chỉ ở các thể chế của họ – thế nên, có thể có những lý do khác cho cả sự thịnh vượng lẫn loại hình thể chế của họ. Có lẽ sự thịnh vượng tác động lên các thể chế của một xã hội, chứ không phải ngược lại. Để đi tới câu trả lời của mình, những người nhận giải đã sử dụng một cách tiếp cận thực nghiệm mang tính cách tân.
Những người nhận giải cũng đã phát triển một khung khổ lý thuyết mang tính cách tân nhằm giải thích tại sao một số xã hội bị mắc kẹt trong một cái bẫy mà những người nhận giải gọi là các thể chế tước đoạt |extractive|, và tại sao việc thoát khỏi cái bẫy này lại khó khăn tới vậy. Tuy nhiên, họ cũng chỉ ra rằng sự thay đổi là khả dĩ, và các thể chế mới có thể được hình thành. Trong một vài hoàn cảnh, một đất nước có thể thoát khỏi các thể chế được thừa hưởng của mình để thiết lập nền dân chủ và pháp quyền |rule of law|. Về lâu về dài, những thay đổi này cũng dẫn tới sự suy giảm đói nghèo.
Làm sao chúng ta có thể thấy các dấu vết của những thể chế thuộc địa này ở thời nay? Trong một công trình của mình, những người nhận giải đã lấy thành phố Nogales, nằm trên đường biên giới giữa Hoa Kỳ và Mexico, làm ví dụ.
Câu chuyện về hai thành phố
Nogales bị chia cắt thành hai nửa bởi một bờ rào. Nếu bạn đứng ở bờ rào này và nhìn về phía bắc, Nogales, bang Arizona, Hoa Kỳ trải dài trước mắt bạn. Các cư dân ở đây tương đối khá giả, có tuổi thọ trung bình cao và hầu hết trẻ em đều tốt nghiệp trung học. Các quyền tư hữu được bảo đảm và người dân ở đây biết rằng họ sẽ được hưởng hầu hết các lợi ích từ những khoản đầu tư của mình. Các cuộc bầu cử tự do mang tới cho các cư dân cơ hội thay thế những chính khách mà họ không hài lòng.
Nếu nhìn về phía nam, bạn sẽ thấy Nogales, ở bang Sonora, Mexico. Mặc dù đây là một vùng tương đối giàu có của Mexico, song nhìn chung, các cư dân ở đây nghèo hơn đáng kể so với phía bắc bờ rào. Bọn tội phạm có tổ chức khiến việc khởi nghiệp và điều hành công ty trở nên rủi ro. Các chính khách tham nhũng rất khó bị loại bỏ, ngay cả khi khả năng này đã được cải thiện kể từ khi Mexico tiến hành dân chủ hóa, chỉ mới diễn ra cách đây hơn 20 năm về trước.
Tại sao hai nửa của cùng một thành phố lại có điều kiện sống khác biệt lớn như vậy? Về mặt địa lý, chúng ở cùng một vùng đất, thế nên các nhân tố như khí hậu hoàn toàn y hệt nhau. Hai nhóm dân cư này cũng có những nguồn gốc tương tự; về mặt lịch sử, vùng phía bắc thực sự thuộc về Mexico, thế nên các cư dân lâu năm của thành phố này có nhiều tổ tiên chung. Ngoài ra, còn có nhiều điểm tương đồng về mặt văn hóa. Mọi người ăn những món ăn tương tự và nghe hầu như cùng một loại nhạc ở cả hai bên bờ rào.
Vì thế, những khác biệt mang tính quyết định không phải là địa lý hay văn hóa, mà là các thể chế. Những người sống ở phía bắc bờ rào sống trong hệ thống kinh tế của Hoa Kỳ, điều này mang lại cho họ nhiều cơ hội hơn để lựa chọn giáo dục và nghề nghiệp của mình. Họ cũng là một phần của hệ thống chính trị của Hoa Kỳ, điều này mang lại cho họ các quyền chính trị rộng rãi. Các cư dân ở phía nam bờ rào không được may mắn như thế. Họ sống trong các điều kiện kinh tế khác và hệ thống chính trị hạn chế khả năng của họ tác động lên tiến trình lập pháp. Những người nhận giải năm nay đã chứng minh rằng thành phố Nogales bị chia cắt không phải là một ngoại lệ. Thay vào đó, nó là một phần của một khuôn mẫu rõ ràng có những gốc rễ từ thời thuộc địa.
Các thể chế thuộc địa
Khi những người châu Âu xâm chiếm các vùng đất rộng lớn trên thế giới, những thể chế hiện có đôi khi thay đổi đáng kể, song lại không giống nhau ở mọi nơi. Ở một số thuộc địa, mục đích là bóc lột dân bản địa và khai thác tài nguyên thiên nhiên để mang lại lợi ích cho những người thực dân. Trong những trường hợp khác, những người thực dân xây dựng các hệ thống chính trị và kinh tế dung hợp |inclusive| vì lợi ích lâu dài của những người định cư châu Âu.
Một nhân tố quan trọng tác động lên loại hình thuộc địa phát triển là mật độ dân số của khu vực đã bị xâm chiếm. Dân số bản địa càng đông đúc bao nhiêu thì mức độ kháng cự càng lớn bấy nhiêu. Mặt khác, lượng dân số bản địa đông đảo hơn – một khi bị đánh bại – mang lại những cơ hội béo bở về nguồn lao động giá rẻ. Điều này dẫn tới việc có ít người định cư châu Âu chuyển đến các thuộc địa vốn đã đông dân cư. Những vùng đất có dân cư thưa thớt hơn sẽ ít phải chống trả những người thực dân hơn và ít phải bị bóc lột sức lao động hơn, thế nên nhiều người thực dân châu Âu chuyển tới những vùng đất có dân cư thưa thớt hơn này.
Đổi lại, điều này ảnh hưởng lên các hệ thống chính trị và kinh tế phát triển. Khi có ít người thực dân, họ tiếp quản hoặc thành lập các thể chế tước đoạt tập trung vào việc mang lại lợi ích cho một nhóm tinh hoa địa phương theo cách gây tổn hại cho đông đảo người dân. Ở đó, chẳng có cuộc bầu cử nào, và các quyền chính trị bị cực kỳ hạn chế. Ngược lại, các thuộc địa có nhiều người thực dân – những thuộc địa định cư – cần có các thể chế kinh tế dung hợp khuyến khích những người định cư làm việc chăm chỉ và đầu tư vào quê hương mới của họ. Đổi lại, điều này dẫn tới những yêu cầu về các quyền chính trị mang lại cho họ một phần lợi nhuận. Dĩ nhiên, các thuộc địa châu Âu ban đầu không phải là những gì chúng ta gọi là nền dân chủ ngày nay nhưng so với các thuộc địa đông dân mà ít người châu Âu chuyển tới, các thuộc địa định cư cung cấp các quyền chính trị rộng rãi hơn đáng kể.
Đảo ngược vận may
Những người nhận giải năm nay đã chứng minh rằng những khác biệt ban đầu này trong các thể chế thuộc địa là một cách giải thích quan trọng cho những khác biệt to lớn về sự thịnh vượng mà chúng ta nhìn thấy ngày nay. Những khác biệt đương thời về các điều kiện sống giữa thành phố Nogales, thuộc Hoa Kỳ và thành phố Nogales, thuộc Mexico, do đó phần đa là do các thể chế được đưa vào thuộc địa Tây Ban Nha sau này thuộc về Mexico và ở các thuộc địa thuộc về Hoa Kỳ. Khuôn mẫu này tương tự trên khắp thế giới bị thực dân hóa và không phụ thuộc vào việc những người thực dân là người Anh, Pháp, Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha.
Nghịch lý thay, điều này có nghĩa là những khu vực của thế giới bị thực dân hóa vốn tương đối thịnh vượng nhất vào khoảng 500 năm trước giờ lại là những vùng tương đối nghèo. Nếu chúng ta xem xét quá trình đô thị hóa như một thước đo về sự thịnh vượng, thì điều này diễn ra lớn hơn ở Mexico dưới thời người Aztec trị vì so với cùng thời điểm đó ở khu vực Bắc Mỹ hiện được gọi là Canada và Hoa Kỳ. Lý do là ở những vùng đất nghèo nhất và thưa thớt dân cư nhất, những người thực dân châu Âu đã đưa vào thực thi hoặc duy trì các thể chế thúc đẩy sự thịnh vượng lâu dài. Tuy nhiên, ở những thuộc địa giàu có nhất và đông dân nhất, các thể chế là mang tính tước đoạt nhiều hơn và – đối với người dân địa phương – ít có khả năng dẫn tới sự thịnh vượng hơn.
Sự đảo ngược của sự thịnh vượng có tính tương đối này là duy nhất trong lịch sử. Khi những người nhận giải nghiên cứu quá trình đô thị hóa trong nhiều thế kỷ trước khi có sự thuộc địa hóa, họ không tìm thấy một khuôn mẫu tương tự nào: những vùng đất đô thị hóa hơn và do đó giàu có hơn trên thế giới vẫn đô thị hóa hơn và giàu có hơn. Ngoài ra, nếu nhìn vào những vùng đất trên thế giới không bị thuộc địa hóa, thì chúng ta không tìm thấy bất kỳ sự đảo ngược nào của vận may.
Những người nhận giải cũng đã chỉ ra rằng sự đảo ngược này chủ yếu xảy ra liên quan tới cuộc cách mạng công nghiệp. Chẳng hạn như cho tới tận giữa thế kỷ XVIII, sản lượng công nghiệp ở vùng đất hiện là Ấn Độ vẫn cao hơn ở Hoa Kỳ. Điều này đã thay đổi cơ bản kể từ đầu thế kỷ XIX, nó cho thấy sự đảo ngược chủ yếu là kết quả của những khác biệt giữa các thể chế. Những cách tân kỹ thuật lan rộng khắp thế giới chỉ có thể tồn tại ở những vùng đất đã thiết lập các thể chế có lợi cho đông đảo người dân.
Mức tử vong của người định cư
Do đó, cách giải thích trực tiếp nhất cho loại hình thể chế thuộc địa là số lượng người định cư châu Âu. Càng nhiều người định cư châu Âu bao nhiêu, khả năng thiết lập các hệ thống kinh tế thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn càng cao bấy nhiêu. Những người nhận giải đã chỉ ra rằng một nhân tố khác góp phần vào những khác biệt về thể chế là mức độ nghiêm trọng của các bệnh lây nhiễm qua các cộng đồng của người định cư.
Tỷ lệ mắc bệnh chết người rất khác nhau giữa các vùng phía bắc và các vùng phía nam của châu Mỹ, cũng giống như ở các vùng châu Phi gần đường xích đạo hơn là các vùng châu Phi ở cực nam. Tương tự như vậy, các căn bệnh được tìm thấy ở Ấn Độ nhiều hơn đáng kể và nguy hiểm hơn đối với những người thực dân Anh so với những căn bệnh ở New Zealand hoặc Úc. Tỷ lệ mắc bệnh, có thể thấy trong số liệu thống kê lịch sử về mức tử vong trong thời thuộc địa, có liên quan chặt chẽ tới sự thịnh vượng kinh tế hiện tại. Những vùng đất mà bệnh tật nguy hiểm nhất đối với người châu Âu là nơi mà chúng ta hiện thấy các hệ thống kinh tế rối loạn chức năng và nghèo đói nhất, cũng như có nạn tham nhũng lớn nhất và pháp quyền yếu kém nhất. Một lý do quan trọng cho điều này là các thể chế tước đoạt mà những người thực dân châu Âu đã thiết lập hoặc chọn giữ lại, nếu điều đó có lợi cho họ.
![]() |
Montesquieu (1689-1775) |
![]() |
Những người nhận giải năm nay đã bổ sung thêm một chiều hướng mới vào các cách giải thích trước đây về những khác biệt hiện tại trong sự giàu có của các nước trên toàn cầu. Một trong số đó liên quan tới địa lý và khí hậu. Kể từ khi Montesquieu xuất bản cuốn sách nổi danh Tinh thần pháp luật |The Spirit of Laws| (1748), đã có một ý tưởng được xác lập rằng các xã hội ở vùng khí hậu ôn đới có năng suất kinh tế cao hơn các xã hội ở vùng nhiệt đới. Và ở đây, có một mối tương quan: các nước gần xích đạo hơn thì nghèo hơn. Tuy nhiên, theo những người nhận giải, điều này không chỉ do khí hậu. Nếu điều đó là sự thật, thì sự đảo ngược lớn của vận may đã không thể xảy ra. Một cách giải thích quan trọng cho lý do tại sao các nước nóng hơn cũng là các nước nghèo hơn chính là do các thể chế xã hội của họ.
Thoát bẫy
Acemoglu, Johnson và Robinson đã phát hiện ra một chuỗi nhân quả rõ ràng. Các thể chế được tạo ra để bóc lột quần chúng nhân dân thì không tốt cho tăng trưởng dài hạn, trong khi các thể chế thiết lập các quyền tự do kinh tế cơ bản và pháp quyền thì tốt cho tăng trưởng dài hạn. Các thể chế chính trị và kinh tế cũng có xu hướng tồn tại rất lâu. Ngay cả khi các hệ thống kinh tế tước đoạt mang lại lợi ích ngắn hạn cho giới tinh hoa cầm quyền, thì việc đưa vào thực thi các thể chế dung hợp hơn, ít tước đoạt hơn và có pháp quyền sẽ tạo ra những lợi ích dài hạn cho mọi người dân. Vậy tại sao giới tinh hoa lại không tiến hành biện pháp đơn giản [để mang lại lợi ích dài hạn cho mọi người - ND] là thay thế hệ thống kinh tế hiện tại?
Cách giải thích của những người nhận giải tập trung vào các xung đột về quyền lực chính trị và vấn đề về độ tin cậy giữa giới tinh hoa cầm quyền và dân chúng. Ngày nào hệ thống chính trị còn có lợi cho giới tinh hoa bao nhiêu, thì ngày đó dân chúng không thể tin rằng những lời hứa về một hệ thống kinh tế cải cách sẽ được thực hiện bấy nhiêu. Một hệ thống chính trị mới, cho phép dân chúng thay thế những nhà lãnh đạo không giữ lời hứa trong các cuộc bầu cử tự do, sẽ cho phép cải cách hệ thống kinh tế. Tuy nhiên, giới tinh hoa cầm quyền không tin rằng dân chúng sẽ đền bù cho họ về sự mất mát những lợi ích kinh tế một khi hệ thống mới được đưa vào thực thi trong thực tế. Đây được gọi là vấn đề cam kết; rất khó để vượt qua và có nghĩa là các xã hội bị mắc kẹt với các thể chế tước đoạt, tình trạng đói nghèo đại trà |mass poverty| và một giới tinh hoa giàu có.
Tuy nhiên, những người nhận giải cũng đã chỉ ra rằng việc không thể đưa ra những lời hứa đáng tin cậy cũng có thể giải thích tại sao quá trình chuyển đổi sang nền dân chủ đôi khi vẫn xảy ra. Ngay cả khi không có quyền lực chính trị chính thức, dân số ở một quốc gia phi dân chủ vẫn có một vũ khí mà giới tinh hoa cầm quyền lo sợ – đó là họ rất đông. Quần chúng nhân dân có thể được huy động và trở thành mối đe dọa mang tính cách mạng. Mặc dù mối đe dọa này có thể bao gồm bạo lực, song thực tế là mối đe dọa mang tính cách mạng có thể lớn nhất nếu cuộc huy động này diễn ra trong hòa bình, vì nó cho phép số lượng người lớn nhất tham gia các cuộc biểu tình.
Giới tinh hoa phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan khi mối đe dọa này trở nên nghiêm trọng nhất; họ muốn duy trì quyền lực và chỉ cố gắng xoa dịu quần chúng nhân dân bằng cách hứa hẹn về các cuộc cải cách kinh tế. Nhưng lời hứa như vậy không đáng tin cậy vì quần chúng nhân dân biết rằng giới tinh hoa, nếu vẫn nắm quyền, có thể nhanh chóng quay trở lại hệ thống cũ khi tình hình lắng dịu. Trong trường hợp này, lựa chọn duy nhất cho giới tinh hoa có thể là trao trả quyền lực và đưa vào thực thi nền dân chủ.
Mô hình của những người nhận giải để giải thích các hoàn cảnh mà các thể chế chính trị được hình thành và thay đổi có ba thành phần. Thứ nhất là xung đột về cách phân bổ nguồn lực và ai nắm giữ quyền lực ra quyết định trong một xã hội (giới tinh hoa hay quần chúng nhân dân). Thứ hai là quần chúng nhân dân đôi khi có cơ hội thực thi quyền lực bằng cách huy động và đe dọa giới tinh hoa cầm quyền; do đó, quyền lực trong một xã hội không chỉ là quyền đưa ra những quyết định. Thứ ba là vấn đề cam kết, có nghĩa là giải pháp thay thế duy nhất là giới tinh hoa chuyển giao quyền lực ra quyết định cho dân chúng.
Mô hình này đã được sử dụng để giải thích quá trình dân chủ hóa ở khu vực Tây Âu vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Ở Vương quốc Anh, quyền bầu cử được mở rộng theo nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn đều diễn ra sau các cuộc tổng đình công và biểu tình rộng rãi. Giới tinh hoa Vương quốc Anh không thể đáp ứng một cách đáng tin cậy mối đe dọa mang tính cách mạng này bằng những lời hứa về các cuộc cải cách xã hội; thay vào đó, họ buộc phải, thường là miễn cưỡng, san sẻ quyền lực. Tình hình ở Thụy Điển cũng tương tự như vậy, nơi quyết định về quyền bầu cử chung vào tháng 12 năm 1918 được đưa ra sau làn sóng bạo loạn lan rộng của cuộc cách mạng Nga [1917]. Mô hình này cũng đã được sử dụng để giải thích lý do tại sao một số nước luân phiên giữa chế độ dân chủ và chế độ phi dân chủ. Nó cũng có thể được sử dụng để chỉ ra lý do tại sao các nước không có thể chế dung hợp lại khó đạt được tăng trưởng ngang bằng với những nước có thể chế này và tại sao giới tinh hoa cầm quyền đôi khi có thể hưởng lợi từ việc ngăn chặn công nghệ mới.
Daron Acemoglu, Simon Johnson và James Robinson đã đóng góp nghiên cứu mang tính cách tân về những gì tác động lên sự thịnh vượng kinh tế của các nước trong dài hạn. Nghiên cứu thực nghiệm của họ chứng minh tầm quan trọng cơ bản của loại hình thể chế chính trị và kinh tế được đưa vào trong thời kỳ thực dân hóa. Nghiên cứu lý thuyết của họ đã góp phần giúp chúng ta hiểu được lý do tại sao lại khó cải cách các thể chế tước đoạt đến thế, đồng thời chỉ ra một vài hoàn cảnh mà điều này vẫn có thể xảy ra. Công trình của những người nhận giải đã có một sự ảnh hưởng mang tính quyết định lên nghiên cứu liên tục trong cả kinh tế học lẫn khoa học chính trị. Những thấu nhận của họ về cách các thể chế tác động lên sự thịnh vượng cho thấy rằng hoạt động ủng hộ nền dân chủ và các thể chế dung hợp là một cách quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế.
ĐỌC THÊM Thông tin bổ sung về giải thưởng năm nay, bao gồm cả lý lịch khoa học bằng tiếng Anh, có sẵn trên trang web của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, www.kva.se và tại www.nobelprize.org, nơi bạn có thể xem video từ các cuộc họp báo, Bài giảng Nobel và nhiều nội dung khác. Thông tin về các cuộc triển lãm và hoạt động liên quan tới Giải thưởng Nobel và Giải thưởng các Khoa học Kinh tế có sẵn tại www.nobelprizemuseum.se. |
Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã quyết định trao Giải thưởng [của ngân hàng] Sveriges Riksbank về Khoa học Kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel năm 2024 cho
DARON ACEMOGLU
Sinh năm 1967 tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Lấy bằng tiến sĩ năm 1992 tại Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London, Vương quốc Anh. Hiện đang là giáo sư tại Viện Công nghệ Massachusetts, Cambridge, Hoa Kỳ.
SIMON JOHNSON
Sinh năm 1963 tại Sheffield, Vương quốc Anh. Lấy bằng tiến sĩ năm 1989 tại Viện Công nghệ Massachusetts, Cambridge, Hoa Kỳ. Hiện đang là giáo sư tại Viện Công nghệ Massachusetts, Cambridge, Hoa Kỳ.
JAMES A. ROBINSON
Sinh năm 1960. Lấy bằng Tiến sĩ năm 1993 từ Đại học Yale, New Haven, CT, Hoa Kỳ. Hiện đang là giáo sư tại Đại học Chicago, IL, Hoa Kỳ.
“vì những nghiên cứu về cách các thể chế được hình thành và tác động lên sự thịnh vượng”
Các biên tập viên khoa học: Tommy Andersson, Peter Fredriksson, Jakob Svensson và Jan Teorell, các thành viên của Ủy ban Giải thưởng Khoa học Kinh tế tưởng nhớ Alfred Nobel.
Người vẽ minh họa: Johan Jarnestad
Người dịch [sang tiếng Anh]: Clare Barnes
Biên tập viên: Sara Rylander
©Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển
Nguyễn Việt Anh dịch
Nguồn: They provided an explanation for why some countries are rich and others poor, Nobel Prize, Oct 14, 2024.
