13.10.24

Giải Nobel Vật lý được trao cho những nhà khoa học tiên phong về mạng neuron, đặt nền móng cho AI

GIẢI NOBEL VẬT LÝ ĐƯỢC TRAO CHO NHỮNG NHÀ KHOA HỌC TIÊN PHONG VỀ MẠNG NEURON, ĐẶT NỀN MÓNG CHO A.I.

Christine Olsson / TT / EPA

Giải Nobel Vật lý năm 2024 đã được trao cho hai nhà khoa học John Hopfield và Geoffrey Hinton “vì những phát minh và khám phá nền tảng đã mở đường cho lĩnh vực học máy với mạng neuron nhân tạo”.

Lấy cảm hứng từ các ý tưởng trong ngành vật lý và sinh học, Hopfield và Hinton đã phát triển những hệ thống máy tính có khả năng ghi nhớ và học hỏi từ các mẫu dữ liệu. Dù chưa từng trực tiếp cộng tác, họ đã dựa vào nghiên cứu của nhau để cùng phát triển nền móng cho cú “bùng nổ” hiện nay ở lĩnh vực học máy (machine learning) và trí tuệ nhân tạo (AI).

Mạng neuron là gì? (Và nó liên quan gì đến vật lý?)

Mạng neuron nhân tạo là nền móng của nhiều công nghệ AI mà chúng ta sử dụng ngày nay.

Giống như não bộ con người có các tế bào thần kinh kết nối với nhau thông qua các khớp thần kinh, mạng neuron nhân tạo cũng có những neuron kỹ thuật số được kết nối theo các cấu hình khác nhau. Từng neuron riêng lẻ không có gì đặc biệt. Điều đặc biệt nằm ở mô hình và cường độ của các kết nối giữa chúng.

Các neuron trong mạng nhân tạo được “kích hoạt” bởi các tín hiệu đầu vào. Những tín hiệu này được truyền từ neuron này sang neuron khác sao cho có thể chuyển đổi và xử lý thông tin đầu vào. Qua đó, mạng nhân tạo có thể thực hiện các nhiệm vụ mang tính tính toán như phân loại, dự đoán và ra quyết định.

Johan Jarnestad / Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển

Phần lớn lịch sử của lĩnh vực học máy tập trung vào việc tối ưu hóa cách tạo lập và củng cố kết nối giữa các neuron nhân tạo như vậy.

Mặc dù ý tưởng liên kết các hệ thống nút mạng (nodes) để lưu trữ và xử lý thông tin có nguồn gốc từ sinh học, nhưng toán học đã được ứng dụng trong việc tạo lập các liên kết, và quá trình củng cố những liên kết ấy lại được lấy ý tưởng từ vật lý.

Các mạng nhân tạo có thể ghi nhớ

John Hopfield (sinh năm 1933) là một nhà vật lý lý thuyết người Mỹ đã có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực vật lý sinh học. Song, giải Nobel Vật lý năm nay lại dành cho công trình phát triển mạng Hopfield của ông từ năm 1982.

Các mạng Hopfield là một trong những mạng neuron nhân tạo đầu tiên. Được lấy cảm hứng từ các nguyên tắc sinh học thần kinh và vật lý phân tử, hệ thống này lần đầu chứng minh cách một máy tính có thể sử dụng “mạng lưới” các nút để ghi nhớ, truy xuất và tái tạo thông tin.

Mạng nhân tạo do Hopfield phát triển có thể ghi nhớ dữ liệu (chẳng hạn như một bộ sưu tập các hình ảnh đen trắng). Khi một hình ảnh tương tự được cập nhật vào mạng, thông qua liên kết, mạng có thể “tái tạo” những hình ảnh cũ.

Dù lúc bấy giờ còn hạn chế trong ứng dụng thực tiễn, mạng Hopfield cho thấy hệ thống mạng neuron nhân tạo có thể lưu trữ và truy xuất dữ liệu theo những cách hoàn toàn mới. Thành quả ấy đã đặt nền móng cho công trình khoa học về sau của Hinton.

Johan Jarnestad / Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển

Máy móc có khả năng học tập

Geoff Hinton (sinh năm 1947), là một nhà khoa học máy tính người Anh-Canada, còn được biết đến như một trong những “cha đỡ đầu của AI". Ông đã có nhiều đóng góp quan trọng cho lĩnh vực này. Năm 2018, cùng với Yoshua Bengio và Yann LeCun, ông đã được trao giải thưởng Turing (giải thưởng danh giá nhất trong ngành khoa học máy tính) vì những nỗ lực nhằm thúc đẩy lĩnh vực học máy nói chung, và đặc biệt là phân nhánh học sâu (deep learning).

Tuy nhiên, giải Nobel Vật lý năm nay là để vinh danh công trình phát triển máy Boltzmann vào năm 1984 do ông cùng Terrence Sejnowski và các đồng nghiệp khác thực hiện.

Máy Boltzmann là phép mở rộng của mạng Hopfield, minh họa cho ý tưởng về học máy – một hệ thống cho phép máy tính tự học hỏi từ các mẫu dữ liệu ví dụ, thay vì học từ lập trình viên. Dựa trên các ý tưởng về động lực học năng lượng trong vật lý thống kê, Hinton đã chứng minh mô hình máy tính tạo sinh này có thể học cách lưu trữ dữ liệu theo thời gian thông qua việc ghi nhớ từ những ví dụ đã được cung cấp.

Johan Jarnestad / Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển

Cũng giống như mạng Hopfield trước đó, máy Boltzmann không có ứng dụng thực tiễn ngay lập tức. Tuy nhiên, một phiên bản chỉnh sửa (được gọi là máy Boltzmann hạn chế) đã đóng góp vào một số ứng dụng.

Thế nhưng điều quan trọng hơn là bước đột phá về mặt khái niệm, rằng một mạng neuron nhân tạo có thể học hỏi từ dữ liệu. Hinton đã tiếp tục phát triển ý tưởng này. Sau đó, ông đã công bố các bài báo có ảnh hưởng về backpropagation (lan truyền ngược, quy trình học được sử dụng trong các hệ thống học máy hiện đại) và mạng neuron tích chập (loại mạng neuron chính ngày nay được sử dụng cho các hệ thống AI làm việc với dữ liệu hình ảnh và video).

Tại sao giải thưởng này được trao trong năm nay?

Nếu so sánh với những thành tựu AI ngày nay, mạng Hopfield và máy Boltzmann trông khá kỳ quặc. Mạng Hopfield chỉ chứa 30 neuron (Hopfield đã cố gắng tạo ra một mạng có 100 nút, nhưng mong muốn này vượt quá tài nguyên tính toán lúc bấy giờ), trong khi các hệ thống hiện đại như ChatGPT có thể chứa đến hàng triệu neuron. Dù vậy, giải Nobel năm nay được trao là để nhấn mạnh tầm quan trọng của những đóng góp nền móng đối với lĩnh vực này.

Tuy những tiến bộ thần tốc gần đây của AI (mà chúng ta đều thấy được thông qua các hệ thống AI tạo sinh như ChatGPT) có thể được coi là sự khẳng định cho những người tiên phong về mạng neuron, nhưng Hinton lại bày tỏ sự lo ngại. Năm 2023, sau khi từ bỏ công việc 10 năm tại chi nhánh AI của Google, Hinton tiết lộ với The New York Times rằng ông sợ tốc độ phát triển quá nhanh này và đã gia nhập nhiều nhóm kêu gọi xây dựng các quy định quản lý AI chủ động.

Sau khi nhận giải Nobel, Hinton đã chia sẻ trong bài phỏng vấn với BBC: “AI sẽ là một cuộc cách mạng công nghiệp mới, nhưng nó không vượt qua chúng ta về khả năng vật lý, mà là khả năng trí tuệ”. Hinton cũng nói thêm rằng ông vẫn e sợ hệ quả công việc của mình sẽ dẫn tới “các hệ thống thông minh hơn chúng ta có thể cuối cùng sẽ chiếm luôn quyền kiểm soát”.

Tác giả

Aaron J. Snoswell

Aaron J. Snoswell

Nghiên cứu viên về Trách nhiệm giải trình AI, Đại học Công nghệ Queensland

Tuyên bố công khai

Aaron J. Snoswell nhận tài trợ từ OpenAI trong năm 2024.

Hải Âu dịch

Print Friendly and PDF