12.10.16

"Giải thưởng Nobel" kinh tế: mặt trái chính trị và tài chính của một giải thưởng



PTKT: Đã từ lâu, tính "chính danh" của tên gọi "giải Nobel kinh tế" bị đặt thành vấn đề. PTKT từng đề cập vấn đề này ở đây. Đầu thu năm nay, nhà xuất bản đại học Princeton vừa cho ra mắt cuốn sách được điểm dưới đây. Hai tác giả là chuyên gia về lịch sử tư tưởng kinh tế, trong đó Avner Offer là thành viên của British Academy (Viện Hàn lâm Anh) và của All Souls College thuộc đại học Oxford. Bản dịch cuộc phỏng vấn đồng tác giả tác phẩm trên sẽ xuất hiện nay mai trong hồ sơ này.
"Giải thưởng Nobel" kinh tế: mặt trái chính trị và tài chính của một giải thưởng
Lễ trao giải thưởng của ngân hàng Thụy Điển để tưởng nhớ Alfred Nobel vào năm 2015.©YE PINGFAN/XINHUA-REA
Một cuốn sách mới, The Nobel Factor (Nhân tố Nobel), đã tiết lộ những cuộc chiến chính trị và ý thức hệ, cũng như những áp lực cá nhân và tài chính đã dẫn đến việc Ngân hàng Thụy Điển tạo ra cái gọi là "giải thưởng Nobel" về kinh tế vào năm 1968. Một cuốn sách hấp dẫn.
Một ngài thống đốc muốn độc lập
Avner Offer (1944-)

Nhà kinh tế Gilles Dostaler đã giải thích cho chúng ta làm thế nào Ngân hàng Thụy Điển đã thành công trong việc gán "giải thưởng về khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel" đồng thời với các giải thưởng Nobel đích thực khác, nhằm trao cho các nhà kinh tế một tính chính danh khoa học quốc tế. Avner Offer và Gabriel Söderberg còn đi xa hơn khi giải mã các điều kiện của việc tạo ra giải thưởng.
Chúng ta có thể nhận diện nguồn gốc trí thức của giải thưởng này vào năm 1955. Vào năm đó, Per Åsbrink được chính phủ của đảng Dân chủ Xã hội cầm quyền tại Thụy Điển bổ nhiệm làm Thống đốc Ngân hàng Trung ương. Truyền thống của đất nước muốn ngài thống đốc theo đuổi đường lối chính trị của chính phủ. Nhưng, Åsbrink không nghe theo vậy. Vừa được bổ nhiệm, ông yêu cầu tăng lãi suất bất động sản và kêu gọi thực hiện một chính sách thắt lưng buộc bụng.
Ngài thống đốc ngân hàng trung ương muốn làm tăng giá trị những người người ủng hộ các lợi ích chính trị của ông
Để bảo vệ vị trí của mình, ông đã bổ nhiệm Erik Lindahl làm cố vấn đặc biệt cho ông, một nhà kinh tế đã từ lâu ủng hộ sự cần thiết của mục tiêu ưu tiên chống lạm phát hơn là ưu tiên mục tiêu chống thất nghiệp, và là một người ủng hộ tính độc lập của các ngân hàng trung ương. Ngài thống đốc luôn tìm cách làm tăng giá trị khía cạnh khoa học các công trình của các nhà kinh tế và khả năng suy tưởng của họ: "Liệu có ai đó có thể bảo vệ ý tưởng cho rằng những tiến bộ trong lĩnh vực này ít quan trọng bằng hoặc ít khẩn cấp hơn so với những tiến bộ trong lĩnh vực y học, vật lý hay hóa học không?". Ông không chỉ tìm cách làm tăng giá trị những người ủng hộ các lựa chọn chính trị của ông, mà một cách tổng quát hơn, còn cả đối với những người tiến bộ, những người cải thiện phúc lợi của thế giới.
Những lập luận dựa trên “tiền tươi thóc thật”
Assar Lindbeck (1930-)
Sau cái chết của Lindahl, Assar Lindbeck, một nhà kinh tế người Thụy Điển khác, tiếp cận ngài thống đốc. Ông ấy sẽ đóng một vai trò then chốt. Kỷ niệm ba trăm năm ngày thành lập Ngân hàng Thụy Điển, từ năm 1668, gần kề và Åsbrink muốn qua đó biến nó thành một sự kiện quan trọng. Đầu tiên, ông nghĩ đến việc xuất bản một loạt các cuốn sách của các nhà kinh tế nổi tiếng. Nhưng thời gian quá cấp bách. Năm 1967, ông đề xuất Lindbeck tạo ra một giải Nobel mới. Nhà kinh tế (tức Lindbeck – ND) đồng ý và nhận trách nhiệm tiến hành các cuộc đàm phán. Ban đầu, trong số những thành viên của Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển, tổ chức trao các giải thưởng mà Alfred Nobel mong muốn và đã được trao kể từ năm 1901, các nhà vật lý có thái độ ngập ngừng khi thấy các nhà kinh tế đổ bộ. Nhưng tiền bạc sẽ lên tiếng.
Một quan hệ quan trọng với giới chủ
Trước hết, ngân hàng trung ương đã tài trợ một phần các nghiên cứu của Thụy Điển và việc tạo ra một quỹ nghiên cứu để chào mừng kỷ niệm ba trăm năm đã mang lại những nguồn lực mới. Đủ để có thể thuyết phục được cộng đồng khoa học. Kế tiếp, Lindbeck đã làm việc cho một viện kinh tế được tài trợ bởi anh em nhà Wallenberg, một dòng họ kinh tế gia đình lớn. Thế mà, hai anh em (nhà Wallenberg) là thành viên Hội đồng quản trị của Quỹ Nobel. Cuối cùng, có vẻ như Quỹ Nobel đã được "khuyến khích" hợp tác với dự án của ngân hàng trung ương nếu không muốn mất đi quy chế miễn trừ thuế khóa và được tự do lựa chọn các khoản đầu tư khả thi của mình, trong khi vẫn tiếp tục được nhận một khoản hoa hồng quan trọng của ngân hàng...
Đối với gia đình Nobel, người nữ thừa kế đã 87 tuổi bị đặt trước một sự việc đã rồi. Nhưng bà ấy có phản xạ là yêu cầu phần thưởng được gọi tên là "giải thưởng về khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel", để tạo ra sự khác biệt với những giải thưởng mà tổ tiên bà đã quyết định. Tất cả các cuộc đàm phán nói trên đều được tiến hành trong vòng bí mật tuyệt đối.
Một giải thưởng của cánh hữu hay cánh tả?
Rudolf Meidner (1914-2005)
Ủy ban chịu trách nhiệm lựa chọn những người được nhận giải đều mang dấu ấn của những nhà sáng lập ra nó. Thật vậy, bốn trong số sáu thành viên ban đầu đều hoặc là thành viên hay người thân của hội Mont Pèlerin được thành lập bởi Friedrich Hayek, hoặc là những nhà kinh tế làm việc cho giới chủ. Ngay cả Gunnar Myrdal, một nhà kinh tế có uy tín, hay Rudolf Meidner, lúc đó là nhà kinh tế chính của nghiệp đoàn, cũng không được lựa chọn làm thành viên của Ủy ban.
Từ sự việc trên, liệu giải thưởng, theo dòng chảy lịch sử, có bị đánh dấu bởi các lựa chọn mang tính ý thức hệ hơn là khoa học không? Có và không. Không, bởi vì nếu phân loại tất cả những người được trao giải theo thang biểu cánh hữu-cánh tả, thì chúng ta sẽ thấy một sự phân chia gần như công bằng 50/50. Nhưng có, vì hai lý do khác.
Giải thưởng đã được trao một nửa cho các nhà kinh tế thuộc cánh hữu, một nửa cho các nhà kinh tế thuộc cánh tả
Một mặt, Assar Lindbeck, người hiện diện từ buổi ban đầu của dự án, sẽ là thành viên có ảnh hưởng lớn nhất của Ủy ban lựa chọn, người đã phục vụ nó trong 25 năm và lãnh đạo nó trong 14 năm (1980-1994). Ông chắc chắn đã định hướng các lựa chọn của ủy ban theo hướng trao giải thưởng cho những nhà kinh tế tự do và đặc biệt là những người ủng hộ sự tự do hóa tài chính.
Mặt khác, một phân tích về số lượng các trích dẫn của các nhà kinh tế cho thấy các trích dẫn đó thường đạt tới đỉnh điểm vào lúc được trao giải thưởng, và cũng cho thấy ủy ban đã lựa chọn những nhà kinh tế được công nhận vào một thời điểm nhất định của dòng kinh tế học chính thống (mainstream). Nhưng quy luật chung này đã được chứng minh là sai một cách rõ ràng trong ba trường hợp. Trước tiên, đối với Friedrich Hayek, nhà kinh tế đã bị lãng quên khi nhận giải vào năm 1974. Các nhà viết tiểu sử mô tả ông lúc đó như là một người bị trầm uất, với nguồn lực tài chính không ổn định và nghiện rượu. Giải thưởng sẽ đưa ông ra ánh sáng và mang lại cho ông sức sống.
Hayek, người đã bị lãng quên, đã được giải thưởng mang lại sức sống. Galbraith thì bị lánh xa
Ngược lại, những trích dẫn của James K. GalbraithJoan Robinson đủ tiêu chuẩn để được trao giải. Nhưng họ đã bị loại ra. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Robinson đã ủng hộ các sinh viên cấp tiến và đã viết những bài báo mang tính tích cực về Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Đối với Lindbeck, Galbraith là một nhà viết tiểu luận với những kiến ​​thc lch s, nhưng không đích thực là một nhà kinh tế! Ông sẽ phản đối việc Galbraith được trao giải (ông nói rằng vào thời đó, Paul Samuelson sẽ phủ quyết việc trao giải cho nhà kinh tế người Pháp François Perroux vì sự hợp tác của ông ấy với Đức trong Thế Chiến thứ II).
Một giải thưởng bị phê phán
Peter Nobel (1931-)
Nassim Nicholas Taleb (1960-)
Năm 2004, tờ báo chính của Thụy Điển đưa ra ý tưởng cho rằng giải thưởng kinh tế làm giảm giá trị các giải thưởng Nobel khác. Năm 2007, chuyên gia tài chính Nassim Nicholas Taleb cáo buộc một giải thưởng có xu hướng biến các nhà kinh tế thành những người nghiêm túc. Peter Nobel, một hậu duệ của gia đình, thường công khai không thừa nhận việc kết hợp tên của tổ tiên ông vào một phần thưởng cho các nhà kinh tế. Vào tháng 10 năm 2015, một thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã yêu cầu hủy bỏ giải thưởng.
Ngoài những lời chỉ trích lẻ tẻ nói trên, sự cần thiết phải đình chỉ giải thưởng này còn xuất phát từ chính những người được trao giải. Hãy để mọi người phán xét điều này. Kể từ năm 1977, Gunnar Myrdal cáo buộc những phương pháp bí mật – các cuộc thảo luận chỉ được công bố 50 năm sau, vào năm 2019 đối với người được trao giải đầu tiên – và chiều kích chính trị của một giải thưởng mà ông hối tiếc vì đã chấp nhận được trao giải.
Ba lần, huy chương đã được cùng trao cho những nhà kinh tế với các quan điểm đối lập hoàn toàn và không tương thích với nhau!
Ba lần, huy chương đã được cùng trao cho những nhà kinh tế với các quan điểm đối lập hoàn toàn và không tương thích với nhau (Myrdal và Hayek vào năm 1974, Schultz và Lewis vào năm 1979, Fama và Shiller vào năm 2013). Giống như việc chúng ta thưởng, trong cùng một ngày, những người cho rằng trái đất có hình tròn và những người cho rằng trái đất có hình phẳng!
Myrdal cảm thấy bị xúc phạm khi giải thưởng được trao cho Friedman. Solow và Krugman đã quyết liệt chỉ trích các công trình của Lucas. Nhiều người nhận giải đã khẳng định rằng các nguyên tắc của kinh tế học chủ đạo là sai (Hayek, Myrdal, Simon, Solow, Haavelmo, Coase, North, Sen, Kahneman, Shiller ...) và nhiều người khác đã bày tỏ những quan điểm vô cùng dè dặt (Kuznets, Leontief, Stone...).
Trong bất kì "khoa học" nào khác, chúng ta không hề thấy một sự bất đồng cao đến mức độ như vậy. Bằng chứng cuối cùng là nếu các nhà kinh tế có thể tiếp tục được nhận giải từ tay của một ngân hàng trung ương, thì cũng đã đến lúc cần tách biệt giải thưởng kinh tế với các giải thưởng Nobel.
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Print Friendly and PDF