Paul Samuelson (1915-2009) |
Paul A. Samuelson, nhà kinh tế tổng quát cuối cùng
Là nhà kinh tế sớm phát
triển, có nhiều bài viết và là nhà kinh tế tổng quát, Paul A. Samuelson đã
biến đổi cách thức làm kinh tế từ giữa thế kỷ XX, bằng việc hình thức hóa,
thông qua toán học, tất cả các lãnh vực của lý thuyết.
Paul Samuelson luôn
là người ủng hộ nhà nước phúc lợi và một chủ nghĩa can thiệp quan trọng.
Paul
Samuelson là một trong những nhà kinh tế phát triển sớm nhất và có nhiều bài
viết nhất trong lịch sử của bộ môn. Vào năm 21 tuổi, ông bắt đầu công bố nhiều
bài báo quan trọng và tiếp tục không ngừng trong một nửa thế kỷ, với một tốc độ
chóng mặt. Năm tập của bộ Collected
Writings (Các tuyển tập) có đến
388 bài, trong tổng số khoảng 500 bài. Vào năm 26 tuổi, ông bảo vệ một luận án
tiến sĩ, xuất bản năm 1947, được coi là một tác phẩm quan trọng. Tại Đại
học Harvard, người ta hối hận để ông ra đi đến học viện MIT năm 1940, chủ nghĩa
bài Do Thái có lẻ đóng một vai trò nào đó trong sự kiện này.
Để
chứng minh sự xuất sắc của ông trong mọi thể loại, năm 1948, Samuelson xuất
bản một giáo trình, nhanh chóng trở thành một trong những ấn bản kinh tế thành
công lớn nhất. Nhiều triệu ấn bản đã được bán ra, được dịch ra nhiều ngôn
ngữ, đã làm cho ông thành một người giàu có. Samuelson nói rằng ông viết cuốn
sách trên bởi vì ông cần tiền sau khi vợ ông sinh ba. Những thành công và danh
hiệu cứ liên tiếp đến với ông, cho tới năm 1970, khi Ngân hàng Thụy Điển vinh
danh ông trong lần thứ hai giải của định chế này được trao "để tưởng nhớ
Alfred Nobel", ông là người Mỹ đầu tiên được trao giải thưởng này. Sự nổi
tiếng của Samuelson cũng tượng trưng cho sự chuyển giao ngọn đuốc của bộ môn từ
Anh sang Hoa Kỳ.
Milton Friedman (1912-2006) |
Một
dấu hiệu uy tín khác của ông, khi những nhà kinh tế học cấp tiến người Mỹ quyết
định xuất bản, năm 1977, một giáo trình phi chính thống, họ không tìm ra được
điều gì tốt hơn là gọi nó là Anti-Samuelson
(Chống lại Samuelson), điều mà, với
tính hài hước quen thuộc, ông xem như là một vinh dự! Nghịch lý thay, thời kỳ
đó là thời kỳ mà cán cân quyền lực trong giới kinh tế học thay đổi ở Hoa Kỳ,
cũng như ở những nơi khác trên thế giới, Samuelson bị Milton Friedman và những
nhà kinh tế học cổ điển mới, những người mà ông chưa bao giờ nghĩ có điều gì đó
chung, đẩy sang phía tả.
Toán học hóa bộ môn
Samuelson
chia sẻ với Keynes và một vài nhà kinh
tế học khác, ngoài một sự tự tin lớn, đôi khi gần với sự tự phụ, một ngòi bút
gọn gàng, cũng như một nền văn hóa và sự uyên bác ấn tượng. Nếu chúng có công
đóng góp, thì những phẩm chất này không đảm bảo cho danh tiếng của ông.
Samuelson đã thực sự biến đổi cách thực hành kinh tế học bắt đầu từ giữa thế kỷ
trước, qua việc viết sách báo cũng như giảng dạy. Sử dụng các bài báo thay vì
các cuốn sách như là phương tiện chính để phổ biến tư tưởng, ông tự đặt nhiệm vụ làm rõ
bằng cách hình thức hóa, với các công cụ toán học, tất cả những lãnh vực của lý
thuyết kinh tế, đưa ra những giải pháp chặt chẽ cho tất cả những vấn đề đặt
không khéo và được hình thức hóa kém bởi những người đi trước ông.
Vào
lúc ông bắt đầu học kinh tế học năm 1932, tại Đại học Chicago, kinh tế
học là một bô môn chủ yếu mang tính văn liệu. Ông sớm phát hiện ra, theo chính
lời chia sẻ của ông, rằng toán học có đủ khả năng để cách mạng hóa kinh tế học
hiện đại. Ông tin chắc rằng tất cả các lãnh vực của lý thuyết kinh tế đều có
những đặc tính chung: nguyên lý tối đa hóa, bản chất của cân bằng, các quan hệ
giữa trạng thái tĩnh và động. Kể từ đó nghiên cứu của ông bao gồm việc đề xuất
điều mà ông gọi là các định lý có ý nghĩa, sử dụng các phương pháp toán học,
lấy cảm hứng từ các ngành khoa học tự nhiên. Samuelson thực sự tin về sự tương
tự giữa các ngành khoa học nhân văn và ngành khoa học tự nhiên.
Được
trình bày trong cuốn Foundations of Economic
Analysis (Các nền tảng của phân tích
kinh tế) của ông, chương trình nghiên cứu đó được triển khai một cách có hệ
thống, trong suốt sự nghiệp của ông, trong tất cả các lĩnh vực. Samuelson cũng
tự mô tả ông như là nhà kinh tế tổng quát
cuối cùng của bộ môn này, từ nay được đặc trưng hóa bởi một sự chuyên môn
hóa quá đáng. Những đóng góp đáng kể đầu tiên của ông liên quan đến lý thuyết
người tiêu dùng, nơi ông phát triển phương pháp các sở thích được bộc lộ, để
thoát khỏi khái niệm lợi ích. Ông nghiên cứu rất sớm thương mại quốc tế,
chứng minh những lợi thế của tự do thương mại với định lý nổi tiếng của ông về
việc làm ngang bằng giá các nhân tố. Trong khi còn là sinh viên, ông kết hợp
các khái niệm về số nhân và gia tốc để nghiên cứu những biến động mang tính chu
kỳ. Sau đó, ông can dự, trong số những lãnh vực khác, vào các lĩnh vực tài
chính công, cân bằng chung, lý thuyết phúc lợi, kinh tế học lao động, kinh tế
học không gian, lý thuyết về tư bản và tăng trưởng.
Robert Solow (1924) |
Trong
lĩnh vực sau cùng trên, cùng với Robert Solow một người bạn và đồng nghiệp của
ông, ông là một trong những tác nhân chính trong "cuộc chiến giữa hai trường Cambridge": cuộc chiến này đối lập,
vào bước ngoặt của những năm 1960, những nhà kinh tế học tân cổ điển ở Hoa Kỳ với
những nhà kinh tế học hậu keynesian. Ngoài ra, Samuelson còn can dự vào lĩnh
vực lịch sử tư tưởng cũng như phương pháp luận kinh tế. Marx, trong số những nhà
kinh tế học khác, là một trong những đối tượng quan tâm của ông. Tuy không có
"trường phái Samuelson", nhưng
phần lớn lý thuyết tân cổ điển đương đại thấm đậm những đóng góp của ông. Không
sinh viên nào có thể tham khảo văn liệu kinh tế mà không bắt gặp các bài viết
của Samuelson.
Học thuyết Keynes và tổng hợp tân cổ điển
Ai
cũng biết sự ngờ vực của Keynes đối với kinh tế toán học và sự dị ứng của ông đối
với kinh tế học cổ điển, mà đối với ông còn bao gồm luôn kinh tế học tân cổ
điển. Nghịch lý thay, chính Samuelson, từ đầu những năm 1940, sẽ là một tông đồ
chính của lý thuyết keynesian, ở Hoa Kỳ và cả trên thế giới. Là một tông đồ đặc
biệt bởi vì ông sẽ trở thành nhà vô địch học thuyết keynesian khi toán học hóa lý thuyết
của Keynes và kết hợp nó với kinh tế học vi mô tân cổ điển. Vả lại chính
Samuelson là người đã đại chúng hóa việc phân chia bộ môn này thành kinh tế học
vi mô và kinh tế học vĩ mô, trong cuốn giáo trình đã từng đào tạo hàng thế hệ
sinh viên từ năm 1948.
Joan Robinson (1903-1983) |
Để
mô tả việc xác định thu nhập quốc dân trong mô hình keynesian, ấn bản đầu tiên
của cuốn giáo trình giới thiệu một hình thức hóa dễ hơn, đối với các sinh viên
mới nhập môn, so với mô hình IS-LM được Hicks và Hansen phát triển.
Với đường Phillips, năm 1960, Samuelson và Solow đại chúng hóa công cụ mô tả sự
đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát.
Trong
lần xuất bản thứ năm cuốn sách giáo khoa của ông, Samuelson đã đưa vào cụm từ
"tổng hợp tân cổ điển" để
mô tả sự kết hợp giữa kinh tế học vi mô tân cổ điển, theo kiểu Walras, và kinh tế học vĩ
mô theo Keynes. Tuy nhiên, kinh tế học vĩ mô trên rũ bỏ một số đặc tính cơ bản
của phương thức tiếp cận của Keynes, chẳng hạn như việc tính đến yếu tố thời
gian, những dự kiến và sự bất trắc. Những môn đồ cấp tiến của Keynes, đặc biệt Joan Robinson, lên án sự
phản bội và cho rằng học thuyết Keynes theo kiểu Samuelson là lý thuyết tạp
chủng.
Một nhà kinh tế học tự do người Mỹ
Samuelson
tự cho mình là người theo thuyết tự do, giống như bố ông. Thuật ngữ tự do ở đây
phải được hiểu theo nghĩa của Mỹ chứ không phải theo nghĩa của châu Âu. Tại Hoa
Kì, người theo thuyết tự do dè chừng với thị trường, ủng hộ một sự can thiệp
đôi khi quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế, đặc biệt để thực thi toàn
dụng lao động và một sự phân phối thu nhập công bằng hơn. Là đồng nghiệp của
Friedman tại Đại học Chicago trong những năm 1930, Samuelson không ngừng đối
lập với ông ấy trong suốt sự nghiệp của mình. Trái với niềm tin của Friedman, Hayek và các môn đồ của họ,
ông thường nhắc đi nhắc lại rằng những người ủng hộ tự do kinh doanh thích nghi
dễ hơn với chủ nghĩa chuyên quyền chính trị, như thời kỳ của chủ nghĩa
McCarthy, từng là một mối đe dọa phát xít thực sự đối với Hoa Kỳ, hay như cuộc
đảo chính ở Chile, với sự đổ bộ sau đó của các "Chicago Boys" đã cho thấy.
Như
vậy Samuelson đã luôn ủng hộ nhà nước phúc lợi và một chủ nghĩa can thiệp quan
trọng. Ông đã bảo vệ điều ấy, trong nhiều năm, trên các trang báo của tạp chí Newsweek. Ông đã bảo vệ ý tưởng của mình
với tư cách là nhà tư vấn cho nhiều tổ chức, cả tư lẫn công. Là cố vấn kinh tế
cho thượng nghị sĩ, ứng cử viên và sau đó là Tổng thống John F. Kennedy, ông đã
từ chối chức chủ tịch Hội đồng
cố vấn kinh tế trong nội các của ông ấy, thích hoạt động như một mưu sĩ.
Sau đó ông là người đề xướng một chính sách tài khóa mở rộng, được triển khai
dưới tên gọi "kinh tế học mới".
Đầu những năm 1960 đánh dấu sự thắng thế của chủ nghĩa can thiệp keynesian tại
Hoa Kỳ.
Từ
đó đến nay, gió đã đổi chiều. Samuelson thường xuyên phản đối các chính sách
của các chính phủ Mỹ liên tiếp, lấy cảm hứng từ các nhà kinh tế học "nước ngọt" của Chicago, bên bờ hồ
Michigan, hơn là từ các nhà kinh tế học "nước mặn" của Harvard, bên bờ Đại Tây Dương. Là người phê phán
rất mạnh chính sách kinh tế của tổng thống George W. Bush, Samuelson đã kêu gọi
bỏ phiếu bầu cho John Kerry trong cuộc bầu cử năm 2004. Sự nghiệp của ông cho
thấy một thực tế là người ta không thể hỗn hợp hóa lý thuyết tân cổ điển, cánh
hữu chính trị và kinh tế toán học.
Paul A. Samuelson qua vài năm tháng
1915: sinh ra tại Gary, Indiana, Hoa Kỳ.
1932: bắt đầu học kinh tế tại Đại học Chicago,
tốt nghiệp đại học đại cương (BA) năm 1935, trước khi học tại Đại học
Harvard.
1938: A Note on the Pure Theory of
Consumer’s Behavior (Ghi
chú về lý thuyết thuần túy của hành vi người tiêu dùng).
1939: Interactions Between the Multiplier
Analysis and the Principle of Acceleration; The gains from International Trade
(Những tương tác giữa phân tích số nhân
và nguyên lý gia tốc; Những lợi ích từ thương mại quốc tế).
1940: được phong phó giáo sư tại Viện Công nghệ
Massachusetts (MIT), Cambridge, nơi ông dành toàn bộ sự nghiệp của ông; được
phong Giáo sư năm 1947.
1941: tiến sĩ tại Đại học Harvard.
1941-1945: trong thời kỳ chiến
tranh, làm việc tại Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia, sau đó tại Phòng thí nghiệm
bức xạ của trường MIT.
1947: Foundations
of Economic Analysis (Nền tảng phân
tích kinh tế). Được trao huy chương John Bates Clark, dành cho một nhà kinh
tế học dưới 40 tuổi vì những đóng góp xuất sắc.
1948: Economics:
An Introductory Analysis (Kinh tế
học: Một phân tích nhập môn).
1951: Chủ tịch Hiệp hội kinh trắc học.
1954: The Pure Theory of Public Expenditure
(Lý thuyết thuần túy về chi tiêu công).
1958: đồng tác giả với Robert Dorfman và Robert
M. Solow, Linear Programming and Economic
Analysis (Quy hoạch tuyến tính và
phân tích kinh tế).
1961: Chủ tịch Hiệp hội Kinh tế Mỹ.
1965-1968: Chủ tịch Hiệp hội
kinh tế quốc tế.
1966-1981: cộng tác viên của tạp chí Newsweek.
1970: được trao giải thưởng của Ngân hàng Thụy
Điển để tưởng nhớ Alfred Nobel.
2009: mất ngày 13 tháng 12 ở Belmont,
Massachusetts, Hoa Kỳ.
Để tìm hiểu thêm
Những tác phẩm của Samuelson
• Les Fondements de
l’analyse économique, par Gauthier-Villars, 2
vol., 1971.
• Economie, 16e édition, avec la collaboration de
William D. Nordhaus, Economica, 2000.
•
The
Collected Papers of Paul A. Samuelson, MIT Press, 5 vol. , 1966-1986.
Những tác phẩm viết về Samuelson
•
Paul
Samuelson and Modern Economic Theory, par E. Cary Brown et Robert M. Solow
(dir.), McGraw-Hill, 1983.
•
Samuelson
and Neo-Classical Economics, par George R. Feiwel (dir.),
Kluwer-Nijhoff, 1982.
•
Paul
Samuelson and the Foundations of Modern Economics,
par K. Puttaswamaiah (dir.), Transaction, 2002.
•
The
Foundations of Paul Samuelson’s Revealed Preference Theory,
par Stanley Wong, Routledge & Kegan, 1978.
•
Paul
Samuelson: Critical Assessments, par John C. Wood et Ronald N. Woods (dir.),
Routledge, 4 vol., 1989.
Gilles Dostaler
Huỳnh
Thiện Quốc Việt dịch
Nguồn: “Paul A. Samuelson, le dernier
généraliste” của G. Dostaler trong Alternatives Economiques Poche no57, tháng 10 năm 2012.