THỜI GIAN
Time
® Giải Nobel: ALLAIS,
1988 –
BECKER, 1992 –
FRISCH, 1969 – HAYEK,
1974 – HICKS,
1972 – MODIGLIANI,
1985 – SEN,
1998 – SOLOW,
1987 – TOBIN,
1981
Trong phân tích kinh tế, việc xử lí
thời gian là rất khác nhau; thời gian đã được hình dung như một thời lượng, hay
như một thời điểm, như một sản phẩm và tất nhiên như một quá trình rời rạc hay
liên tục mà đặc điểm thiết yếu có lẽ là tính không thể đảo ngược.
Thời gian như “thời lượng”
Ở cương vị này, thời gian được hình
dung như một “thời
kì”,
một “khoảng
cách”,
hoặc đó là một “thước
đo thực nghiệm”,
hoặc đó là một “thước
đo có tính hành động”.
![]() |
Clément Juglar (1819-1905) |
![]() |
J. Schumpeter (1883-1950) |
Thước đo thực nghiệm. – Ví dụ, việc nghiên cứu
độ dài của những chu kì kinh tế kể từ C. Juglar (1860) được làm rõ; đây là
khoảng thời gian, trong một chuỗi kinh tế vĩ mô (về sản xuất, việc làm, giá cả,
hoạt động) trải dài từ cực đại này (đỉnh điểm hay khủng hoảng) đến một cực đại
khác, hay từ một cực tiểu này (suy thoái) đến một cực tiểu khác. Những công
trình của Juglar làm rõ một “chu
kì trung bình”
hay “chu
kì Juglar”
từ tám đến mười năm, những công trình của Kondratief, được Schumpeter
lấy lại, làm rõ những “chu
kì dài”
khoảng nửa thế kỉ. Những công trình gần đây hơn, theo hướng của những công
trình của các tác giả
Mĩ, đối với những biến động của hoạt động kinh tế làm rõ những “thời lượng” biến đổi.
Thước đo có tính hoạt
động của thời gian.
–
Trong quan niệm này, thời kì được chọn là xác đáng cho phân tích là một khoảng
thời gian đủ (hay cần thiết) để cho phép (hay tránh) sự xuất hiện (hay không
xuất hiện) hiện tượng này hay hiện tượng
khác; theo nghĩa này, sự phân kì là “có tính hoạt động” vì nó được chọn tuỳ theo mục tiêu
nhắm đến và không qui về bất kì thời lượng thực nghiệm nào cả.
![]() |
Alfred Marshall (1842-1924) |
Một ví dụ rất nổi tiếng được Marshall
cung cấp với sự phân biệt ông đưa vào giữa ba “thời kì”: “thời kì thị trường” trong đó giá trị của
những cung là hoàn toàn cố định, “thời kì ngắn hạn” trong đó những lượng
cung có thể được gia tăng, nhưng năng lực sản xuất là cố định và cuối cùng là “thời kì dài hạn” trong đó năng lực sản
xuất là cố định nhưng giá trị những nguồn lực tiềm tàng sẵn có cho ngành là cố
định. Người ta cũng có thể nghĩ đến việc thêm vào một loại thời kì thứ tư, “thời kì rất dài hạn”, trong đó những kĩ thuật
sản xuất cũng như năng lực sản xuất có thể được thay đổi.
Đây là một “thời gian có tính hoạt
động”:
những thời kì là dài hay ngắn tuỳ theo sự thích nghi một phần hay hoàn toàn của
người sản xuất và người tiêu dùng với những biến thiên của những điều kiện bên
ngoài chứ không theo vòng quay của kim đồng hồ. Những thời kì cụ thể mà quan
niệm này dẫn chúng ta đến là không được định nghĩa và phải được xác định cho
mỗi ngành. Tất nhiên, cái ngắn hạn thường qui về một thời kì ngắn hơn là cái
dài hạn, nhưng đây không phải là một điều cần thiết và không phải bao giờ cũng
là như thế cả. Ví dụ, ta có thể hình dung là thời gian cần thiết để tăng sản
xuất với những cơ sở hiện tại là dài hơn thời gian cần thiết để triển khai
những cơ sở mới …
Phân tích của Marshall, vì qui về một quan niệm có tính hoạt động của thời
gian, không loại trừ những điều lạ lùng như thế.
Những quan niệm khác về thời gian
thuộc về cùng loại trên: “ngày” của Robertson, một thời
kì quá ngắn để thu nhập có được có thể được phân phối; “tuần” của Hicks,
một thời kì trong đó ta có thể không tính đến những biến thiên của giá cả. Theo
một nghĩa nhất định, “trạng
thái dừng”
của các nhà cổ điển cũng qui về quan niệm này vì đó là thời gian mà kết thúc là
sự ngừng lại của tiến trình …
Đối với Böhm-Bawerk, đặc điểm cơ bản của một
nền kinh tế sử dụng tư bản là sự tồn tại của một khoảng cách thời gian, được
gọi là thời kì sản xuất (hay thời kì đầu tư) giữa việc sử dụng những đầu vào sơ
cấp và sự xuất hiện của những sản phẩm tiêu dùng bắt nguồn từ quá trình sản
xuất. Khái niệm này đã dấy lên nhiều cuộc tranh luận ác liệt giữa các nhà kinh
tế, trong số đó có J. B. Clark, I. Fisher, J. Schumpeter, Wicksell,
Hayek,
Kaldor …
Thời gian như “thời điểm”
Về mặt này, người ta có thể phân
biệt giữa thời tương lai và thời gian đã qua, giữa, một mặt, dự báo và hiện tại
hoá và, mặt khác, kí ức.
Thời tương lai, dự báo và
hiện tại hoá.
–
Thời điểm “giao
hàng”
là một trong những đặc điểm của một sản phẩm và qua đó là của khả năng đáp ứng
một nhu cầu của sản phẩm đó. Điều thường được chấp nhận là mọi tác nhân có một
sự ưa thích hiện tại hay, cũng giống như thế, là đối với mọi tác nhân có một sự
“mất
giá trị của tương lai”.
Thường người ta giả định là có hôm nay một lượng nhất định của một sản phẩm
nhất định kéo theo một gia tăng của lợi ích cao hơn việc có cùng số lượng sản
phẩm đó “vào
ngày mai”;
nếu “đạo
lí cuộc sống”
thể hiện điều này bằng cách ngôn của La Fontaine: “một chắc hôm nay còn hơn
là hai chắc ngày mai”,
những cơ sở của sự ưa thích liên thời gian không được biết rõ, không chắc chắn
và rất được bàn luận kể từ những công trình của Böhm-Bawerk, Fisher, …
![]() |
John Rawls (1921-2002) |
![]() |
Amartya Sen (1933-) |
Một trào lưu quan trọng của những
nhà kinh tế (Pigou, Ramsey, Harrod, Sen,
Tobin,
…) và
những triết gia (Rawls, Nagel, Elster) khẳng định là tính duy lí (hoàn hảo)
loại trừ mọi sự ưa thích hiện tại; ví dụ, đối với F. Ramsey (1928), thực hiện
việc hiện tại hoá là “không
thể bảo vệ được về mặt đạo đức và đơn giản sinh ra từ sự yếu kém của tưởng
tượng của chúng ta”;
đối với Harrod (1948), sự ưa thích hiện tại chỉ là “một thành ngữ lịch sự cho
sự tham lam và sự thống trị của những đam mê trên lí tính”.
Thế mà nhiều lí do đã được nêu ra:
sự bão hoà tương đối của nhu cầu, sự thay đổi của những sở thích hay nhu cầu,
những ràng buộc thanh khoản, tương lai không chắc chắn, tính không nhất quán
trong thời gian. Tuy nhiên dường như không có bất kì lí do nào trong số vừa nêu
biện minh được cho việc đưa vào sự ưa thích một cách duy lí hiện tại; chỉ
trường hợp, thường được nêu, của sự bất trắc có thể biện minh cho một ưa thích
hiện tại liên quan đến tuổi thọ: “Tôi muốn nhận được hôm nay vì có rủi
ro là không còn có mặt ngày mai nữa”; sự bất trắc về tuổi thọ có một hiệu
ứng, về mặt hình thức, trên những sở thích của tác nhân giống với hiệu ứng của
một tỉ suất mất giá trị của tương lai. Cũng nhân đó, người ta nhận thấy là tỉ
suất hiện tại hoá cũng dẫn đến định nghĩa của lòng vị tha liên thế hệ: một tỉ
suất hiện tại hoá thấp với chân trời vô tận có nghĩa là ta quan tâm đến số phận
của những người kế thừa.
Những lựa chọn liên thời gian dựa
trên giả thiết ưa thích thời gian làm cho việc cầu viện đến kĩ thuật hiện tại
hoá là cần thiết, kĩ thuật này giữ một vai trò thiết yếu trong những chương
trình đầu tư cũng như trong lựa chọn của người tiêu dùng-tiết kiệm; người ta
chứng minh rằng lựa chon tối ưu là sao cho tỉ suất hiện tại hoá bằng với lãi
suất.
![]() |
Franco Modigliani (1918-2003) |
![]() |
Maurice Allais (1911-2010) |
Thời gian đã trôi qua, kí
ức và sự hình thành những nhu cầu. –
Thời gian đã trôi qua điều kiện hoá rất lớn hành vi của các tác nhân. J.
Duesenberry và F. Modigliani
giả định có tính không thể đảo ngược trong thời gian của những quyết định tiêu
dùng; người ta cũng nói đến hiệu ứng bánh cốc hay hiệu ứng thanh răng; tiêu
dùng phụ thuộc vào thu nhập của thời kì, nhưng cũng cả vào thu nhập cao nhất đã
từng có trong quá khứ. Giả thiết này tỏ ra quá cứng nhắc và người ta chuyển
cách công thức hoá do Brown (1952) đề xuất: tiêu dùng có sự can dự của quá khứ,
nhưng không phải một cách không liên tục thông qua mức thu nhập cao nhất từng
đạt được, mà theo một cách liên tục bằng tiêu dùng của thời kì trước đó.
Trong vấn đề ra những quyết định đầu
tư, Koyck đã tính đến quá khứ một cách triệt để; kho tư bản được mong muốn phụ
thuộc vào trung bình gia quyền của sản xuất trong những năm trước đó, quyền số
gán cho mỗi năm giảm dần; những công trình sau này đã cho phép tinh vi hoá phân
tích bằng cách đặt những giả thiết khác về sự phân phối của những hệ số trễ.
Mặt khác, M. Allais
đặt một giả thiết về cách xử lí quá khứ thông qua một “tỉ suất quên” đối xứng với cách xử lí
tương lai (“tỉ
suất hiện tại hoá”).
Thời gian như một sản phẩm
Thời gian cũng hiện ra như một sản
phẩm đặc biệt, như một agumen của hàm lợi ích hay của hàm sản xuất.
Trong hàm lợi ích, thời
gian như nhàn rỗi.
– Lợi
ích của một hộ gia đình, một tác nhân, có thể được đánh giá từ những lượng sản
phẩm và dịch vụ tiêu dùng (bánh mì, thịt, phim) và cả từ lượng “nhàn rỗi” mà cá nhân này có được.
Như thế thời gian được đưa vào trực tiếp như một agumen của hàm tiêu dùng: ràng
buộc mà các tác nhân gặp phải không chỉ là ràng buộc của ngân sách bản thân mà
cả ràng buộc về thời gian tác nhân này có được; do mọi người đều phải chết và
một ngày chỉ có 24
giờ nên mọi tác nhân phải có những chọn lựa (và vấp phải những ràng buộc) trong
việc sử dụng thời gian của mình giữa thời gian lao động và (để nói đơn giản)
thời gian nhàn rỗi. Bởi thế, thời gian nhàn rỗi có một giá và giá này đơn giản
là tỉ suất lương vì thêm một giờ nhàn rỗi là bớt đi một giờ lao động; do đó
việc có thêm một giờ nhàn rỗi có một “giá” phải trả, đó là việc từ
bỏ thù lao của một giờ lao động.
Trong hàm sản xuất, thời
gian như “nhân tố thứ ba”. – Trong cách trình bày đơn
giản nhất, sản xuất Y là
một hàm của hai đầu vào, lao động L và tư bản K, do đó có cách viết rất
tổng quát Y
= F(K, L). Cách công thức hoá này
tỏ ra là không đủ để phân tích ở cấp độ kinh tế vĩ mô những nhân tố của tăng
trưởng. Để tính đến mức tổng sản phẩm Y, nó tỏ ra không đủ khi chỉ nối liền
mức tổng sản phẩm vào mức tổng tư bản và tổng việc làm; như thế, người ta còn
để hiện lên, bên cạnh hai đầu vào truyền thống này, một “nhân tố thứ ba” xuất hiện trong thời
gian cùng với sự trôi qua của thời gian; do đó có cách viết Y = F(K, L, t); ở đây thời gian chỉ là
một cách đưa vào gián tiếp một yếu tố khác hơn là sự gia tăng số lượng của vốn
và việc làm. Định nghĩa mơ hồ này đã là bước đầu tiên trong việc hiểu biết
những quá trình và phương thức tăng trưởng kinh tế.
Thời gian như một quá trình: một quá trình rời rạc hay
liên tục?
Những ràng buộc sinh ra từ công cụ
toán học khiến cho ta chỉ có thể, một cách tiên nghiệm, viết những phương trình
sai phân hay những phương trình vi phân. Trong trường hợp đầu, ta chọn cách xử
lí theo thời gian rời rạc, còn trong trường hợp sau ta chọn cách xử lí theo
thời gian liên tục. Nếu, quả là trong nhiều trường hợp, việc viện đến công thức
này hoặc công thức khác chỉ đơn giản qui về sự tiện lợi trong cách viết thì sự
tương đương là không đầy đủ; cách trình bày theo thời gian “rời rạc” là thích hợp hơn cho
việc xử lí những biến động và cách trình bày theo thời gian “rời rạc” là thông dụng hơn trong
việc xử lí những vấn đề dài hạn; hơn nữa, trong một số trường hợp, biểu trưng
của quá trình ta thu được phụ thuộc vào cách xử lí thời gian (rời rạc hay liên
tục). Cần ghi nhận là trong những năm 1930, ta thấy có những thăm dò sử dụng
đồng thời cả hai kiểu xử lí (xem R. Frisch và M. Kalecki).
Đối chọn rời rạc/liên tục xuất hiện
trở lại dưới một ánh sáng mới nhân việc nghiên cứu động thái hỗn độn. Đó là một
sự ngạc nhiên đối với bạn đọc không được báo trước khi khám phá cách R. Day xử
lí mô hình Solow. Trong lúc mô hình tạo lập này được viết theo thời gian liên
tục thì R. Day viết lại mô hình này theo thời gian rời rạc trước khi chứng minh
là trong những điều kiện nào ta có thể làm hiện lên một động thái kiểu hỗn độn
trong kiểu mô hình này.
![]() |
Henri Poincaré (1854-1912) |
Thật vậy, ngược lại những gì ta
có thể tưởng, không có sự tương đương giữa hai kiểu phân tích này. Quả thế,
không thể sinh ra một động thái hỗn độn nếu ta không có ít nhất một hệ ba
phương trình vi phân. Đó là bài toán nổi tiếng được gọi là bài toán ba thiên
thể do Poincaré làm rõ vào cuối thế kỉ XIX; tính đơn giản đẹp đẽ của cơ học
truyền thống biến mất một khi ta gặp nhiều hơn là hai thiên thể. Nếu những hiện
tượng hấp dẫn chỉ liên quan đến hai hành tinh, trái đất và mặt trời, thì ta có
thể dự báo hoàn toàn những quĩ đạo, và điều này cho đến vô tận; như thế ta ở
trong một thế giới của quyết định luận thuần tuý và của dự báo hoàn hảo; tương
lai đã hàm chứa trong quá khứ. Trái lại, một khi có những lực hấp dẫn giữa
nhiều hơn là hai hành tinh (trái đất, mặt trời và cả sao Hoả, sao Thổ hay… mặt
trăng …)
thì những định luật của cơ học truyền thống không còn nghiệm đúng nữa và ta có thể thấy xuất
hiện những động thái kiểu hỗn độn.
Bởi thế hoàn toàn loại trừ khả năng
có được một động thái kiểu hỗn độn nếu vẫn giữ khuôn khổ phân tích truyền thống
của mô hình Solow (một phương trình vi phân duy nhất: k' = sf(k) - nk); khả năng này xuất hiện
khi ta viết mô hình dưới dạng một phương trình sai phân duy nhất; như thế, từ
những giả thiết thông dụng, việc hình thức hoá mô hình Solow, được R. Day viết
lại là: kt + 1 = sf(kt)/(1 + n).
Tất nhiên, việc đơn giản chuyển sang
một phương trình sai phân là không đủ; đây là điều kiện cần chứ không đủ và ta
biết là hình thức hoá đơn giản nhất – và thường được chọn – là đưa vào, bằng cách
tính đến những hiện tượng tắc nghẽn hay những hiện tượng ô nhiễm, một hàm kiểu
hàm logistic (nhưng cũng có thể sử dụng những hình thức hoá toán học khác: hàm “lều”, hàm “cubic”, …).
Thời gian và tính không thể đảo ngược
Thời gian là một quá trình có định
hướng; có một “mũi
tên thời gian”
và không thể quay ngược trở lui. Tính đến đặc điểm trung tâm này trong việc
nghiên cứu những hệ thống động đòi hỏi những xử lí toán học tinh vi. Vấn đề
tính không thể đảo ngược của thời gian được tiếp cận từ sự phân biệt những hệ
thống “tiêu
tán”
với những hệ thống “bảo
toàn”.
Những tên gọi này bắt nguồn trực
tiếp từ những hệ thống của các nhà vật lí mà nhiều nhà kinh tế lúc khởi đầu đã
lấy cảm hứng từ đó. Trong một hệ thống kiểu “bảo toàn” – vốn là đối tượng quan
tâm trung tâm của cơ học cổ điển – không có ma sát lẫn xung động bên
ngoài, không có mất mát lẫn bổ sung năng lượng, ví dụ chuẩn của hệ thống này là
con lắc không có ma sát.
Trong một hệ thống kiểu này (con
lắc), khi ta hình dung tiến hoá từ một điểm bất kì thì hệ thống động sẽ quay về
điểm ban đầu sau khi đi hết quĩ đạo nó đang nằm trên đó và sau đấy tiếp tục
cùng một chuyển động. Nếu một nhà quan sát biết những qui luật nằm đằng sau,
nghĩa là hệ phương trình vi phân và những giá trị ban đầu của những biến trạng
thái tại một thời điểm bất kì, thì người này có thể (ít ra là trên nguyên tắc)
tính được tiến hoá trong thời gian. Cho dù không biết được một cách chính xác
điểm ban đầu thì quĩ đạo tính toán vẫn gần với quĩ đạo ban đầu. Cũng quan trọng
không kém có lẽ là việc, trong trường hợp một hệ thống bảo toàn, ta có thể biết
lịch sử của một điểm nhất định trong không gian pha: do hệ thống nằm trên một
quĩ đạo đóng đến vô tận nên nó đã nằm trên đấy … từ buổi khởi đầu của thời
gian. Có thể tính quá khứ bằng cách đổi ngược chiều hướng thời gian. Thay vì
tính thời gian từ t
= 0 đến
t = oo để hình dung tương lai
thì chỉ cần để thời gian trải dài trong quá khứ từ t = 0 đến t = - oo. Đặc tính này của những
hệ thống bảo toàn giải thích quan điểm nổi tiếng của Laplace về tính có thể
tiên đoán được; trong thực tế, nhiều hiện tượng của cơ học thiên thể có thể
được mô tả với một độ chính xác tốt bằng những hệ thống động kiểu bảo toàn;
điều này đã khuyến khích việc du nhập những hệ thống kinh tế động “bảo toàn” trong nhiều lĩnh vực
khác nhau: ví dụ, mô hình kiểu Lotka-Volterra từ đó Goodwin (1967) đã có thể
chỉ ra sự tồn tại của những chu kì tự duy trì kiểu “trung tâm”; những mô hình không có
những đặc tính này là thuộc kiểu “tiêu tán”: chính kiểu hệ thống này
tạo nên phần chủ yếu của những hệ thống kinh tế động.
Bây giờ, ngược lại ta hãy hình dung
một hệ thống tiêu tán được đặc trưng bằng một ma sát dương; một hệ thống kiểu
này bao giờ cũng có những nhân hút, dù cho đó là những điểm cố định, những chu
kì giới hạn hay những nhân hút kì dị (nếu hệ thống là không ổn định thì ta cho
là nó bị vô cực thu hút). Trong trường hợp những hệ thống kinh tế tiêu tán, bao
giờ cũng có thể dự báo tiến hoá của hệ thống trong tương lai, nhưng có thể là
không thể biết được hệ thống xuất phát từ đâu trong quá khứ; như thế ta hiểu
được vì sao, trong trường hợp của “giếng”, người ta nói đến hệ
thống kinh tế bất định; bất kì vị thế ban đầu nào cũng dẫn đến nhân hút. Vấn đề
cũng được đặt ra một cách tương tự với trường hợp chu kì giới hạn.
Như thế tính không thể đảo ngược quả
thật là gắn liền với việc tính đến những hệ thống tiêu tán. Những hệ thống này,
nếu đưa vào việc không thể tái tạo lại hay “dự báo” quá khứ thì lại để ngõ
khả năng “dự
báo tương lai”.
Tuy nhiên, ngay từ 1903, Poincaré đã
đặt vấn đề những khó khăn của dự báo: “[…] điều có thể xảy ra là
những khác biệt nhỏ trong những điều kiện ban đầu sinh ra những khác biệt rất
lớn trong những hiện tượng cuối cùng; một sai lầm nhỏ trên những điều kiện ban
đầu sẽ tạo ra một sai lầm lớn trên những điều kiện cuối cùng”. Những chủ đề này đã
được lấy lại và phát triển từ những phân tích bằng khái niệm động thái hỗn độn.
Dường như dự báo là không thể được hay dù sao cũng là khó trong trường hợp
những hệ thống hỗn độn.
Những hệ thống hỗn độn vì chúng đưa
vào “tính
nhạy cảm với những điều kiện ban đầu” có thể cho phép, theo một cách nhất
định, hoà giải thời gian của nhà kinh tế với thời gian của nhà sử học; lịch sử
là quan trọng, vì một cú sốc (“chiếc
mũi của Cléopâtre”…)
có thể có những hệ quả lâu dài (cho dù cần phải phân biệt không ổn định địa
phương và không ổn định toàn cục trong “nhân hút kì dị”). Nhưng tính xác đáng
của những cách tiếp cận kiểu này còn xa mới được thừa nhận là đúng.
▶ ABRAHAM-FROIS
G & GOERGEN A., “Le traitement
mathématique du temps dans la théorie économique contemporaine”, MODEM, Paris X-Nanterre 96-8, et Colloque Le
temps dans la pensée économique, Glendon College, Toronto, York University,
juin 1996. – BARRE R., La
période dans l’analyse
économique, une approche à l’étude
du temps, Paris, 1950. –
GOODWIN R. M., “A
growth cycle” in FEINSTEIN
C. H., Capitalism and Economic Growth, Cambridge, Cambridge University
Press, 1967. – ROSENSTEIN-RODAN
P., “The role of time in economic theory”, Economica, 1934, 1.
Gilbert ABRAHAM-FROIS
Giáo sư Đại học Nanterre, Paris 10
Nguyễn
Đôn Phước dịch
® Chu kì kinh tế;
Dự báo; Gia tốc; Hệ thống động trong kinh tế học; Hỗn độn; Marshall; Quá trình
ngẫu nhiên; Sản phẩm và dịch vụ; Nhân tố sản xuất.
Nguồn: Dictionnaire des
sciences économiques do Claude Jessua, Christian Labrousse và Daniel Vitry
chủ biên, Paris, Presses Universitaires de France, 2001.
