Joseph Schumpeter (1883-1950) |
Joseph Schumpeter hay động thái của chủ nghĩa tư bản
Joseph Schumpeter, người làm nổi bật vai trò của nhà
doanh nghiệp, lại tin rằng chủ nghĩa tư bản sẽ bị tiêu vong. Chân dung của một
nhà kinh tế học không thể phân loại.
Joseph Schumpeter là một trong những nhà sử học vĩ đại nhất về tư tưởng kinh tế.
Joseph Schumpeter là một nhân vật phức
tạp và mâu thuẫn. Là một người bảo thủ và chuộng sự tinh hoa, ông đứng về phía
những người bạn marxist của ông trong Ủy ban xã hội hóa Đức và trở thành bộ
trưởng tài chính trong một thời gian ngắn của một chính phủ đa số thuộc đảng
Dân chủ Xã hội. Với tính cách nồng nhiệt, yêu thích sự xa hoa, khiêu khích và
là một "đứa trẻ hiếu động khủng
khiếp", như ông tự mô tả bản thân, ông bị chứng trầm cảm sâu sắc. Một
thời làm việc cho ngân hàng, ông mang nợ khổng lồ trong phần lớn cuộc đời của
ông. Ông có thói quen nói với sinh viên Mỹ rằng khi còn trẻ, ông quyết sẽ trở
thành người tình tốt nhất nước Áo, người nhảy đầm giỏi nhất châu Âu và nhà kinh
tế học vĩ đại nhất thế giới, và nói thêm rằng ông đã đạt được mục tiêu thứ hai.
Là người chống lại chủ nghĩa can thiệp keynesian và chính sách kinh tế mới (New Deal) của tổng thống Roosevelt, ông
đồng thời tin rằng chủ nghĩa tư bản sẽ bị tiêu vong và chủ nghĩa xã hội sẽ
chiếm ưu thế. Trong suốt cuộc đời, ông giữ một quan hệ yêu-ghét đối với Marx, người mà ông coi, cùng với Walras, như là nhà kinh tế học vĩ đại nhất. Ông
oán giận Keynes, người mà trên nhiều mặt là giống ông, vì đã hai lần hớt tay
trên ông, với cuốn Treatise on Money
(Luận thuyết về tiền tệ) và cuốn Théorie generale (Lý thuyết tổng quát) của ông ấy.
Người ta không thể xếp nhà tư tưởng
này vào bất cứ loại nào, người mà ngay cả ý tưởng thôi về trường phái trong
kinh tế học đủ khiến ông kinh tởm. Được những nhà kinh tế học thuộc trường phái
Áo đào tạo, ông bị những nhà kinh tế học đó, một cách chính đáng, coi là một
người li khai. Là người ngưỡng mộ Max Weber, ông phê phán cách tiếp cận tân cổ
điển, theo kiểu Walras lẫn theo kiểu Cambridge, và cũng chẳng theo chủ nghĩa
thể chế hay chủ nghĩa marxist. Trong thực tế, ông vay mượn nhiều yếu tố từ tất
cả các quan điểm trên để xây dựng một tổng hợp độc đáo đôi khi được đặc trưng
là "thuyết schumpeterian"
hay là thuyết tiến hóa. Ông cho rằng phân tích kinh tế phải gắn với các ngành
khoa học khác, như sử học, xã hội học, tâm lý học và lý thuyết chính trị. Bản
thân ông đã đóng góp vào nhiều lĩnh vực hiểu biết khác. Ông là một trong những
nhà sử học vĩ đại nhất về tư tưởng kinh tế. Ông bắt đầu sự nghiệp bằng những
công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này và kết thúc nó với một tượng đài kiến
thức uyên bác, dở dang, với hơn một ngàn trang viết cô đọng, History of Economic Analysis
(Lịch sử phân tích kinh tế), một tài
liệu tham khảo không thể thiếu.
Đổi mới, nhà doanh nghiệp và tín dụng
Schumpeter khâm phục lý thuyết cân
bằng chung của Walras, một lâu đài trí tuệ đầy ấn tượng, nhưng phê phán ông ấy
vì đã không nhận ra động thái, sự tăng trưởng và phát triển của chủ nghĩa tư
bản. Cuốn Théorie
de l’évolution économique (Lý
thuyết của sự tiến hóa kinh tế), mà ông công bố năm 28 tuổi, nhắm đến việc
bổ khuyết lỗ hổng đó. Đầu tư chiếm một vị trí trung tâm trong cơ cấu vận hành
của chủ nghĩa tư bản. Schumpeter phân biệt một đầu tư phái sinh, phụ thuộc vào
những lợi nhuận đạt được trước đó, với một đầu tư tự định, mà sự chuyển động
giải thích những biến động kinh tế. Đầu tư tự định gắn với sự đổi mới, một khái
niệm quan trọng then chốt của phân tích schumpeterian. Không nên nhầm lẫn đổi
mới với phát minh, vốn không tức thì có ý nghĩa kinh tế. Sự đổi mới được biểu
hiện bằng những kết hợp mới trong các phương pháp sản xuất, hàng hóa, đầu ra,
nguồn nguyên liệu thô và cách thức tổ chức sản xuất. Ví dụ trong lãnh vực sau
cùng này, Schumpeter cho rằng việc mở rộng nhiều hình thức độc quyền khác nhau
là một trong những đổi mới rất quan trọng, và sinh lợi của chủ nghĩa tư bản
đương đại.
Sự đổi mới không tự động tạo ra tăng
trưởng. Cần có hai nhân vật để biến sự đổi mới thành các khoản đầu tư thực: nhà
doanh nghiệp và ngân hàng. Nhà doanh nghiệp đóng vai trò chính trong vỡ diễn
này. Đó không phải là một tác nhân duy lý, tính toán chi phí và lợi ích. Đó là
một nhân vật có tham vọng, có nghị lực, thông minh, nhưng được thúc đẩy bởi
những xung năng của bản thân, quy ngã (tự coi mình là cái rốn của vũ trụ), quản
lý những sự đổi mới và biến chúng thành các khoản đầu tư.
Các chu kỳ kinh tế và sự hủy diệt sáng tạo
Tuy nhiên, doanh nhân không thể một mình đạt được điều đó. Tiền được tiết kiệm trước đây không bao giờ có thể đủ để tài trợ cho
các khoản đầu tư mới. Tín dụng là điều cần thiết. Tín dụng là tiền tệ được ngân
hàng tạo ra từ hư vô (ex nihilo). Nhà
hoạt động ngân hàng, trên cơ sở niềm tin đối với doanh nghiệp, tạm ứng những
khoản tiền cần thiết để doanh nghiệp thực hiện các dự án của mình. Ngân hàng sẽ
được trả bằng lãi suất, một khoản được trích từ lợi nhuận. Tiền tệ đi một
đường vòng mà ngân hàng là điểm khởi đầu. Phân tích tiền tệ và tín dụng là một
đóng góp trung tâm trong sự nghiệp của Schumpeter. Trong những năm 1920 ông đã
tiến hành viết một chuyên luận về tiền tệ, chưa bao giờ hoàn thành, một phần vì
Keynes đã đi trước với cuốn Treatise on
Money (Luận thuyết về tiền tệ)
của ông ấy. Das Wesen des Geldes (Bản chất của tiền tệ) được xuất bản năm
1970.
Sự tăng trưởng tư bản chủ nghĩa không phải và không thể là một quá trình mang tính đều đặn mà không có những cơn co giật bất ngờ. Lịch sử đã cho thấy điều đó. Vấn đề còn lại là giải thích nó. Về vấn
đề này, Schumpeter cảm phục Marx, người đầu tiên chứng minh rằng khủng hoảng là
một hệ quả cần thiết của sự tích lũy tư bản. Khủng hoảng không phải là những sự
cố nhất thời do các cú sốc ngoại sinh hay do tính không hoàn hảo của thị trường
gây ra, chẳng hạn như độc quyền của nghiệp đoàn. Ngược lại, khủng hoảng mang
tính nội sinh, gắn với chính bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Joseph Schumpeter |
Sự đổi mới không xuất hiện một cách
đều đặn và liên tục. Vào một thời điểm nào đó, những nhà doanh nghiệp năng động
nhất tung ra một hành động nào đó, để rồi những người khác bắt chước. Sự đổi
mới lây lan theo những "cụm"
không mang tính liên tục. Chúng gây ra những làn sóng đầu tư được tài trợ bởi
việc tạo ra tín dụng ngân hàng, dẫn đến sự phát triển và tăng trưởng cộng dồn.
Sau đó, những tác động giảm dần dần, sự đổi mới trở nên kém hiệu quả, lợi nhuận
giảm, và các ngân hàng bắt đầu hạn chế cung cấp tín dụng đối với những doanh
nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Và điều không thể tránh khỏi là khủng hoảng và
suy thoái. Chúng không chỉ tạo ra những khoảnh khắc tất yếu của sự phát triển
tư bản chủ nghĩa, mà còn là mảnh đất để ương mầm những làn sóng đổi mới và đầu
tư mới. Vì vậy, đây là một "sự hủy diệt sáng tạo".
Trong Business Cycles (Các chu kỳ
kinh doanh), Schumpeter chứng minh cho thấy sự tăng trưởng được đặc trưng
bởi một sự phát triển phức tạp trong dài hạn và có ba loại chu kỳ, được đặt
tên theo những người đã nhận diện chúng lần đầu: Kondatief (khoảng năm mươi
năm), Juglar (khoảng mười năm) và Kitchin (khoảng bốn mươi tháng).
Sự cáo chung của chủ nghĩa tư bản
Để dưỡng sức sau cuốn Business
Cycles (Các chu kỳ kinh doanh),
không được chú ý sau khi cuốn General Theory (Lý thuyết tổng quát)
của Keynes được xuất bản, Schumpeter viết cuốn Capitalism, socialism and democracy (Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và dân
chủ) (1942). Trong tác phẩm này ông tuyên bố rằng chủ nghĩa tư bản là một
hệ thống đã bị kết án, và chủ nghĩa xã hội tất yếu sẽ nối tiếp nó. Lý do ông
đưa ra không phải là những lý do của Marx, theo đó chủ nghĩa tư bản sẽ là nạn
nhân của sự phát triển những mâu thuẫn kinh tế của nó. Đối với Schumpeter,
chính những lý do mang tính ý thức hệ, chính trị và xã hội sẽ phá sập nền tảng
của hệ thống ấy. Chủ nghĩa tư bản bị kết án vì những thành công kinh tế của nó.
Một mặt, tính năng động kinh doanh suy yếu, nhà doanh nghiệp bị thay thế bởi
các quan chức của tư bản. Mặt khác, sự bất bình của những người bị hệ thống bỏ mặc cho số phận tăng lên. Trong khi đó, hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa ngày
càng thắng thế trong giới trí thức. Các giá trị của chủ nghĩa tư bản bị đặt lại
vấn đề. Để được bầu lại, các chính trị gia càng nhân nhượng trước dư luận bao
quanh họ. Chính vì vậy mà chủ nghĩa can thiệp keynesian và chính sách kinh tế
mới (New Deal) của tổng thống
Roosevelt dọn đường cho sự suy tàn không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản.
Sự sụp đổ của các chế độ kiểu xô-viết
và sự trỗi dậy của chủ nghĩa tự do cổ điển trong những thập niên cuối của thế
kỷ trước dường như bác bỏ các luận thuyết của Schumpeter. Tuy nhiên, phân tích
của ông về cơ năng tư bản chủ nghĩa, về sự đổi mới và về tín dụng được nhiều
người xem như là một cách tiếp cận phong phú để thông hiểu các xu hướng hiện
tại. Các lý thuyết đương đại về tăng trưởng nội sinh được lấy cảm hứng từ ông.
Việc thành lập của International Joseph A. Schumpeter Society, năm 1986, chứng minh sức lan tỏa các công trình của ông trong công chúng rộng rãi.
Joseph Schumpeter qua vài năm tháng
1883: sinh ra ở Triesch, dưới thời đế quốc
Áo-Hung.
1887: bố ông, một nhà công nghiệp dệt may,
qua đời.
1893: chuyển nhà đến ở Wien, sau khi mẹ
ông tái hôn.
1901: bắt đầu học luật và kinh tế tại Đại
học Wien, nơi ông là học trò của Böhm-Bawerk và Wieser, những người sáng lập
trường phái Áo. Ông tham gia một cuộc hội thảo, tập hợp các nhà lý thuyết marxist như Otto Bauer và Rudolf Hilferding.
1906: lấy bằng tiến sĩ luật.
1907: kết hôn với Gladys Ricards Seaver ở
Anh, nơi ông ở đó một năm.
1907: làm việc cho một hãng luật ở Ai Cập.
1908: Das wesen und der hauptinhalt der theoretischen
nationalökonomie (Bản chất và
thực chất của lý thuyết kinh tế).
1909: phó giáo sư tại Đại học Czernowitz.
1911: giáo sư tại Đại học Graz. Théorie de l’évolution économique (Lý thuyết về sự tiến hóa kinh tế).
1913-1914: giáo sư thỉnh
giảng tại Đại học Columbia ở New York.
1914: Esquisse d’une histoire de la science
économique (Phác thảo về lịch sử của
khoa học kinh tế).
1919: bộ trưởng Bộ
Tài chính của chính phủ liên minh Áo giữa đảng Dân chủ Xã hội và đảng Xã hội
Thiên chúa, từ tháng Ba đến tháng Mười.
1920: ly dị với
Gladys.
1921: chủ tịch ngân
hàng Biedermann, ở Wien, bị phá sản vào năm 1924.
1925: giáo sư về tài
chính công tại Đại học Bonn. Kết
hôn với Anna Reisinger.
1926: mẹ ông, vợ ông và con trai mới sinh
của ông qua đời.
1927-1928: giảng dạy tại Đại học Harvard, nơi
ông quay trở lại vào năm 1930 và tham gia vào việc thành lập Hội kinh trắc học.
1931: giảng dạy tại Nhật Bản.
1932: giáo sư tại Đại học Harvard.
1937: chủ tịch Hội kinh trắc học. Kết hôn
với Elizabeth Boody, một nhà kinh tế học.
1939: Business
Cycles (Các chu kỳ kinh doanh).
1942: Capitalism, socialism and democracy (Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và dân chủ).
1948: chủ tịch Hiệp hội Kinh tế Mỹ.
1950: mất ngày 08 tháng Giêng, vì bệnh
xuất huyết não tại nhà của ông ở Connecticut, vào lúc mà ông sẽ được bầu làm
chủ tịch đầu tiên của một hội mới, Hội quốc tế về kinh tế học.
1954: History of Economic Analysis
(Lịch sử phân tích kinh tế), do
Elizabeth Boody biên tập.
1970: L’essence de la monnaie (Bản chất của tiền tệ).
Để tìm hiểu thêm
Những tác phẩm của Schumpeter
• Théorie de l’évolution économique, Dalloz,
1935.
• Business
Cycles, Porcupine,
1982.
• Histoire de l’analyse économique, Gallimard, 3
vol., 1983.
• Capitalisme, socialisme et démocratie, Payot,
1990.
• Impérialisme et classes sociales,
Flammarion, 1984.
Những
tác phẩm viết về Schumpeter
• Opening
Doors: the Life and Work of Joseph Schumpeter, Robert L. Allen, Transaction, 2 vol., 1991.
• Schumpeter: la démocratie désenchantée,
Lucien-Pierre Bouchard, Michalon, 2000.
• Les institutions monétaires du capitalisme: la pensée
économique de J. A. Schumpeter, Odile Lakomski-Laguerre, L’Harmattan, 2002.
• La pensée économique de Schumpeter,
François Perroux, Droz, 1965.
• Schumpeter et l’évolution économique: circuit,
entrepreneur, capitalisme, Jean-José Quiles, nathan, 1997.
• Schumpeter:
his Life and Work,
Richard Swedberg, Polity Press, 1991.
Schumpeter, trang web
Có thể truy cập các tác phẩm Théorie de l’évolution économique (Lý thuyết về sự tiến hóa kinh tế) và Capitalisme, socialisme et démocratie (Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và dân
chủ), trên trang web của đại học Université de Québec à Chicoutimi (Uqat): http://classiques.uqac.ca/classiques.
Gilles Dostaler
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Nguồn: “Joseph
Schumpeter ou la dynamique du capitalisme” của G. Dostaler trong
Alternatives Economiques Poche no.057,
tháng 10 năm 2012.