HÀNH VI CỦA CON NGƯỜI: NHỮNG GÌ CÁC NHÀ KHOA HỌC ĐÃ HỌC ĐƯỢC TỪ ĐẠI DỊCH
![]() |
Con người không phi duy lý trong đại dịch như một số người đã nghĩ ban đầu. (Nguồn: Jennifer M. Mason / Shutterstock) |
Một số chính phủ lo lắng rằng các ràng buộc về
đại dịch của họ sẽ mau chóng dẫn tới “sự mệt mỏi về hành vi” để người dân sẽ ngừng
tuân thủ các ràng buộc. Ở Vương quốc Anh, cựu cố vấn trưởng của Thủ tướng ông
Dominic Cummings gần đây thừa nhận rằng đây là lý do
để không đóng cửa đất nước sớm hơn.
![]() |
Matt Hancock (1978-) |
![]() |
Dominic Cummings (1971-) |
Những ví dụ này cho thấy một số chính phủ cực kì không
tin tưởng người dân mình đến mức nào. Như thể vi rút còn chưa đủ, mà còn có
thêm vấn đề phản ứng của công chúng. Song liệu đây có phải là một cái nhìn chuẩn
xác về hành vi của con người hay không?
Sự không tin tưởng dựa trên hai hình thức của
chủ nghĩa quy giản |reductionism| – mô tả một điều gì đó phức tạp chỉ bằng các
thành phần cơ bản của nó. Trước hết là hạn định tâm lý học vào những đặc điểm –
và cụ thể hơn là vào những giới hạn – của tâm trí cá nhân. Theo quan điểm này,
tâm thức con người vốn dĩ đã thiếu sót, bị bủa vây bởi những thiên kiến, những
thứ bóp
méo thông tin. Tâm
thức của con người được
coi là không có khả
năng ứng phó với
sự phức tạp, tính xác
suất và sự bất trắc –
và nó cũng có xu hướng
trở nên hoảng sợ
trong một cuộc khủng hoảng.
Quan điểm này hấp dẫn đối với những nhà cầm
quyền. Bằng cách nhấn mạnh sự bất lực của người dân trong việc tự kiểm soát bản
thân, nó biện minh cho sự cần thiết về một chính phủ chăm lo cho họ. Nhiều
chính phủ ủng hộ quan điểm này, đã thành lập cái gọi
là các đơn vị hích |nudge unit| – các nhóm khoa học hành vi có nhiệm vụ
lôi kéo người dân một cách tinh vi để đưa ra các quyết định “đúng đắn”, mà họ
không biết tại sao, từ việc ăn ít đường cho đến việc nộp thuế đúng hạn. Song
ngày càng rõ ràng rằng cách tiếp cận này có giới hạn. Như đại dịch đã cho thấy,
nó đặc biệt thiếu sót khi nói tới hành vi [của con người] trong một cuộc khủng
hoảng.
Trong những năm gần đây, nghiên
cứu đã chỉ ra rằng khái niệm về việc người dân đang hoảng loạn trong một
cuộc khủng hoảng là một chuyện hoang đường. Người dân thường phản ứng với các
cuộc khủng hoảng một cách có toan tính và có trật tự – họ chăm sóc lẫn nhau.
Yếu tố quan trọng đằng sau hành vi này là sự
xuất hiện cảm giác về nhân dạng |identity| được chia sẻ. Việc mở rộng bản
ngã |self| để bao gồm cả việc những người khác giúp ta quan tâm tới những người
xung quanh và mong
đợi sự hỗ trợ ngược lại từ phía họ.
Khả năng phục hồi không thể bị quy giản thành phẩm chất của con người cá nhân.
Nó có xu hướng là thứ
gì đó nổi bật lên từ trong các nhóm.
Vấn đề với ‘chủ nghĩa duy tâm lý’
Một loại chủ nghĩa quy giản khác mà các chính
phủ áp dụng là “chủ nghĩa duy tâm lý” |psychologism| – khi bạn quy
giản việc giải thích hành vi của con người chỉ còn là tâm lý học. Song
có nhiều yếu tố khác định hình những gì ta làm. Nhất là ta dựa trên thông tin
và các phương tiện thực tế (nhất là tiền bạc!) để quyết định những gì cần phải
làm – và có khả năng làm được.
Nếu bạn quy giản con người chỉ còn là tâm lý, thì việc này sẽ khiến cho hành động của con người hoàn toàn là hệ quả của
sự lựa chọn cá nhân. Nếu bị nhiễm bệnh, đó là vì ta đã chọn hành động theo những
cách dẫn tới việc lây nhiễm: ta quyết định đi ra ngoài và giao lưu với mọi người,
ta phớt lờ những lời khuyên về giữ khoảng cách vật lý |physical distancing|.
Câu thần chú về tính trách nhiệm cá nhân và sự
đổ lỗi này chắc chắn là điểm cốt lõi trong phản ứng của chính phủ Vương quốc
Anh trong suốt đại dịch. Khi các trường hợp bắt đầu gia tăng vào mùa thu [năm 2020],
chính phủ đã đổ lỗi cho việc các sinh viên tổ chức tiệc tùng. Hancock thậm chí
còn cảnh báo những người trẻ tuổi “đừng giết bà mình”
[đừng lây nhiễm covid cho người thân lớn tuổi của mình – ND]. Và
khi chính phủ dự kiến xóa
bỏ hoàn toàn các
hạn chế, sự
tập trung vào những
gì mọi người phải
làm càng trở nên
mạnh mẽ hơn.
Như thủ tướng [Anh] gần
đây đã nói: “Tôi muốn chúng ta tin tưởng người dân có trách nhiệm và
làm điều đúng đắn.”
Những câu chuyện như vậy bỏ qua thực tế rằng,
ở các thời điểm quan trọng khác nhau của đại dịch, bệnh truyền nhiễm gia tăng
không phải vì mọi người vi phạm các quy tắc [phòng dịch], mà là việc người dân chú
ý tới lời khuyên, chẳng hạn như “trở
lại nơi làm việc” và “kích cầu
ăn uống ở tiệm”. Và nếu mọi người vi phạm các quy tắc [phòng dịch], đó
thường là bởi vì họ chẳng có lựa chọn nào khác. Ở nhiều vùng khó khăn, người
dân không thể làm việc ở nhà và phải trở lại
nơi làm việc để có tiền mua thức ăn.
Thay vì giải quyết những vấn đề này và giúp mọi
người tránh phơi nhiễm bản thân và những người khác, tự sự cá nhân chủ nghĩa của
tính trách nhiệm cá nhân đã đổ lỗi lên đầu nạn nhân và, thực sự, tiếp tục khủng
bố các nhóm dễ bị tổn thương. Khi biến thể delta xuất hiện ở các thị trấn ở
Vương quốc Anh, Hancock đã có cơ hội đứng trong quốc hội và liên tục đổ
lỗi cho những người đã “chọn” không tiêm vắc-xin.
Điều này đưa chúng ta đến một điểm hệ trọng. Cùng với sự không tin tưởng [người dân] của chính phủ và tâm lý về cá nhân chủ nghĩa của chính phủ, vấn đề cơ bản khác là việc chính phủ tạo ra những vấn đề to lớn.
Tạo ra
một cuộc khủng hoảng
Chính phủ Vương quốc Anh cho rằng sự kém ý thức
|cognitive fragility| của người dân sẽ dẫn tới – và giải thích cho – sự tuân thủ
thấp đối với các biện pháp [phòng dịch] cần thiết trong việc phòng chống vi rút
COVID-19. Song có chứng cứ cho thấy sự tuân thủ cao nhờ
ý thức cộng đồng của công chúng – ngoại trừ những khu vực khó tuân thủ nếu
không có đủ phương tiện. Thay vì nhấn mạnh tính trách nhiệm và sự đổ lỗi cho cá
nhân, thì một phản ứng hữu hiệu trước đại dịch phụ thuộc vào việc khuyến khích
cộng đồng |fostering community| và việc cung cấp sự hỗ trợ.
![]() |
Mọi người giúp đỡ lẫn nhau trong cơn khủng hoảng. (Nguồn: encierro / Shutterstock) |
Song đây lại là khó khăn. Nếu một chính phủ liên tục nói với bạn rằng vấn đề nằm ở những người quanh bạn, điều đó sẽ ăn mòn lòng tin và sự đoàn kết với các thành viên khác trong cộng đồng của bạn – điều này giải thích tại sao hầu hết mọi người (92%) đều tuyên bố rằng họ đang tuân thủ các quy tắc [phòng dịch] trong khi những người khác lại không làm vậy.
Suy cho cùng, mối đe dọa lớn nhất đối với việc
kiểm soát đại dịch là người dân không thể đi xét nghiệm ngay khi họ có các triệu
chứng, đồng thời cung cấp thông tin liên lạc và tự cách ly bản thân. Việc cung
cấp sự hỗ trợ đầy đủ cho việc cách ly là
rất quan trọng đối với tất cả những điều này. Và vì vậy, bằng cách
không ưu tiên cho việc hỗ trợ này, việc đổ lỗi cho công chúng là nguyên nhân dẫn
tới đại dịch. Trên thực tế, các giả định về tâm lý của chính phủ đã làm lãng
phí tài sản lớn nhất mà ta có để đối phó với một cuộc khủng hoảng: một cộng đồng
được huy động và thống nhất
trong sự tương trợ lẫn nhau.
Khi một cuộc điều tra cuối cùng được thực hiện
về phản ứng của Vương quốc Anh trước COVID-19, điều cần thiết là ta phải chú ý
đầy đủ đến các khía cạnh tâm lý và hành vi của thất bại cũng như các quyết định
và chính sách triển khai. Chỉ bằng cách chỉ ra phương thức mà chính phủ đã chấp
nhận và dựa vào mô hình sai về hành vi của con người, ta mới có thể bắt đầu xây
dựng các chính sách phù hợp.
Các từ khóa: Tâm lý học, Thiên kiến nhận thức, khoa học hành vi, COVID-19, Lệnh phong tỏa, Nhóm xã hội, Coronavirus Vương quốc Anh
Giới
thiệu tác giả
![]() |
Stephen Reicher |
Stephen
Reicher
Giáo
sư Bishop Wardlaw tại Trường Tâm lý & Khoa học Thần kinh, Đại học St.
Andrews.
Tuyên
bố công khai:
Stephen
Reicher nhận tài trợ từ Hội đồng Nghiên cứu Kinh tế và Xã hội, Vương quốc Anh.
Anh là thành viên trong nhóm tư vấn khoa học hành vi cho Chính phủ Vương quốc
Anh – SPI-B – nhóm tư vấn cho Chính quyền Scotland và là thành viên của SAGE độc
lập ở Vương quốc Anh, và quy tụ nhóm tạo tác động xã hội |sib-group| dựa trên
tác động hành vi của mình.
Nguyễn Việt Anh dịch
Nguồn: Human
behaviour: what scientists have learned about it from the pandemic, The Conversation, 01 tháng 07
năm
2021.
