10.7.21

Địa chính trị của bóng đá đương đại

ĐỊA CHÍNH TRỊ CỦA BÓNG ĐÁ ĐƯƠNG ĐẠI

Ví dụ về bóng đá minh họa nhữg hứa hẹn lẫn nguy cơ của toàn cầu hóa.

TÁC GIẢ: Branko Milanovic

DỊCH GIẢ: Ulysse Lojkine

Ngày 15 tháng 7 năm 2018

Các quy tắc của bóng đá thế giới cho phép các nước nghèo hưởng lợi một phần từ tình trạng “chảy máu đôi chân [cầu thủ nội ra nước ngoài thi đấu cho các câu lạc bộ nước ngoài – ND]”, trong chừng mực các đội tuyển quốc gia được quyền triệu tập những cầu thủ [đang thi đấu ở nước ngoài] của họ tham gia các giải đấu quốc tế, các nước này hưởng lợi từ những kỹ năng mà các cầu thủ của mình có được khi được các câu lạc bộ nước ngoài, ở một trình độ và chất lượng cao hơn tuyển dụng.[1]

Đây là một ví dụ về tính hiệu quả, nhưng cũng là sự bất bình đẳng gây ra bởi toàn cầu hóa, những thứ có thể được các định chế toàn cầu khai thác để giúp cải thiện những kết quả mà các nước nghèo đó được hưởng lợi.

Bóng đá là môn thể thao mang tính toàn cầu hóa cao nhất. Sự tự do dịch chuyển của cầu thủ đã gia tăng một cách đáng kể trong mười đến mười lăm năm qua, cùng với việc các câu lạc bộ nâng mức giới hạn số lượng cầu thủ nước ngoài thi đấu ở các giải châu Âu, và với việc các câu lạc bộ dấn sâu hơn vào các logic mang tính thương mại. Mặt khác, những quy tắc quản lý sự tranh tài của các đội tuyển quốc gia vẫn còn chặt chẽ: cầu thủ bóng đá chỉ có thể thi đấu cho quốc gia nơi họ được sinh ra. Từ mô hình này được đánh dấu bởi sự tự do di chuyển, tính kinh tế theo quy mô và sự nâng cao nội sinh về kỹ năng, là kết quả, một mặt của chất lượng thi đấu tốt hơn và của sự bất bình đẳng ngày càng tăng về kết quả giữa các câu lạc bộ với nhau, và mặt khác của tính không thuần nhất ít hơn giữa các đội tuyển quốc gia. Các ví dụ thực nghiệm từ lịch sử Giải bóng đá châu Âu [Champions League] và thế giới [World Cup] đã khẳng định những hàm ý của mô hình này.

Mô hình này là đơn giản và dựa trên nhiều giả định, trong đó quan trọng nhất là giả định hiệu suất theo quy mô tăng dần – một giả định được cho là hợp lý để áp dụng cho khá nhiều quy trình sản xuất phức tạp. Sự tự do dịch chuyển của lao động và hiệu suất tăng dần dẫn đến một sự gia tăng tổng thể của sản xuất, hoặc trong trường hợp liên quan đến bóng đá, là chất lượng của bóng đá, bởi vì những cầu thủ giỏi nhất được tuyển vào để cùng chơi với những người cầu thủ khác cũng giỏi nhất.

Thế nên vấn đề là: trong khuôn khổ các quy tắc thương mại thuần túy, sự cải thiện tổng thể về chất lượng của trò chơi [bóng đá] này đi kèm với sự gia tăng bất bình đẳng. Các nước nghèo (về bóng đá) chẳng hưởng được gì khi “xuất khẩu” cầu thủ của họ. Về phần các cầu thủ, họ được nhiều hơn, vì được trả lương cao hơn và vì chất lượng chơi bóng của họ ngày càng được cải thiện khi họ chơi bóng với những cầu thủ giỏi nhất, so với khi họ ở lại và chơi bóng tại quê nhà.

Các hiệu ứng lên phúc lợi cũng rất mơ hồ. Không nghi ngờ gì nữa, sự cải thiện chất lượng các trận đấu và chất lượng của ngành viễn thông (bao gồm việc truyền hình trực tiếp những trận đấu quan trọng nhất của các giải quốc gia từ khắp châu Âu) là nguồn vui cho những người hâm mộ bóng đá. Vì vậy, vào một ngày cuối tuần bình thường, một người hâm mộ bóng đá bình thường ở châu Âu có thể xem những đội bóng hay nhất của Ý, Tây Ban Nha hoặc Anh thi đấu với nhau, mà không cần rời khỏi căn phòng của họ. Môn thể thao này đã thực sự trở nên toàn cầu, không chỉ thu hút cầu thủ từ khắp nơi trên thế giới, mà còn cung cấp các nền tảng người hâm mộ cho các câu lạc bộ, khác với những khán giả truyền thống [đến sân xem trận đấu]. Ví dụ, câu lạc bộ Manchester United có một lượng người theo dõi rất đông ở châu Á, và trong thời gian gần đây, ở Bắc Mỹ. Các trận đấu thuộc giải Ngoại hạng Anh, giải hạng nhất Anh, thường xuyên được phát sóng và được khán giả khắp châu Á theo dõi.

Silvio Berlusconi (1936-)

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý một số nhược điểm. Những thành phố tầm cỡ trung bình, xét về mật độ dân số hay sự giàu có, đều mất đi cơ hội đón tiếp những câu lạc bộ xuất sắc trên thế giới trong sân đấu trên lãnh thổ họ. Trong khi giải Champions Cup, trong cấu hình tổ chức trước đây, cho phép các đội mạnh nhất của ​​Thụy Sĩ hoặc Bulgaria gặp, nhờ may mắn bốc thăm trúng, đội Real Madrid, và như vậy cho công chúng địa phương cơ hội được xem những cầu thủ xuất sắc nhất thế giới, không chỉ trên truyền hình, mà còn bằng xương bằng thịt, thì các sân vận động mới khiến cho khả năng đó trở nên khá xa vời. Nếu đề xuất thậm chí còn triệt để hơn của Silvio Berlusconi[2] được chấp nhận, thì các đội mạnh nhất sẽ không bao giờ thi đấu với các đội hạng hai. Vì vậy, có một phân khúc rõ ràng: giải hạng nhất dành cho những đội hay nhất thi đấu với nhau, giải hạng hai dành cho những đội ở cấp độ thấp hơn, và cứ thế mà tiếp tục. Điều này có thể dẫn đến một số mất mát về phúc lợi đối với người hâm mộ, do sự gắn bó của họ với các câu lạc bộ địa phương của mình và mong muốn được nhìn thấy câu lạc bộ của mình, chí ít là thỉnh thoảng, được thi đấu với các đội giỏi nhất. Nhưng, như chúng tôi đã đề cập, điều này chỉ có thể xảy ra trong một bối cảnh mà chất lượng tổng thể của trò chơi được cải thiện đáng kể.

Để phân phối lại toàn bộ lợi tức thu được từ một nền sản xuất toàn cầu ở cấp độ cao hơn, thì cần phải thiết lập các quy tắc toàn cầu. Trong bóng đá, các quy tắc đó do FIFA soạn thảo, vốn là tổ chức bóng đá quốc tế quy định sự tranh đua giữa các đội tuyển quốc gia. Các quy tắc của FIFA nghiêm cấm việc thay đổi đội tuyển quốc gia. Thế nên, các nước giàu không thể mua cầu thủ bóng đá của một nước nghèo để thi đấu ở World Cup. Và các nước nghèo (về bóng đá) có thể hưởng lợi từ những kỹ năng vượt trội của những cầu thủ của họ được thi đấu ở nước ngoài, khi các cầu thủ này tạm thời trở về quê hương để thi đấu cho đội tuyển quốc gia của họ.

Sepp Blatter (1936-)

Câu hỏi là liệu các quy tắc “phân phối lại” hiện hành có đủ sức [điều tiết] hay không là một vấn đề khác. Nhiều người có vẻ tin rằng các quy tắc đó chưa đủ sức và các nước nghèo, những nước cung cấp hầu hết các cầu thủ cho các câu lạc bộ phương Bắc không hưởng lợi gì nhiều. Một trong số người đó là cựu chủ tịch FIFA Sepp Blatter, người đã mạnh mẽ phản đối các câu lạc bộ giàu có vì sự thờ ơ của họ đối với môi trường xã hội và vận mệnh bóng đá ở những nước mà họ tìm được hầu hết các cầu thủ giỏi nhất. Ví dụ, các câu lạc bộ phương Bắc đã bắt đầu thành lập các trung tâm huấn luyện bóng đá riêng của họ ở các nước nghèo, nhằm thu hút các tài năng trẻ với chi phí thấp hơn rất nhiều so với việc phải trả tiền cho những cầu thủ đã được đào tạo.

Nhưng bất chấp ảnh hưởng tiết chế có phần khiêm tốn của FIFA, mâu thuẫn vẫn tồn tại, bởi vì chúng ta thực sự đang đối mặt với một sự không thích đáng giữa hai triết lý, vốn đã cùng nhau tồn tại lâu năm một cách khó khăn và có nguy cơ trở thành một sự đối lập trực diện.

Garry Kasparov (1963-)

Một mặt, bóng đá có thể tự miễn trừ hoàn toàn mọi quy tắc phân phối lại. Các câu lạc bộ xuất sắc nhất thậm chí có thể rời khỏi các liên đoàn [bóng đá] châu Âu và thế giới và tổ chức một giải đấu riêng của họ, điều mà 14 câu lạc bộ bóng đá giàu nhất châu Âu đã đe dọa làm. Đây là cách mà môn quyền anh đã chọn với sự tăng nhanh, gần như không thể hiểu nổi, các liên đoàn [quyền anh] chuyên nghiệp và các nhà “vô địch [quyền anh] thế giới”. Dưới sự tham mưu của Kasparov, môn cờ vua cũng đi theo con đường tương tự. FIDA, hiệp hội cờ vua quốc tế, trước đây từng đặt ra các quy tắc và tổ chức các giải vô địch cờ vua thế giới, đã bị PCA (Hiệp hội cờ vua chuyên nghiệp) do Kasparov cùng một số kỳ thủ giỏi nhất thành lập, bỏ ra rìa. Như người ta mong đợi, điều này đã tạo ra nhiều nhà vô địch thế giới, và làm giảm cấp các giải đấu xuống cấp độ một buổi diễn xiếc ngoạn mục. Trong bóng đá cũng vậy, đã có một tiền lệ. Vào đầu những năm 1960, nhiều câu lạc bộ Mỹ Latinh đã rời khỏi liên đoàn bóng đá Mỹ Latinh, và bắt đầu tổ chức một giải đấu theo các quy tắc riêng của họ. FIFA, với quyền lực đủ mạnh để dập tắt cuộc nổi loạn này từ trong trứng nước, đã cấm, thường là suốt đời, những cầu thủ nào thi đấu ở giải đấu mới. Điều này đã hạn chế phạm vi của liên đoàn [các câu lạc bộ Mỹ Latinh], làm nản lòng các cầu thủ khác tham gia giải đấu của liên đoàn mới và cuộc nổi loạn nhanh chóng đi đến hồi kết.

Nhưng nếu các câu lạc bộ mạnh nhất cùng nhau thách thức UEFA và FIFA, thì tình hình có thể sẽ khác đi khá nhiều. Các câu lạc bộ lớn nhất châu Âu đã nổi giận, ngay cả khi FIFA đặt ra một nghĩa vụ tương đối nhẹ cho họ, đó là nghĩa vụ để các cầu thủ được phục vụ cho đội tuyển quốc gia của mình – một cơ chế toàn cầu trù liệu việc phân phối lại một số thu hoạch hiệu quả. Sự phản kháng tương tự của các câu lạc bộ đối với các quy tắc toàn cầu cũng xuất hiện trong trường hợp của môn bóng rổ, khi Liên đoàn Bóng rổ Thế giới (FIBA) cũng yêu cầu các câu lạc bộ phải giải phóng cầu thủ của họ cho các đội tuyển quốc gia, chẳng hạn như khi đội tuyển quốc gia tham gia một kỳ Thế vận hội. Điều này gây khó, đặc biệt, cho Hiệp hội Bóng rổ Hoa Kỳ (NBA), nơi tập hợp nhiều cầu thủ xuất sắc nhất thế giới. Chủ sở hữu đội bóng rổ Dallas Mavericks gần đây đã phàn nàn, “Tại sao chúng tôi phải để cho tài sản quý giá nhất của mình [các cầu thủ châu Âu] thi đấu cho một giải khác [Thế vận hội], dù biết rằng khi buộc phải cung cấp sản phẩm của mình, thì điều đó có thể có một tác động tiêu cực.”

FIFA phản đối việc thương mại hóa quá mức này. Một triết lý khác là tiết chế sự thương mại hóa với việc phân phối lại thu hoạch nhiều hơn. Điều đó hàm ý đòi hỏi một nỗ lực lớn hơn để áp đặt tinh thần trách nhiệm cho các công ty và chứng chỉ “công dân tốt” cho các câu lạc bộ giàu nhất, đặc biệt trong nội bộ các mối quan hệ với các nước nghèo. Và điều đó có thể gìn giữ bản chất tranh đua trong thể thao, cải thiện chất lượng thi đấu, đồng thời chia sẻ lợi ích một cách rộng rãi hơn.

Tương tự, nếu không chỉ đề cập đến bóng đá nói riêng mà còn đề cập đến các hoạt động khác của con người nói chung, nếu cho phép một sự tự do dịch chuyển lao động nhiều hơn, thì chúng ta có thể – tương tự như đối với ví dụ về bóng đá – mong đợi một sự gia tăng trình độ sản xuất ở cấp độ toàn cầu. Nhưng chúng ta cũng có thể phải trả giá cho điều đó bằng sự gia tăng bất bình đẳng, loại trừ thêm nhiều nước nghèo khác và gây thiệt hại đối với một số phúc lợi, từ việc đánh mất “hương vị địa phương”. Vì thế, để quá trình này có lợi về mặt xã hội, được chấp nhận và mang tính công bằng nhiều hơn, thì cần phải có một số quy tắc mang tính toàn cầu, phi mậu dịch, có khả năng thích ứng với quá trình toàn cầu hóa bằng thị trường. Lấy cảm hứng từ các quy tắc của FIFA [Liên đoàn bóng đá thế giới], chúng ta có thể hình dung một nghĩa vụ, được các cơ chế quốc tế áp dụng, theo đó tất cả người di dân có trình độ cao (kỹ thuật viên tin học, bác sĩ, kỹ sư, nhân viên đại học) từ các nước nghèo đến các nước giàu sẽ buộc phải trải qua một quá trình làm việc tại nước xuất thân, ví dụ, tổng cộng là bốn hoặc năm năm, trong suốt cuộc đời làm việc của họ.

Chúng ta có thể thực hiện điều đó, theo cách bắt buộc, trong việc cấp giấy phép lao động ở các nước giàu. Các quy tắc đó có rất ít khả năng được các nước giàu áp đặt và thực thi, bởi vì điều đó sẽ khiến họ gặp bất lợi so với các đối thủ cạnh tranh. Nhưng nếu các quy tắc đó mang tính toàn cầu, thì từng nước giàu sẽ buộc phải tuân theo và sẽ bị ảnh hưởng theo cách giống nhau. Nếu sự đảo ngược tạm thời của tình trạng “chảy máu chất xám” góp phần mở rộng nền kinh tế toàn cầu – điều mà những công ty ở các nước giàu cũng hưởng lợi –, thì người ta có thể hy vọng là những nước giàu nhất sẽ có một cái nhìn bớt ảm đạm hơn về các quy tắc mới này.

Cũng giống như cách mà các nước nghèo về bóng đá hưởng lợi từ tình trạng “chảy máu đôi chân” mỗi bốn năm một lần tại các kỳ World Cup, thì những nước có thu nhập thấp có thể nắm bắt được một số hoạt động cải tiến “chất xám” người lao động của họ. Loại hình toàn cầu hóa này, có ý thức cao hơn về mặt xã hội, sẽ kết hợp những lợi ích thương mại thuần túy (được phản ánh qua thực tế những cầu thủ giỏi nhất được các câu lạc bộ giàu nhất tuyển chọn) với sự tồn tại của một cơ quan điều tiết toàn cầu; cơ quan điều tiết này sẽ áp đặt các quy tắc phi thương mại để tiết chế những tác động tiêu cực của các mục tiêu thương mại.

Các quy tắc phi mậu dịch trên thế giới chỉ có thể được thực hiện thông qua một quá trình vận động không mệt mỏi và những áp lực liên tục lên nước giàu trên các diễn đàn quốc tế. Song, nếu không có một quyền lực tối thượng, thì không thể có, như đã thấy trong bóng đá, việc các quốc gia nghèo nhất có được thu hoạch. Ví dụ về bóng đá minh họa kiểu toàn cầu hóa đáng mong muốn: loại bỏ các giới hạn về dịch chuyển lao động, nâng cao hiệu suất tổng thể thông qua tương tác với con người, sử dụng hiệu suất ngày càng tăng của các kỹ năng, nhưng cũng cần đảm bảo chia sẻ một số thu hoạch cho những nước không có đủ sức mạnh kinh tế. Điều đó cũng minh họa cho thấy thực tế là các nước giàu không hài lòng với các quy tắc toàn cầu, dù cho là khá giới hạn, và mong muốn bãi bỏ các quy tắc đó.

Như vậy, ví dụ về bóng đá minh họa những hứa hẹn lẫn nguy cơ của toàn cầu hóa.

Từ năm 1962 đến 2018, tôi đã theo dõi các kỳ World Cup trong hơn nửa thế kỷ. Đầu tiên là trên đài phát thanh, sau đó là trên truyền hình, truyền hình đen trắng rồi đến truyền hình màu, và cuối cùng là đến sân vận động. Khi so sánh các bộ máy và tổ chức mà ngày nay sự kiện này huy động, cũng như tác động toàn cầu của môn thể thao này, với cách mà mọi thứ đã diễn ra vào năm 1962, thì sẽ dễ nắm bắt hơn các bước tiến hóa chung của công nghệ và toàn cầu hóa, đó là một tiến bộ ngoạn mục. Nhưng chúng ta cũng cần phải khiêm tốn khi đánh giá những gì đã hoàn thành. Chúng ta tự hào về việc Thế vận hội Olympic và World Cup đã được tổ chức gần như không bị gián đoạn trong ít nhiều hơn một thế kỷ qua. Nhưng Thế vận hội Hy Lạp chưa bao giờ bị gián đoạn trong mười thế kỷ. Đội nào sẽ vô địch World Cup 2318? Liệu đó sẽ là sự tranh đua giữa các nước với nhau, hay giữa các lục địa châu Đại Dương, Đông Á, Á-Âu, v.v.? Liệu bóng đá còn tồn tại nữa hay không? Liệu World Cup có còn được tổ chức nữa hay không?

Ai biết được?

TÁC GIẢ

Branko Milanovic (1953-)

BRANKO MILANOVIC

Branko Milanovic là nhà kinh tế học người Mỹ gốc Serbia, chuyên gia về bất bình đẳng toàn cầu, trong đó cuốn sách mới nhất của ông Global Inequality [Bất bình đẳng toàn cầu] (NXB Harvard University Press, 2016) là một trong những nghiên cứu thực nghiệm hay nhất. Ông cũng đã từng nghiên cứu về nước Nga trong những năm 1990, nhân dịp Ngân hàng Thế giới công bố bản báo cáo về sự chuyển đổi của các nước phương Đông.

Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch

Nguồn: Géopolitique du football contemporain, Le Grand Continent, ngày 15/07/2018.




Chú thích:

[1] Hôm nay, trận chung kết giải World Cup của FIFA diễn ra với sự đối đầu của hai đội châu Âu. Một mặt, đội Pháp đã từng vô địch giải này hai mươi năm trước, và ba lần có mặt ở trận chung kết. Mặt khác, đội Croatia, vốn thuộc nước Cộng hòa Nam Tư cũ, sẽ là đội đầu tiên có mặt trong một trận chung kết World Cup, giống như việc họ là nước đầu tiên gia nhập Liên minh châu Âu, có nghĩa là đội đi sau về trước. Sự tương phản này tạo ra cơ hội để suy nghĩ về khía cạnh địa chính trị của bóng đá, và về cách mà môn thể thao này phản ánh các cán cân quyền lực hiện hành trên bình diện châu Âu và thế giới. Chuyên gia về các vấn đề bất bình đẳng và phân phối thu nhập, nhà kinh tế học Branko Milanović đã đề xuất một mô hình để suy nghĩ về các mối quan hệ bất bình đẳng đang tồn tại trong bóng đá thế giới, đôi khi được bù đắp bởi các logic mang tính quốc gia của một môn thể thao vốn đã trở thành một thị trường toàn cầu. Tác giả cũng mời gọi chúng ta rút ra một số bài học từ tình hình của môn thể thao phổ biến nhất thế giới trong các lĩnh vực khác của kinh tế và xã hội.

[2] Sau này là chủ tịch CLB bóng đá AC Milan.

Print Friendly and PDF