21.7.21

Liệu Trung Quốc có thể thực sự từ bỏ đồng đô la hay không?

LIỆU TRUNG QUỐC CÓ THỂ THỰC SỰ TỪ BỎ ĐỒNG ĐÔ LA HAY KHÔNG?

Alex Payette

Những chỉ trích ở Trung Quốc đối với các chính sách tiền tệ của Mỹ và châu Âu đã tiếp thêm sinh lực cho các cuộc tranh luận về việc “từ bỏ” đồng đô la. (Nguồn: QZ)

Một tính từ chưa đủ mạnh. Trung Quốc cảm thấy không thoải mái với cụm từ “bằng bất cứ giá nào” ở phương Tây để kiềm chế cuộc khủng hoảng kinh tế do đại dịch gây ra. Từ bài học kinh nghiệm về khoản nợ địa phương khổng lồ, được tạo ra từ các khoản vay thường được chuyển thành nợ khó đòi, Trung Quốc không muốn lâm vào cảnh nợ nần thêm nữa. Ngoài ra, cuộc khủng hoảng cũng đã tạo ra một động lực mới cho mong muốn của Bắc Kinh trong việc từ bỏ vĩnh viễn đồng đô la. Một máy gia tốc để tách rời khỏi Hoa Kỳ? Không hề đơn giản.

Nền kinh tế thế giới đã bước vào kỷ nguyên nới lỏng tiền tệ chưa từng có, thậm chí còn làm lu mờ thời kỳ các gói kích thích kinh tế sau cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn toàn cầu năm 2008. Các ngân hàng trung ương của những nền kinh tế lớn trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản hay Đức, đã bơm hàng tỷ đô la vào hệ thống tài chính quốc tế trong nỗ lực ngăn chặn những thiệt hại kinh tế do đại dịch gây ra. Trung Quốc, giống như những nước khác không thực hành chính sách tiền tệ nói trên, đã cảm thấy những hậu quả từ chính sách nới lỏng tiền tệ với quy mô chưa có tiền lệ này.

Guo Shuqing (1956-)

Tại một cuộc họp báo vào đầu tháng 3, Guo Shuqing (树清, Quách Thụ Thanh), giám đốc Ủy ban điều hành ngân hàng và bảo hiểm, một cơ quan quyền lực của Trung Quốc, đã không ngần ngại chỉ trích Hoa Kỳ. “Các thị trường toàn cầu đang bắt đầu cảm thấy những hậu quả phụ của các chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm đối phó với đại dịch,” Nhật báo The Standard, tờ báo tiếng Anh của Hong Kong dẫn lại lời của Guo: “Chứng khoán trên các thị trường tài chính đang được giao dịch ở mức cao ở Châu Âu, Hoa Kỳ và các nước phát triển khác, điều này đi ngược với nền kinh tế thực […]. Khi nền kinh tế đã trở nên toàn cầu hóa ở mức độ cao, thì các dòng vốn nước ngoài chảy vào Trung Quốc sẽ tăng mạnh do công cuộc phục hồi kinh tế và giá tài sản hấp dẫn.”

Cũng tại cuộc họp báo đó, Guo cũng đề cập đến bong bóng tài sản trên thị trường bất động sản Trung Quốc: “Nếu thị trường bất động sản sụt giảm, thì giá trị tài sản thuộc sở hữu người dân nói chung sẽ bị tổn thất lớn, có thể gây ra một vòng luẩn quẩn các khoản vay thế chấp không có khả năng thanh toán và hỗn loạn kinh tế.” Một bình luận càng mỉa mai hơn khi một ngày trước đó, Guo Shuqing đã tuyên bố rằng “Trung Quốc đã [thành công] trong việc kiềm chế tình trạng bong bóng bất động sản, sau khi mức tăng trưởng các khoản vay thế chấp thấp hơn các khoản vay khác, lần đầu tiên trong tám năm vào năm 2020”.

Điều chắc chắn là những quan ngại của Guo không phải là không có cơ sở, mặc dù hơi phóng đại. Nhưng trông giống như những lời chỉ trích khoác lác của đảng-nhà nước đối với tất cả những thứ mà các nền kinh tế lớn khác đang làm, đặc biệt là của phương Tây. Ngoài ra, việc Guo không tán đồng chính sách kích thích tiền tệ ở Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu là đạo đức giả, vì lý do đơn giản là Đảng-Nhà nước đã làm đúng điều tương tự, nhưng ở mức độ thấp hơn và chậm hơn. Một điều không thể không gây tò mò khi biết rằng chính quyền trung ương Trung Quốc có thể làm được nhiều điều hơn thế trong lĩnh vực nới lỏng tiền tệ trực tiếp. Nhưng chính quyền lại chọn cách can thiệp một cách gián tiếp thông qua việc huy động nguồn vốn dưới danh nghĩa tiền vay của các chính quyền địa phương – thường ở cấp tỉnh thành, quận huyện hoặc làng xã.

Theo một cách nào đó, chính quyền trung ương đang cố gắng tránh đòn trong trường hợp có sự cố xảy ra. Ví dụ, tình trạng vỡ nợ của một chính quyền địa phương trong việc thanh toán các trái phiếu hoặc khoản vay của họ. Khi đó, các nhà chức trách trung ương không chỉ có thể trút bỏ mọi trách nhiệm, mà còn có một vật tế thần sẵn có. Tuy nhiên, đừng quên rằng chính Bắc Kinh đã đưa ra chính sách đề xuất phát hành thêm công phiếu ở cấp địa phương để hỗ trợ các nguồn đầu tư trong lãnh vực phát triển cơ sở hạ tầng và xây dựng.

SỰ KÉM PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TRUNG QUỐC

Mặt khác, Guo có vẻ như không hiểu lý do vì sao chính sách nới lỏng tiền tệ ở các nước phát triển lại không có cùng hiệu ứng lên nền kinh tế thực và các thị trường tài chính. Thế mà câu trả lời là khá rõ: Một mặt, các nước phát triển đã “phát triển” bởi vì nền kinh tế thực đã đạt đến độ trưởng thành hoàn toàn. Bên cạnh việc hiện đại hóa các cơ sở hạ tầng hiện có, các nước phát triển không có nhiều việc phải làm đối với nền kinh tế thực của họ. Chưa kể hệ thống chính trị của họ không giống như ở Trung Quốc. Điều này khiến họ không có những công cụ chính trị cần thiết để thực hiện các biện pháp kích thích tiền tệ – bằng sắc lệnh – một cách trực tiếp vào nền kinh tế thực. Cuối cùng, nếu các biện pháp kích thích tiền tệ hướng đến những thị trường tài chính ở các nước phát triển, thì điều này không chỉ chứng tỏ sự hình thành các bong bóng đầu cơ, mà còn cho thấy là có một hệ thống tài chính được vận hành theo hướng tự do hóa và trưởng thành nhiều hơn – điều mà Trung Quốc đã nỗ lực hướng tới trong nhiều năm qua. Điều mà Guo có vẻ như đã quên là một hệ thống như thế có khả năng phân bổ các nguồn lực, một cách hiệu quả hơn, cho toàn bộ nền kinh tế khi không có sự kiểm soát trực tiếp của chính phủ.

Charles Li Xiaojia (1961-)

Một câu hỏi khác là tại sao Guo lại nhấn mạnh nhiều như thế đến vấn đề nền kinh tế thực? Các biện pháp kích thích ngân sách và tiền tệ do Đảng-Nhà nước quyết định, kể từ khi đại dịch bắt đầu bùng phát là có vấn đề, trong chừng mực là có nguy cơ phải bơm tiền cho các doanh nghiệp [nhà nước] hoạt động kém hiệu quả hoặc các thực thể lừa đảo. Vào đầu tháng 3, cựu Tổng giám đốc Sở Giao dịch Chứng khoán Hồng Kông, Charles Li Xiaojia (李小加, Lý Tiểu Gia), đã gây ra một làn sóng phản đối khi tuyên bố trung tâm tài chính nên được sử dụng để kết nối với nguồn vốn toàn cầu và các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Quốc. Tuy nhiên, hệ thống điều hành và pháp lý của Trung Quốc không minh bạch lắm. Nguồn vốn nước ngoài khó kiếm được lợi nhuận trong một môi trường như thế. Trên bãi mìn giao dịch thương mại như ở Trung Quốc, nguy cơ lừa đảo tài chính và thuế là điều có thật, điều mà ngay cả Đảng-Nhà nước cũng phải khá vất vả để xác định và ngăn chặn.

Và còn trong tình trạng kém phát triển, hệ thống tài chính Trung Quốc vẫn thiếu khả năng phân biệt những doanh nghiệp hoạt động có lãi với những doanh nghiệp hoạt động kém cỏi, hoặc phân biệt lĩnh vực nào của nền kinh tế cần hoặc không cần nguồn lực. Vì thế, chính quyền trung ương phải đóng vai trò tích cực trong việc phân bổ các nguồn lực, một nhiệm vụ mà chính quyền trung ương phải hoàn thành một cách rất vất vả vào lúc này.

Mặc cho những lo ngại của Guo, điều đáng tiếc đối với Guo, là công việc của ông, trong vai trò nhà điều hành, là điều tiết theo trước mắt và quản lý rủi ro khi phát sinh, chứ không phải là can thiệp vào quá trình ra quyết định[1]. Thế nhưng, Guo chỉ nói lên những quan tâm của những giới bảo thủ nhất và chủ trương “biệt lập” nhiều hơn của Đảng khi mà mối quan hệ giữa Trung Quốc-Hoa Kỳ đang xấu đi và Đảng Cộng sản Trung Quốc [ĐCSTQ] ngày càng quay sang cánh tả[2].

TIẾNG NÓI CỦA PHE CHỦ TRƯƠNG “BIỆT LẬP”

Zhou Xiaochuan (1948-)

Sau những lời đả kích của Guo chống lại các chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu, các cuộc tranh luận về việc “từ bỏ” đồng đô la ở Trung Quốc đã tăng cao trở lại. Được phần lớn phe chủ trương biệt lập ủng hộ, diễn ngôn này cũng đã thắng thế sau năm 2008, khi mà Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu bắt đầu thử nghiệm các biện pháp nới lỏng định lượng trên quy mô lớn. Ngay cả vào thời kỳ đó, ngoài một vài nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng, như cựu Thống đốc Ngân hàng Trung ương Zhou Xiaochuan (周小川, Chu Tiểu Xuyên), người chỉ trích rất mạnh việc Hoa Kỳ xử lý cuộc khủng hoảng tài chính và chính sách tiền tệ “vô trách nhiệm” của Cục Dự trữ Liên bang, thì ý tưởng loại bỏ đồng đô la khỏi nguồn dự trữ ngoại hối của Trung Quốc chỉ được một bộ phận những người theo chủ nghĩa tân Mao cánh tả xem xét mà thôi. Nhưng kể từ đó, diễn ngôn này bắt đầu nổi lên hàng đầu trong các cuộc tranh luận công khai. Không có gì ngạc nhiên khi diễn ngôn này đã được nhiều người ủng hộ kể từ khi đại dịch bắt đầu bùng phát, khi đó chính phủ các nước trên thế giới đã sử dụng rộng rãi sức mạnh tài khóa và tiền tệ của họ để hỗ trợ cho các nền kinh tế của họ.

Sergey Lavrov (1950-)

Vào cuối tháng 3, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov cũng đã tán thành diễn ngôn này trong chuyến viếng thăm của ông tới Bắc Kinh. Ông kêu gọi Trung Quốc và Nga giảm bớt sự phụ thuộc vào đồng đô la và các “hệ thống thanh toán của phương Tây”, như hệ thống SWIFT. Bỏ qua một bên chủ nghĩa cơ hội của Nga trên vấn đề này, có vẻ như lần đầu tiên trong một thời gian dài, ý tưởng từ bỏ đồng đô la này đang thắng thế thực sự ở Trung Quốc. Ít nhất là về mặt hệ tư tưởng: sự trỗi dậy của tâm lý bài Trung Quốc trên thế giới, cùng với sự xấu đi các mối quan hệ giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ và châu Âu, cũng như chính sách nới lỏng tiền tệ chưa từng có ở phương Tây, tất cả đã tạo ra một môi trường thuận lợi để ý tưởng [từ bỏ đồng đô la] này xuất hiện trở lại, ít nhất là trong tạm thời. Tuy nhiên, nếu không có sự hậu thuẫn của các quan chức quan trọng, những người ủng hộ điều đó[3], thì chính sách nói trên có xác suất chỉ tồn tại ở mức phôi thai, vào thời điểm hiện tại.

Hơn nữa, bất luận tính kiên định của những người theo chủ nghĩa biệt lập, các “nhà cải cách” biết rõ rằng không những không thể tách khỏi Hoa Kỳ, mà còn không thể không sử dụng đồng đô la. Thậm chí ngay cả khi điều đó có thể xảy ra, thì nó tương đương với việc đẩy chế độ hiện tại ở Bắc Kinh đến bờ vực thm, hoặc hướng tới một tình trạng tương tự như ở Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên, một nước quy mô như Trung Quốc khó mà cưỡng lại áp lực nội tại do tình trạng này gây ra trong dài hạn, giống như vị thế mà chế độ Bắc Triều Tiên có khả năng chịu đựng.

Ngày nay, phe bảo thủ đang hăm hở chỉ trích những hậu quả từ chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Nhưng họ cũng hưởng lợi từ hệ thống đó và từ những hậu quả đó: Trung Quốc, nước không cần phải chịu gánh nặng phát hành một loại tiền tệ quốc tế được sử dụng cho nguồn dự trữ ngoại hối của đa số các nước, vẫn có khá đủ các biện pháp và công cụ kiểm soát để đối phó với bất kỳ cú sốc tiền tệ toàn cầu lớn nào, ở một chừng mực nào đó.

THEO ĐUỔI CẢI CÁCH, THỬ THÁCH QUYỀN LỰC ĐỐI VỚI ĐẢNG

Phải chăng các bình luận của Guo gợi ý rằng cơ chế điều hành của Trung Quốc, bất luận các chương trình cải cách và hiện đại hóa gần đây, vẫn mang tính mong manh và không có khả năng, một cách tiềm ẩn, chống chọi với những biến động của hệ thống tài chính quốc tế? Câu trả lời ngắn gọn là có. Câu trả lời dài thì phức tạp hơn.

Kể từ khi bắt đầu công cuộc cải cách, Đảng-Nhà nước đã thực hiện liên tục nhiều chính sách tự do hoá lĩnh vực tài chính và thị trường trong nước. Công cuộc đổi mới dần dần này đã phần lớn tránh được những vấn đề lớn cho đến nay. Tuy nhiên, đại dịch, hay nói đúng hơn là những hậu quả của đại dịch lên nền kinh tế Trung Quốc, đã khiến Đảng bị kẹt trong tình thế trên đe dưới búa: Đảng phải tiếp tục công cuộc cải cách, bởi vì bất kỳ sự giảm tốc hay tụt lùi nào cũng có thể khiến dòng vốn nước ngoài rút lui. Điều đó nói lên rằng, mặc dù vẫn có khả năng kiểm soát nhịp độ những cải cách được thực hiện, cũng như tốc độ và mức độ mở cửa thị trường trong nước, nhưng Đảng không thể kiểm soát cách mà các nước khác triển khai các chính sách của họ. Tệ hơn nữa, ĐCSTQ không thể kiểm soát những sự kiện theo kiểu “thiên nga đen”, ví dụ như đại dịch toàn cầu chẳng hạn.

Không có gì bí mật khi Đảng-Nhà nước không được thiết kế để giao quyền kiểm soát các cơ chế, chưa nói đến việc giao quyền và cảm thấy thoải mái khi đưa ra quyết định [giao quyền] này. Theo nghĩa này, môi trường thời kỳ hậu đại dịch ở Trung Quốc đã tạo ra một thời khắc mang tính quyết định đối với Đảng-Nhà nước, mà khi đó họ đã đưa ra quyết định đúng đắn: tiếp tục đẩy mạnh các chương trình cải cách trên hết. Trong khi môi trường chính trị và ngoại giao trở nên bảo thủ hơn, thì môi trường kinh doanh đã trở nên cởi mở hơn một chút. Vào tháng 3, một cuộc khảo sát đối với các doanh nghiệp Mỹ hoạt động tại Trung Quốc đã cho thấy một nửa trong số họ đánh giá môi trường đầu tư ở nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là “thuận lợi”. Phản ứng này là một thắng lợi của Đảng-Nhà nước, nhất là trong quan hệ Trung-Mỹ vào thời điểm hiện nay.

Không còn nghi ngờ gì nữa khi mà những cải cách gần đây đã mang lợi cho Trung Quốc trên quy mô lớn. Nguồn vốn nước ngoài đã đổ xô vào Trung Quốc và nhiều doanh nghiệp lớn của Trung Quốc đã được thành lập ở nước ngoài[4]. Đảng-Nhà nước không dễ bị lừa và thấy rõ những điểm mạnh khi mở cửa nền kinh tế khổng lồ trong nước ra phần còn lại của thế giới. Bắc Kinh biết rõ việc quay lùi [trở lại các chế độ kinh tế trước đây] là điều bất khả. Tuy nhiên, Đảng cũng biết rõ rằng nền kinh tế càng mở cửa thì rủi ro càng lớn đối với toàn bộ hệ thống trong nước. Đảng hiểu rằng càng cải cách nhiều hơn đồng nghĩa với việc càng mất đi nhiều công cụ kiểm soát. Và cùng với sự biến mất dần các công cụ đó, cũng đồng nghĩa với việc Đảng mất đi khả năng kiểm soát toàn bộ và toàn diện xã hội và nền kinh tế Trung Quốc.

Trong chiều hướng trên, thì những nhận xét của Guo rất có ý nghĩa: Đảng-Nhà nước không chắc về tính toàn vẹn cấu trúc của hệ thống tài chính Trung Quốc. Tuy nhiên, Đảng-Nhà nước phải tiếp tục theo đuổi các chương trình cải cách và mở cửa khu vực tài chính và nền kinh tế trong nước. Thế nhưng trên con đường gian nan này, Đảng-Nhà nước cũng thoáng thấy những vấn đề tiềm ẩn không thể ngừa trước hoặc giải quyết được ngay. Vì thế, một mặt, Đảng-Nhà nước kêu gọi giới kinh doanh nói riêng và người dân nói chung cần kiên nhẫn với tốc độ cải cách. Mặt khác, cảnh báo mọi người: sẽ không có gì ngạc nhiên nếu tình thế bất trắc đột ngột xuất hiện.

Giới thiệu tác giả

Alex Payette

Alex Payette (Phd) là đồng sáng lập và CEO của Tập đoàn Cercius, một công ty tư vấn về tình báo chiến lược và địa chính trị. Ông là cựu nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ của Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Nhân văn Canada (SSHRC). Ông có bằng tiến sĩ chính trị học so sánh thuộc Đại học Ottawa (2015). Các nghiên cứu của ông tập trung vào các chiến lược xây dựng sự vững chắc của Nhà nước-Đảng Trung Quốc. Cụ thể hơn, những công trình mới nhất của ông tập trung vào sự tiến hóa của các quá trình thể chế, cũng như sự tuyển chọn và đào tạo giới tinh hoa ở Trung Quốc thời đương đại. Các công trình này đã được đăng trên các tạp chí Journal Canadien de Science Politique [Khoa học Chính trị Canada] (2013), International Journal of Chinese Studies [Nghiên cứu Quốc tế về Trung Quốc] (2015/2016), Journal of Contemporary Eastern Asia [Đông Á thời Đương đại] (2016), East Asia: An International Quarterly [Đông Á: Báo cáo quốc tế hàng quý] (2017), Issues and Studies [Các vấn đề và Nghiên cứu] (2011) cũng như Monde Chinois/Nouvelle Asie [Thế giới Trung Quốc/Châu Á mới] (2013/2015). Ông cũng đã đăng một bản chú thích nghiên cứu về “ai là những ứng cử viên tiềm năng” cho Bộ Chính trị Trung Quốc vào năm 2017, bài dành cho IRIS [Viện Quan hệ quốc tế và chiến lược] – mục Asia Focus #3.

Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch

Nguồn: La Chine peut-elle vraiment se passer du dollar?, Asialyst, ngày 17/04/2021.




Chú thích:

[1] Ngay cả các lời “chỉ trích” đó còn khá nhẹ và không kêu gọi từ bỏ đồng đô la Mỹ.

[2] Theo hướng tập trung hóa nhà nước lớn hơn, quay trở lại hệ tư tưởng và chính sách kinh tế chỉ huy đậm nét hơn.

[3] Hãy nhớ rằng những quan ngại của Guo chỉ là những quan ngại. Nhưng Guo đã tự định vị một cách hiệu quả so với đồng đô la.

[4] Người ta thường quên rằng các công ty nước ngoài có trụ sở ở Hồng Kông hiện chọn cách chuyển nhân viên họ đến Thượng Hải, nơi mà nhiều công ty trong số họ nay đã thành lập trụ sở mới. Tất nhiên, đây là một đòn giáng mạnh vào mục tiêu trở nên độc lập của Hồng Kông và chứng minh hòn đảo này đã mất đi ảnh hưởng như thế nào trong lòng Đảng-Nhà nước kể từ khi phe của Giang Trạch Dân đã ra đi.

Print Friendly and PDF