GIỚI THIỆU sách
KHI CON CHIP LÊN NGÔI
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC NÀO CHO VIỆT NAM?
Tác giả Nguyễn Trung Dân
Nguyễn Xuân Xanh trình bày

Đặc biệt hơn, tình cờ vào năm
2007, tác giả được biết đến câu chuyện về Morris Chang, người có công hàng đầu
trong việc xây dựng nền công nghiệp chip bán dẫn của Đài Loan, qua lời kể và
giới thiệu của một vị giáo sư già người Đài Loan tại một hội nghị khoa học.
Cũng chính vì say mê câu chuyện về Morris Chang đã khiến tác giả bỏ nhiều công
sức và thời gian tìm hiểu sự nghiệp cũng như công ty TSMC của ông và về ngành
công nghiệp chip bán dẫn. Và đó cũng là nguyên nhân thôi thúc tác giả viết loạt
bài chip bán dẫn, làm cơ sở cho cuốn sách, giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quát
hơn về lĩnh vực này. Qua phần viết riêng về Morris Chang và TSMC, tác giả mong
muốn gửi tới các bạn trẻ cũng như các nhà hoạch định chính sách KH&CN ở
trong nước một tấm gương đáng học hỏi, nhằm tận dụng những khả năng đặc biệt
của lớp trẻ cũng như nắm bắt cơ hội lịch sử về chip bán dẫn để đưa Việt Nam
tiến lên trở thành một cường quốc về KH&CN và kinh tế.
Nguyễn Trung Dân
![]() |
Tác giả Nguyễn Trung Dân |
Anh chị và các bạn thân mến,
Tôi cảm thấy rất vinh dự được phát biểu đôi lời trong buổi giới
thiệu quyển sách Khi con chip lên ngôi của
tác giả Nguyễn Trung Dân. Tôi quen anh cách đây 2 năm, lần đầu tiên trong một
quán cà phê khu Nhà thờ Đức Bà, do một nhà báo nữ có nhã ý giới thiệu. Ngay từ
đầu, anh Dân kể những mẩu chuyện lịch sử khoa học anh chứng kiến hay biết được
trên hành trình của anh. Tôi ý thức ngay, đây là một nhà vật lý có
ý thức lịch sử rõ nét. Những người Việt như thế này rất ít.
Lịch sử là không gian văn hóa khoa học của anh làm cho mỗi ý tưởng có ý nghĩa
sống động trong đó. Người phương Tây làm khoa học đều có ý thức lịch sử rất rõ,
và họ biết tọa độ công việc của mình trong không gian lịch sử đó, và ý nghĩa
của nó.
Khi chia tay, anh Dân bảo, anh sẽ có một số bài về con chip bán
dẫn. Tôi tò mò liền xin anh cho tôi đọc.
Khoảng vài tháng sau khi anh về lại New York, quả nhiên anh Dân
báo tôi biết loạt bài con chip được đăng trên báo Người đô thị gồm 12
bài. Quả là một kho kiến thức lịch sử mởi mẻ chưa được biết. Tôi xin anh được
đăng trên mạng rosetta của tôi sau đó.
Đó có lẽ là khởi điểm của quyển sách hôm nay đang ra mắt với độc
giả Việt Nam mà anh sắp giới thiệu tại thính phòng này.
Lần đầu tiên khi cầm quyển lên sách đọc, tôi có viết, tôi có cảm
tưởng mình đang nghe bản nhạc Die Kleine Nachtmusik, tạm
dịch “Tiểu dạ khúc”, của Mozart, thấy rất vui, sung sướng, đầy ắp cảm hứng và
thôi thúc. Nhưng khi đọc nhiều hơn, sâu hơn, tôi đâm ra lo lắng. Lý do đơn
giản: tôi không biết rồi đây Việt Nam có chen chân được vào Câu lạc bộ các đàn
anh thế giới hay không. Thông minh của mỗi người thì không thiếu. Nhưng cái khó
là sự vận hành của tập thể và cơ chế. Sản xuất con chip, như quyển sách cho
thấy, còn khó hơn sản xuất bom nguyên tử! Ôi chao! Nó đòi hỏi rất nhiều điều
kiện nghiêm ngặt cho Việt Nam, và nhiều điều kiện không thuộc về Việt Nam.
Thứ nhất,
việc chế tạo chip là vô cùng khó khăn ở các kích thước nhỏ hơn
kích thước vi rút Covid-19. Nó cần những thiết bị là sự
kết họp của cả một network quốc tế về công nghệ, mỗi quốc gia làm chủ một công
nghệ đặc biệt: Hà Lan, Mỹ, Nhật, Đức, và các công nghệ đều cực kỳ khó. Trung
Quốc tuy có thể chế tạo được hai trái bom nguyên tử và một vệ tinh trong thời
kỳ Mao, nhưng sức mạnh của chính sách “toàn dân” như được họ sử dụng là không
thích hợp với sản xuất con chip bán dẫn. Ông Liu Yadong, cựu tổng biên tập báo Science
and Technology Daily cho rằng: “Chính sách huy động ‘toàn dân’ và
phương pháp ‘top-down’ (mệnh lệnh từ trên xuống dưới) có thể giúp Trung Quốc
giành được huy chương vàng Olympic và chế tạo bom nguyên tử nhưng nó không phù
hợp cho việc phát triển chế tạo chip bán dẫn.” Tức không phải duy ý
chí là được. (Chương 13)
Đây là điều kiện không thuộc về quốc gia, cho dù quốc gia giàu
có. Chỉ các quốc gia gần gũi về mặt địa chính trị với các cường quốc
phương Tây mới may ra mới có cơ hội tiếp cận loại công nghệ cao cấp này.
Thứ hai,
một đặc tính khác là các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, có các
chuyên gia tài năng hàng đầu từng tốt nghiệp và lăn lộn trong các công ty chip
bán dẫn ở Mỹ, thậm chí có bằng sáng chế và có vị trí cao như Morris Chang của
Đài Loan ở Texas Instruments, người đã phát triển TSMC thành gã khổng lồ to
không thể tưởng. Hay Kim Choong-Ki của Hàn Quốc, từng tốt nghiệp Tiến sĩ ở ĐH
Columbia, trở thành chuyên gia về transistor và làm việc ở Fairchild Camera and
Instrument, được gọi là “bố già” của ngành công nghiệp chip của Hàn Quốc, đào
tạo cả trăm học trò tại Viện tiên tiến KAIST.
Đài Loan và Hàn quốc có chính sách rất tốt và kiên quyết thu hút các kiều dân họ trở về xây dựng khoa học công nghệ. Họ rất thành công. Trung Quốc cũng thế. Họ đã làm được một cách xuất sắc. Thực tế họ có cả những thiên hà tài năng và làm việc cật lực, luôn luôn đổ mồ hôi, vắt óc, luôn luôn đổi mới sáng tạo. Kim Choong-Ki nói: “Sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc phụ thuộc vào công nghệ đảo ngược và theo dõi [bản đồ của] các nước tiên tiến…. Bây giờ chúng ta phải thay đổi chính sách giáo dục và dạy học sinh cách vẽ bản đồ.” Và ông cũng nói: “Nếu bạn lặp lại ý tưởng của người khác, bạn sẽ không bao giờ vượt qua họ, mà chỉ đi theo đuôi họ thôi.” Có lẽ đó cũng là tính cách chung của người Hàn Quốc.
![]() |
Sách Khi con chip lên ngôi. Cơ hội và Thách thức nào cho Việt Nam? 330 trang, Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2025. |
Cuốn sách giúp người đọc có nhiều thông tin vô cùng
bổ ích:
1. Về sự hình thành transistor và con
chip trong những năm 1940-70.
2. Các lãnh vực mà chip và transistor
có ảnh hưởng lớn: thiết bị dân sự và quốc phòng, các công nghệ mới.
3. Cuộc chiến đấu địa chính trị giữa Trung
Quốc và phương Tây. Sự đầu tư lan tỏa của các công ty chip trên thế giới để mở
rộng chuỗi cung cấp. CHIPS and Science Act năm 2022 của Hoa Kỳ
nhằm kéo một phần đầu tư quan trọng của các công ty lớn như Samsung, TSMC về Mỹ
trong nỗ lực kềm chế Trung Quốc.
4. Sự đa dạng hóa chuỗi cung ứng, và
sự muốn giảm bớt lệ thuộc vào Trung Quốc tạo cơ hội cho các quốc gia ngoài Trung
Quốc, như Ấn độ, ASEAN.
5. Việt Nam là quốc gia được TT Joe
Biden ưu ái đặc biệt. Một làn sóng các công ty công nghệ cao đến nghiên cứu.
Tuy nhiên, điều kiện cơ sở hạ tầng tri thức và vốn nhân lực của Việt Nam còn
rất hạn chế, đặt cho nhà nước những thách thức lớn trong một cuộc chạy đua với
thời gian để thu hút các công ty big tech. Nhưng xin đừng tự rằng nghĩ mình là
thanh nam châm duy nhất. Quanh ta còn có những thanh nam châm khác.
6. Câu hỏi cho tất cả mọi người. Lấy
một quốc gia X nào đó, và giải thiết, X có đủ các điều kiện tài chánh, nguồn
nhân lực công nghệ cho sản xuất chip, vân vân. Tuy thế, câu hỏi vẫn là làm sao
X có thể sản xuất chip? Trung Quốc có đủ những điều kiện trên, nhưng không được
chia sẻ know-how của phương Tây. Đài Loan và Hàn Quốc có hai mô hình khác nhau.
Đài Loan phát triển theo cách “từng bước” (gradualist) một cách hữu cơ, trong
khi Hàn Quốc đi theo con đường “xông tới” (thrust). X phải làm gì?
7. Hai chương có tầm ảnh hưởng lớn
đến tương lai nhân loại: Máy tính quang tử (photonics computer) và Máy tính
lượng tử (quantum computer), với những khả năng vô tận của con người (Chương
11). Đó là những lãnh vực đang ở biên giới của nghiên cứu mà anh Nguyễn Trung
Dân cũng có tham gia. Cả hai đều có bàn tay của Einstein. Ngày 9/12, Google
thông báo đã tạo ra được con chip lượng tử thế hệ mới có tên Willow có khả năng
giải quyết một vấn đề tính toán trong năm phút mà các siêu máy tính cổ điển
hiện nay sẽ mất 10 triệu tỷ tỷ, tức 1025, năm. Chúng ta không tưởng
tượng nổi. Cuộc chạy đua trong lãnh vực quantum computing sẽ rất khốc liệt đồng
thời mở ra những chân trời không thể hình dung được, với nguy cơ cũng như với
tiềm năng phục vụ con người chưa từng thấy.
Con người tạo ra con chip khoa học, rồi con chip
chi phối lại con người. Như nhà triết học Ernst Cassirer thế kỷ trước
từng nói: [Khoa học] được coi là đỉnh cao và hoàn thiện của mọi
hoạt động của con người, chương cuối cùng trong lịch sử nhân loại và là chủ đề
quan trọng nhất của triết lý con người.” Cuộc tương tác giữa hai bên, khoa
học và con người, vẫn còn tiếp tục chưa biết hồi kết, với những hệ quả chưa
lường được. Thực tế, thông qua con chip, văn minh con người đang trên đường của
một sự biến đổi. Con người giờ đây không thể sống mà không có con chip,
for better or worse. Đối với các homo sapiens, tri thức luôn luôn
là sự cám dỗ to lớn nhất, như anh chàng Faust trong vở kịch cùng tên của
Goethe, nhưng đồng thời phải đối diện với những nguy cơ phải trả giá của
Mephisto, và thực tế con người đã phải trả giá rất đắt, nhưng không vì thế mà
sự cám dỗ tri thức bị dập tắt, điều đó như một phần của lập trình của tạo hóa
trong con người.
2025 còn là năm kỷ niệm 100 khám phá cơ học lượng
tử (1925-2025) của Heisenberg, Schrödinger và Dirac mang tính bước ngoặc mà nếu
không có nó, thuyết lượng tử giai đoạn đầu của Planck, Einstein và Bohr có lẽ
chưa thể trưởng thành, và thế giới chúng ta hôm nay sẽ khác đi.
Xem thêm: Einstein và Heisenberg – Những người đặt nền tảng cho nền
Vật lý hiện đại
Về sự thành công của gã khổng
lồ TSMC, tác giả viết về tầm nhìn của giới lãnh đạo Đài Loan như bài học cho
các quốc gia khác:
“Điều cuối cùng mà chúng ta có thể cảm nhận được là sự thành
công của TSMC có vai trò rất lớn của
chính phủ Đài Loan lúc bấy giờ. Có thể nói đó là một chính phủ có tầm nhìn xa
hiếm có, biết chọn mặt gửi vàng và giúp đỡ hết sức hiệu quả cho các doanh
nghiệp tư nhân. Các quan chức chính phủ Đài Loan giờ đây chắc vô cùng tự hào
rằng chỉ với số tiền 110 triệu USD vào
năm 1987 của chính phủ đầu tư thành lập công ty TSMC (tương đương khoảng 250
triệu USD năm 2021), giờ đây TSMC không chỉ đem lại giá
trị kinh tế khổng lồ cho đảo quốc, đóng vai trò chính biến Đài Loan thành cường
quốc số một về công nghệ bán dẫn – một mặt hàng chiến lược quan trọng nhất nhì
trong chuỗi cung ứng và sản xuất toàn cầu. TSMC không chỉ là niềm tự hào của
mọi người dân Đài Loan mà còn góp phần một cách đắc lực cho việc bảo vệ nền an
ninh cho ốc đảo bé nhỏ này. Hiện tượng này quả thực chỉ có một không hai, không
khác gì một câu chuyện cổ tích.” (Chương 16). GDP đầu người của Đài Loan năm
1987 là $5,325, chỉ hơn Việt Nam hiện nay một tí thôi.
Có ai muốn có một đầu tư sinh lợi khủng khiếp như thế hay không?
Chắc chắn ai cũng muốn. Nhưng khâu thực hiện mới là công trình vĩ đại của quốc
gia, giống như những các công trình nhà thờ Gothic vĩ đại của châu Âu thế kỷ 13
mà người ta hay đưa ra để so sánh. Ở đó mới bộc lộ các chỗ mạnh chỗ yếu của
chính sách, tổ chức, quản trị, và của ý chí, thông minh và óc sáng tạo của quốc
gia.
Ngày nay, như tác giả viết, ảnh hưởng của Đài Loan với hơn 60%
chip bán dẫn toàn cầu có lẽ không thua kém gì ảnh hưởng của cả khối OPEC gồm có
12 quốc gia thành viên hiện nay đang sản xuất khoảng 40% lượng dầu thô của thế
giới và chiếm khoảng 60% xăng dầu thương mại toàn cầu. Vì vậy xét về mặt địa
chính trị thì tiếng nói của một Đài Loan nhỏ bé chiếm hơn 60% chip toàn cầu có
lẽ có ảnh hưởng không kém, thậm chí còn lớn hơn của cả khối OPEC. (Chương 17)
Nếu vì lý do gì mà sự sản xuất chip bán dẫn thế giới bị ách tắc,
vì chiến tranh chẳng hạn, thế giới có nguy cơ rơi vào hỗn loạn và sụp đỗ.
Tôi xin kết thúc, anh
chị và các bạn thân mến,
Khi con chip lên
ngôi tôi cho là quyển sách hay nhất,
truyền cảm hứng mạnh mẽ nhất, khai sáng nhất, và bổ ích nhất cho mọi người quan
tâm đến tiền đồ đất nước, quan tâm đến các tình hình phát triển của các công
nghệ cao cấp đang phát vũ bão trên toàn thế giới, đến những nỗ lực của nhà nước
mong muốn Việt Nam trở thành một phần của chuỗi cung ứng chip bán dẫn của thế
giới. Con chip bán dẫn đã trở thành định mệnh của các quốc gia, và của chúng
ta.
Đây là một quyển sách rất khó viết, phải là tác phẩm của một nhà
vật lý lý thuyết và từng lăn lộn trong thực hành nhiều năm ở hải ngoại tại các
công ty công nghệ cao, có mối quan tâm lớn về lịch sử và thường xuyên theo dõi
diễn biến địa chính trị trên thế giới, và tâm huyết thấy có trách nhiệm thông
tin cho giới khoa học, lãnh đạo, công chúng trong nước. Đáp ứng những tiêu
chuẩn đó, tác giả Nguyễn Trung Dân đã thành công xuất sắc. Chúng ta hết sức cảm
ơn anh Dân đã bỏ nhiều thời gian và công sức quý báu để nghiên cứu và thực hiện
nó.
Tôi cũng rất cảm ơn anh Dân đã cho tôi đọc bản thảo, và viết mấy
lời dẫn nhập cho quyển sách.
Nguyễn Xuân Xanh, 10/1/2025
Buổi
giới thiệu sách Khi con chip lên ngôi sáng
thứ Bảy, ngày 11/1/2025 tại Nam Thi House (một quán cà phê được trang trí bằng
gỗ ấm cúng và có rất nhiều sách tạo cho nó thêm “linh hồn”) đường Nam Kỳ Khởi
Nghĩa, thu hút đông đảo khách đến dự, những người đều quan tâm đến con chip bán
dẫn và tương lai của Việt Nam. TS Nguyễn Trung Dân đã trả lời tất cả mọi câu
hỏi và có cuộc trao đổi rất thú vị với khán giả với một competence cao. Sự quan
tâm đến quyển sách là sinh động. Mọi người đều mong muốn quyển sách được lan
tỏa rộng rãi trong cộng đồng. Đặc biệt một khán giả làm về chip
trong đại học muốn mua bản quyền sử dụng từ Công ty Nhã
Nam và tác giả Nguyễn Trung Dân để có thế đưa một số nội dung của quyển sách
vào giáo trình giảng dạy. Đây
là một trong những tin rất vui.
Dưới đây là một số tấm ảnh được Nhã Nam cung cấp về quang cảnh
buổi giới thiệu sách:
XIN XEM MỘT SỐ
TRANG MẠNG ĐÃ GIỚI THIỆU KHI CON CHIP LÊN NGÔI:
‘Khi
con chip lên ngôi’ – vị trí Việt Nam trong cuộc đua chip bán dẫn: https://vnexpress.net/khi-con-chip-len-ngoi-vi-tri-viet-nam-trong-cuoc-dua-chip-ban-dan-4844040.html
‘Cần tận
dụng cơ hội lịch sử để trở thành mắt xích của chuỗi sản xuất chip toàn cầu’: https://nguoidothi.net.vn/can-tan-dung-co-hoi-lich-su-de-tro-thanh-mat-xich-cua-chuoi-san-xuat-chip-toan-cau-46766.html
Việt Nam nằm ở
đâu trên bản đồ bán dẫn? https://znews.vn/viet-nam-nam-o-dau-tren-ban-do-ban-dan-post1524316.html
Khi Con Chip
Lên Ngôi – Cơ Hội Và Thách Thức Nào Cho Việt Nam? PDF https://www.cdgdangiang.edu.vn/sach/khi-con-chip-len-ngoi-co-hoi-va-thach-thuc-nao-cho-viet-nam-pdf
Ra mắt cuốn
sách “Khi con chip lên ngôi”, trò chuyện cùng tác giả Nguyễn Trung Dân https://www.anninhthudo.vn/ra-mat-cuon-sach-khi-con-chip-len-ngoi-tro-chuyen-cung-tac-gia-nguyen-trung-dan-post600957.antd
⁂
Một lá thư từ Đài Loan nhân đọc bài giới
thiệu sách Khi con chip lên ngôi
CẬP NHẬT 11/1/2025. Tôi vừa nhận được
bức thư dưới đây của GS triết học Trần Văn Đoàn của ĐH Quốc gia Đài Loan. Giáo
sư Đoàn là người công chúng Việt Nam không xa lạ. Các chi tiết của bức thư tự
nói. NXX
Anh Xanh mến,
Mỗi lần đọc bài viết của anh, biết thêm về nhiều điều hay. Là người
ngoại đạo về điện tử nên sách của Gs Dân chắc không dễ tiêu hóa đối với tôi.
Rất hứng thú khi biết trong tập sách có một chương nói về Tiến sỹ Trương
Trung Mưu (Morris Chang), người sáng lập TSCM và ông Lý Quốc Đỉnh (Li
Kwok-Ting). TS Lý là người xây dựng Silicon Valley Taiwan (ở Tân Trúc, thành
phố tôi đương cư ngụ).
Tôi từng có dịp gặp và nói chuyện với hai vị này. Họ có điểm chung với
anh, họ đều thích toán học trước khi sang vật lý (Ông Lý tại ĐH
Cambridge), và Kỹ sư điện tử (ông Trương tại Harvard/MIT/Stanford). Ông Lý được
National Taiwan University (NTU) và ĐH Stanford lập ghế Giảng tòa (The Li
KT Chair Professorship). Tôi gặp ông trong bữa cơm Giám đốc (hiệu
trưởng) NTU thiết đãi ông dịp ông đến thuyết trình cho tân sinh viên ngày
Khai giảng (lúc này tôi là cố vấn cho NTU). Ông Trương thì tôi gặp trong bữa
cơm tối Giám đốc NTU mời vợ chồng ông và ông Terry Gou (Quách Đài Danh),
chủ tịch của Foxconn, tại tư thất của Giám đốc. Hai ông Quách và
Trương tặng cho NTU gần 600 triệu US dollars năm đó. Nói chung, họ
rất lịch lãm, đều thích văn học và biết đôi chút về triết học. Giám
đốc Lý biết hai ông Trương và Quách có dự định đầu tư ở Việt Nam, nên
đặc biệt mời tôi đến dự bữa cơm “gia đình” buổi tối, do chính bà phu nhân
Giám đốc nấu. Trong bữa tối, Ông Trương có hỏi tôi về việc đầu tư xây
nhà máy của họ tại Việt Nam (thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng), và ông Quách
của Foxconn thì mời tôi đi cùng ông đến gặp Thủ tướng Dũng (2007) để quyết
định xây nhà máy tại Bắc Ninh, Bắc Giang… (Sau 1 năm, ông Trương hoãn lại dự
định đầu tư vì Foxconn gặp ít nhiều khó khăn như điện lực không đủ (cúp
điện) lại không cho họ xây nhà máy điện tự cung cấp, hành chính rắc rối, địa
phương). Ôi, nếu TSMC sớm đầu tư thì có lẽ Việt Nam hôm nay cũng không cần phải
nâng NVIDIA như nâng trứng, hứng như hứng hoa nữa. Ông Hoàng của
NVIDIA mỗi năm đều về lại Đài như đi chợ. Mấy tháng trước có đến nói chuyện với
sinh viên NTU.
Vì có những nhà lãnh đạo như tổng thống Tưởng Kinh Quốc, Lý Đăng
Huy, thủ tướng Tôn Vận Tuyền, nên có không ít người như Lý Quốc Đỉnh,
Trương Trung Mưu tại Đài.
Một cảm nghĩ của những người U80 gửi anh
Đoàn
Hết.
Xin cảm ơn anh Đoàn về những thông tin quý báu.
Mời đọc thêm các bài liên quan đến kinh nghiệm Tân Trúc:
— Hsinchu
(Tân Trúc) và Bài học cất cánh của Đài Loan
—Tân Trúc (Hsinchu) Silicon và Cuộc công nghiệp hóa Đài
Loan (tóm tắt)
⁂
Dưới đây là bài Dẫn nhập của tôi
đã viết cho quyển sách Khi con chip lên ngôi:
Dẫn nhập

“Chúng tôi muốn có một nền công nghiệp bán dẫn ở Đài Loan. Hãy nói
cho tôi biết, bạn cần bao nhiêu tiền.”
Lý Quốc Đỉnh[i] (Kwoh-Ting Li) nói với Morris Chang
Bạn đọc thân mến,
Xét về lịch sử phát triển con người ở những giai
đoạn chuyển biến mạnh mẽ chưa từng có, người ta có thể chia nó ra làm ba giai
đoạn quan trọng: Thời đại Thương mại, Thời đại Công nghiệp, và Thời đại Thông
tin. Chúng ta biết rằng, nhà kinh tế học Adam Smith
đã từng chia các giai đoạn phát triển nhân loại thành bốn: săn bắn hái lượm,
chăn nuôi du mục, nông nghiệp và thương mại, và con người ngày càng giảm bớt sự
lệ thuộc chính trị, đồng thời phương thức sản xuất ngày càng tiến bộ và của cải
càng được mở rộng cho người dân.
Thời đại Thương mại, diễn ra ở thế kỷ 18, lúc Smith
sống, sau khi con người đã bước qua các giai đoạn săn bắn, hái lượm, chăn nuôi,
nông nghiệp để tiến lên xã hội thương mại và sản xuất nhỏ thủ công. Thời đại
Công nghiệp diễn ra vào những thập niên cuối thế kỷ 18 và kéo dài đến thế kỷ
20, bắt đầu bằng máy hơi nước, sản xuất lớn, tổ chức theo factory, tàu chạy
bằng hơi nước, xe lửa, đến ô tô, bao gồm khám phá mới trong khoa học từ nghiên
cứu khoa học. Thời đại Thông tin diễn ra vào những thập niên cuối của thế kỷ 20
tại một số nơi trên nước Mỹ, đặc biệt ở Thung lũng Silicon, là trung tâm, vùng
Boston và thêm một vài vùng khác nữa.
Thông tin phát triển đặc biệt mãnh mẽ ở Hoa Kỳ.
Người Mỹ dường như “yêu chuộng thông tin” từ thời lập quốc. Tri thức là một
dạng thông tin. Với một dân số mỏng trên mảnh đất mênh mông, họ phải kết nối
nhau. Họ bắt đầu bằng máy in nhập vào vùng New England, và các sản phẩm in chủ
yếu được sử dụng bởi các quan chức chính phủ, lãnh đạo nhà thờ và thương gia,
nghĩa là bởi giới thượng lưu của các vùng định cư. Số lượng báo tăng lên và
ngày càng đưa tin tức và bình luận thương mại.
Khi Nội chiến bùng nổ vào năm
1861, nền tảng của cơ sở hạ tầng giao thông và liên lạc mới đã được hình thành
– tàu hỏa chạy bằng động cơ hơi nước. Cuối cùng, sau cuộc suy thoái kinh tế
nghiêm trọng và kéo dài những năm 1870, mạng lưới đường ray dài hơn 200.000 dặm
của quốc gia đã được hoàn thành vào những năm 1880, và những năm 1890. Vào đầu
thế kỷ này, 2/3 số tuyến đường sắt ở Mỹ được vận hành bởi 7 tập đoàn đường sắt
như vậy.
Điện báo (electric telegraph) là một chiều kích
khác để chuyển thông tin. Nó cung cấp các luồng thông tin với tốc độ, khối
lượng và tính đều đặn chưa từng thấy. Trong những năm đầu tiên, điện báo đã đi
trước đường sắt, đến New Orleans ngay từ năm 1848 và San Francisco vào năm
1861. Điều quan trọng hơn là sự tồn tại của nó đã ngay lập tức làm thay đổi
việc phổ biến tin tức, thông tin thương mại, tài chính và chính trị. Ngay từ
năm 1848, một số tờ báo ở New York đã thành lập New York Associated
Press để hợp tác sử dụng các dịch vụ điện báo mới. Đến năm 1859, tiền
thân của hãng thông tấn AP ngày nay “đã thiết lập một hệ thống thực sự mang
tính quốc gia về dòng chảy thông tin đại chúng”.
Việc phát minh ra điện thoại của Alexander Graham
Bell (bằng sáng chế được trao vào tháng 5 năm 1876) đã bổ sung thêm một khía
cạnh khác cho cơ sở hạ tầng thông tin đang phát triển – việc truyền giọng nói
qua khoảng cách xa. Sau đó, vốn cần thiết để xây dựng hệ thống điện thoại quốc
gia được huy động. Và trong những năm 1880 việc xây dựng mạng điện thoại đầu
tiên của quốc gia bắt đầu, và được thực hiện nhanh chóng. Ngay năm 1881, Công
ty Điện thoại Bell đã cung cấp dịch vụ ở hầu hết thành phố trên toàn quốc có
dân số hơn 10.000 người.
Tiền đề của Thời đại Thông tin: Sự phát triển của
chip và máy tính
Cuộc Cách mạng Máy tính xảy ra lúc 9 giờ sáng, ngày
21 tháng 4 năm 1952, tại Phòng thí nghiệm Bell ở Murray Hill, New Jersey, lúc
đại diện của hơn 30 công ty đã tụ tập để tham dự một cuộc hội thảo kéo dài sáu
ngày về bóng bán dẫn (transistor), tìm hiểu về những gì sẽ trở thành trái tim
của máy tính. Đó là một hội nghị ‘big bang’ để tung bóng bán dẫn đi xa và qui
mô. Các công ty đã trả một khoản phí 25.000 USD cho đại diện của họ tham dự và
cho việc có thể đăng ký quyền sản xuất bóng bán dẫn. Sự phát triển ban đầu của
máy tính với mục đích chủ yếu là quân sự diễn ra đồng thời ở Anh và Mỹ, với
những dự án nhỏ hơn đang được tiến hành ở Đức và Ba Lan, nhưng bóng bán dẫn rõ
ràng là một phát minh của Mỹ được tạo ra tại Bell Labs vào
những năm 1940. Chính quyết định của American Telephone & Telegraph
(AT&T) cấp giấy phép công nghệ này cho các hãng khác đã giúp bóng bán dẫn
có thể hoạt động từ một công ty đến nhiều công ty, và do đó được sử dụng theo
những cách không thể đoán trước ngay từ đầu. Một trong những ứng dụng không
lường trước đó sẽ là trái tim của cỗ máy mới mà chúng ta gọi là máy tính.
AT&T nhận ra rằng bằng cách chia sẻ quyền sản xuất bóng bán dẫn, AT&T
sẽ thực hiện cam kết truyền thống với tư cách là một tiện ích được quản lý trên
toàn quốc trong việc phổ biến kiến thức hữu ích cho công chúng đồng thời tạo ra doanh thu từ các thỏa thuận cấp phép. Đạo luật này cũng sẽ ngăn chặn những lo ngại thực sự về những gì Cơ quan chống độc quyền của Hoa Kỳ.
![]() |
Một bản sao cách điệu của bóng bán dẫn đầu tiên (Wikipedia) |
Hội nghị đã rất thành công
trong việc kích thích sự quan tâm đến quyền sản xuất bóng bán dẫn. Trước cuối
năm đó, gần ba chục công ty đã đăng ký và đến năm 1960 đã có vài trăm công ty.
Đại đa số là các công ty Mỹ, với một lượng nhỏ đại diện là các công ty Tây Âu.
Đến cuối những năm 1950, các công ty trên khắp thế giới cũng đã được cấp phép.
Trong danh sách giấy phép ban đầu từ năm 1952, chúng ta có thể thấy các công ty
đã trở thành nhà sản xuất máy tính hoặc linh kiện trong thời gian rất ngắn:
Minneapolis Honeywell, Raytheon Manufacturing, Texas Instruments (TI), General
Electric (GE), International Business Machines (IBM), NCR, và hai công ty quan
trọng của Châu Âu: Philips, và với Melchip, Siemens & Halske.
Sự xuất
hiện của transistor và chip
Bóng bán dẫn (transistor) ra đời như mang theo một sứ mệnh, và
nhiều transistors kết lại thành những cái gọi là con chip, hay mạch tích hợp
(integrated circuit, IC). Cả hai trở thành “não” của computer. Người ta không
thể hiểu hết tác dụng của máy tính lên xã hội và kinh doanh Mỹ mà không hiểu
vai trò transistor và chip của máy tính.
Nghiên cứu trong các tổ hợp lớn trở thành đặc trưng của hoạt
động khoa học, công nghệ Mỹ, người ta gọi là “big science”. Vào thời điểm Bell
Labs đang nghiên cứu vật lý chất rắn và phát minh ra bóng bán dẫn, công ty có
5.700 nhân viên, trong đó có 2.000 người là những nhà khoa học và kỹ sư giỏi
nhất quốc gia. Họ đến từ các trường đại học đã âm thầm đầu tư vào nghiên
cứu và chuyển giao kiến thức khoa học và kỹ thuật trong tám thập kỷ trước. Những năm cuối của thập niên 1970, Bell Labs có 17.000
nhân viên hoạt động đem lại 700 bằng sáng chế mỗi năm. Nhưng Bell Labs không phải là trường hợp cá biệt. Các tập đoàn khác như GE, IBM, NCR và RCA cũng có các phòng thí nghiệm phát triển đáng kể, trong khi chính phủ Hoa Kỳ có một tập hợp các phòng thí nghiệm quốc gia. Không có nơi nào giống như khu phức hợp cơ sở vật chất rộng lớn này từng tồn tại ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.
Từ thế kỷ 19, người Mỹ đã áp dụng điện và đầu óc mày mò sáng tạo
để phát minh và phát triển các công nghệ thông tin then chốt dùng trên thế
giới: điện tính, điện thoại,
máy quay đĩa, và hình ảnh chuyển động, và những thứ khác. Đến thế kỷ 20, họ
tiếp tục phát minh nhiều phương tiện mới đưa vào Xa lộ Thông tin, đặc biệt nhất
là các cỗ máy tính lớn, và sau đó phiên bản nhỏ của nó: máy tính cá nhân, loại
mà ngày nay được sử dụng phổ biến khắp nơi thế giới.
Hai tấm ảnh đặc trưng Thời đại Thông tin.
Vào ngày 3 tháng 1 năm 1983,
Tạp chí TIME đã vinh danh máy tính cá nhân là
“Máy của năm” cho năm 1982. “Máy tính đã đến rồi.” Năm 1982, hơn một triệu máy
tính cá nhân đã được bán. Đây là lần đầu tiên kể từ khi Giải thưởng “Nhân vật
của năm” ra đời vào năm 1927, một vật thể không phải con người mới nhận được
giải thưởng này. Bài báo nói về những gã khổng lồ về máy tính cá nhân thời bấy
giờ: Apple, Commodore, IBM, Sinclair Research, v.v.. Máy tính cá nhân vẫn là
vật thể nhân tạo duy nhất nhận được giải thưởng! (Courtesy of TIME).
“Trên internet, không ai biết bạn là một con chó.” Tranh biếm họa của Peter Steiner. Bức tranh trở thành nổi tiếng, và làm cho chủ nó rất nổi tiếng. Tính đến năm 2013, đây là bức tranh biếm họa được tái bản nhiều nhất của The New Yorker và tác giả Steiner thu được khoảng từ 200.000 đến 250.000 đô la Mỹ từ việc tái bản bức tranh này. Vào ngày 6 tháng 10 năm 2023, bản gốc đã được bán đấu giá và lập kỷ lục về mức giá cao nhất từng được trả cho một truyện tranh với giá 175.000 USD tại buổi bán tác phẩm nghệ thuật minh họa của Heritage Auctions. Bức tranh đã tạo cảm hứng cho vở kịch Nobody Knows I’m a Dog (không ai biết tôi là một con chó) bởi Alan David Perkins. Vở kịch xoay quanh 6 cá nhân không thể giao tiếp hiệu quả với người khác trong đời thực nhưng tìm thấy được khả năng để thể hiện bản thân trên Internet, do được bảo vệ bởi sự vô danh. (Wiki) Bức biếm họa đặc trưng, con người không được đánh giá bằng chủng tộc, giới tính, tuổi tác hay cách xuất hiện, mà duy nhất bằng lời của họ.
Thời đại Công nghiệp dựa trên năng lượng hóa thạch, hoàn toàn
thay thế cơ sở hạ tầng của Thời đại Thương mại dựa trên gió, nước, và sức mạnh
cơ bắp con người. Thời đại Thông tin dựa trên điện và sức mạnh của nó. Nó không
hề thay thế Thời đại Công nghiệp, mà thực tế xây dựng trên đó, tăng cường sức
mạnh của công nghiệp nhiều hơn. PC, Internet làm tăng tốc thương mại đáng kể.
Năm 1998, cố vấn cao cấp Ira Magaziner của Tổng thống Clinton về phát triển
chính sách đã báo cáo rằng “trong ba năm qua, hơn một phần ba mức tăng trưởng
thực sự của kinh tế là do tăng trưởng công nghiệp công nghệ thông tin, và điều
đó chủ yếu được thúc đẩy bởi việc xây dựng Internet.”
Để các quốc gia cạnh tranh kinh tế trong thế kỷ 21, hỗ
trợ cho nghiên cứu cơ bản về khoa học và kỹ thuật cần phải là một phần không
thể thiếu trong quá trình hoạch định chính sách. Điều này đã xuất hiện từ khi
có đại học nghiên cứu Đức của Humboldt thế kỷ 19, và Đức là quốc gia đã đi tiên
phong. Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan và nhiều quốc gia khác
đang đầu tư hàng tỷ USD để xây dựng các doanh nghiệp nghiên cứu của mình, và
trong nhiều trường hợp đang bắt đầu vượt phương Tây.
Nói tóm lại, Hoa Kỳ là quốc gia đã phát triển thông tin và các
công nghệ của nó tiên tiến nhanh chóng như vũ bão. Vì sao? Vì đó là dân tộc có
các sinh hoạt chính trị dân chủ sôi động mạnh mẽ, và cũng yêu thích thương mại,
khoa học, công nghệ nhất. Nếu ở một quốc gia thông tin bị dấu diếm thì phát
triển công nghệ truyền tin để làm gì, và thương mại làm sao phát triển? Niềm
tin của Thomas Jefferson rằng sức khỏe của nền dân chủ sẽ phụ thuộc vào xã hội
các công dân có hiểu biết, vốn đã là nền tảng cho văn hóa chính trị của người
Mỹ kể từ ngày thành lập quốc. Tri thức là Sức mạnh cung cấp những hiểu biết mới
mẻ về nền tảng của chủ nghĩa đa nguyên Hoa Kỳ. Giáo dục cho các thế hệ đang lên
là rất quan trọng đối với tương lai của quốc gia. Những người lập quốc tin rằng
sự đảm bảo của Tu chính án thứ nhất về quyền tự do báo
chí, tôn giáo, ngôn luận và hội họp sẽ thúc đẩy một xã hội công dân có hiểu
biết. Các định chế cơ bản của nền dân chủ và xã hội Mỹ, bao gồm các đảng chính
trị, giáo dục công, truyền thông và thậm chí cả hệ thống bưu chính, đã nhận
được sự ủng hộ rộng rãi của chính phủ vì chúng được xác định là quan trọng đối
với việc tạo ra và duy trì một cộng đồng có hiểu biết. Được hỗ trợ bởi công
nghệ tiên tiến và nền kinh tế đang phát triển, người Mỹ đã tạo ra một thị
trường thông tin đa nguyên trong đó tất cả các hình thức truyền thông công cộng
– báo in, diễn thuyết và các cuộc họp công cộng – cạnh tranh để thu hút sự chú
ý của những con người tự do. Vào thời Nội chiến, sự thống nhất về văn hóa của
Mỹ không còn là điều bàn cãi nữa.
***
Tôi rất vui mừng được giới thiệu với anh chị và bạn đọc những
câu chuyện vô cùng thú vị liên quan đến sự phát minh và tầm ảnh hưởng của những
“báu vật” nhỏ xíu của tác giả Nguyễn Trung Dân muốn nói với người Việt Nam. Anh
có niềm đam mê hiểu biết lịch sử mãnh liệt. Tiền thân của quyển sách là mười
hai bài viết nghiên cứu của anh về con chip, được báo điện tử đăng năm 2022,
rồi sau đó trên mạng rosetta. Gặp anh và cà phê tại đường Hàn Thuyên tháng
giêng 2023, Sài Gòn, tôi biết mình gặp được một nhà khoa học lý thuyết và ứng
dụng có ý thức mạnh mẽ về lịch sử, và muốn truyền đạt tri thức cho người Việt
Nam.
Loạt bài nghiên cứu về con chip của tác giả dưới mắt tôi, là
loạt bài khai
sáng về đề tài rất thời sự hiện nay. Phải có nhiều tri thức và
tâm huyết mới viết được loạt bài liên quan với nhau ấy. Tác giả muốn truyền cảm
hứng và tri thức cho công chúng về những câu chuyện khoa học thiết thân, không
chỉ vì khoa học mà còn vì vận mệnh của các quốc gia.
Con người cần có những lúc để cho những tia sáng khai minh lọt
vào trái tim, khối óc của mình, để tự hỏi, chúng ta đang đứng đâu trên bàn cờ
thế giới, từ đâu đến, và sẽ đi về đâu, để cuối cùng mình có thể rút ra kết luận
mà quyết định từ bỏ vị trí bị sức ì quản lý bấy lâu nay, để đứng dậy và đứng
thẳng mà đi. Tôi tin tưởng, quyển sách Khi con chip lên ngôi của
TS Nguyễn Trung Dân sẽ mang lại những tia sáng như thế.
Phương Tây đã ý thức nguy cơ địa vị của mình bị Trung Quốc đe
dọa và ra tay hành động để bảo vệ các giá trị và sự tồn vong của họ. Thế giới
đã từng có cuộc chạy đua với bom nguyên tử, hay chạy đua moonshot. Giờ đến lượt
cuộc chạy đua với con chip, những vật mắt thường không thể thấy nhưng các tập
hợp đông như các thiên hà của nó lại có tác động quan trọng lên toàn thế giới.
Trong chừng mực nhất định, con chip còn quan trọng hơn cả bom nguyên tử, vì nó
điều khiển hằng hà các vũ khí tối tân nhất, cải thiện sức mạnh và tính hiệu quả
chúng, cũng như đem lại ưu thế kinh tế, và tạo ra sự phồn vinh cho các quốc
gia. Số lượng transistor được sản xuất ra một năm trên thế giới thực tế đã vượt
số lượng hạt lúa được làm ra.
Tác phẩm
điêu khắc mô tả chiếc transistor silicon đầu tiên mang ký hiệu 2N696 được đặt
tại vị trí ban đầu của Shockley Semiconductor Laboratory tại số 391 San Antonio
Road, Mountain View, California, mặc dù nó được Fairchild của “bọn tám kẻ phản
bội” chế tạo năm 1958. Lô đầu tiên gồm 100 chiếc đã được bán cho IBM với giá
150 USD mỗi chiếc (tương đương 1.409 USD vào năm 2021) để chế tạo máy tính cho
máy bay ném bom B-70. Nhiều bóng bán dẫn cũng đã được bán cho Autonetics để chế
tạo hệ thống dẫn đường cho tên lửa đạn đạo Minuteman. Ngành quốc phòng Mỹ là
“bà mụ” đầu tiên giúp công nghiệp chip phát triển mạnh mẽ, mặc dù sau đó nó
được thay thế bằng ngành hàng tiêu thụ dân dụng.
Hình ảnh những phụ nữ lập trình
máy tính điện tử đầu tiên EINAC của Mỹ năm 1945. Nó có 18.000 cái công tắc.
(Getty images) Những chiếc mày tính và điện thoại thông minh ngày nay chứa hàng
tỷ transistor rất nhỏ, là những công tắc điện nhỏ hoạt động đóng mở để thể hiện
thông tin. Không có các con chip nhỏ, không thể thực hiện được các chuyến bay
của phi thuyền Apollo lên mặt trăng.
Quyển sách của tác giả Nguyễn Trung Dân cho thấy, những năm
1950-60 transistor cũng đã tình cờ được phát triển song song với Hoa Kỳ ngay cả
tại một số quốc gia phương Tây, cụ thể Pháp và Đức, nhưng vì một số lý do đặc
thù mà nó đã bị quên lãng ở lục địa. Pháp lúc đó bị quá ám ảnh bởi bom nguyên
tử, cái mà họ ráo riết muốn có để nâng cao vị thế chính trị của mình, trong khi
Đức thì bị chiến tranh tàn phá kiệt quệ đang lo tập trung vào tái thiết. Nhưng
Nhật Bản bại trận chỉ có thể vươn lên từ kinh tế. Nhờ có những doanh nhân nhạy
bén, Nhật Bản có một định mệnh khác. Akio Morita, một trong những nhà sáng lập
Sony, đã nhìn thấy tiềm năng to lớn của chiếc transistor cho kinh tế, nên ông
và đồng nghiệp Masaru Ibuka, với sự hỗ trợ của chính phủ Nhật Bản, lúc đó có
chủ trương ủng hộ high-tech, đã bỏ một số tiền lớn để mua patent để sử dụng cho
hàng dân dụng. Đến Mỹ năm 1953, Morita bị sốc trước nguồn lực vô tận của quốc
gia này, cái gì cũng có, và là thị trường màu mỡ cho hàng điện tử gia dụng.
Nước Nhật phải nhắm tới. Morita hiểu những gì Tổng thống Charles de Gaulle
không nhìn thấy lúc bấy giờ. Điện tử là tương lai của kinh tế thế giới, và
transistor, sau đó tích hợp vào chip, sẽ tạo ra không kể xiết ứng dụng mới.
Ngành điện tử gia dụng sẽ có một cuộc cách mạng cùng với cuộc cách mạng của
transistor và chip. Ông và đồng nghiệp vì thế đã quyết định mua lại patent của
chiếc transistor, giữa 1953-54, và cho ra chiếc máy radio transistor đầu tiên
chưa đầy một năm sau khi chiếc máy cùng loại của Texas Instrument ra mắt vào
Giáng sinh 1954.
![]() |
Chiếc máy radio transistor TR-55 đầu tiên của Sony. |
Xin mở ngoặc. Mua patent là một
việc, nhưng thực hiện được ý tưởng để ra được sản phẩm thương mại là một việc
khác – không dễ chút nào. Nó đòi hỏi bên người mua phải có cái gọi là năng
lực công nghiệp để hiểu và thực hiện. Sony đã phải gửi trưởng
phòng kỹ thuật Kazuo Iwama qua Mỹ thu thập kiến thức, xem tận mắt dây chuyền
sản xuất của Texas Instruments và trao đổi qua lại bằng thư từ và hình vẽ với
các kỹ sư của ông ở Tokyo. Các tư liệu này được tập hợp lại thành “Báo cáo
Iwama”. Gần đây báo cáo Iwama được học giả Takushi Otani phân tích tỉ mỉ, và
công bố tại tạp chí Historia Scientiarum Vol.
26‒2 (2017) dưới tiêu đề Technology Transfer as a Dialogical
Process Crossing the Pacific Ocean: Sonyʼs
Transistor Technology Transfer. Đây là một case study rất hữu
ích cho những ai mua patent và muốn thực hiện sản phẩm, đặc biệt cho Việt Nam.
Vài năm sau đó, Texas Instruments quyết định mở cả nhà máy chế
tạo chip đầu tiên ngoài Hoa Kỳ đặt tại Nhật Bản! Morita cũng chính là người
giúp giải quyết những thủ tục hành chánh cũng nhiêu khê lúc đó. Thủ tướng Nhật
Hayato Ikeda lúc bấy giờ ủng hộ hết mình công nghệ cao. Chính ông đã tặng chiếc
máy radio transistor của Sony cho de Gaulle. Thế là Nhật Bản có tên trong danh
sách các quốc gia ngoài Mỹ bước vào công nghệ cao của ngành điện tử, đẩy kinh
tế Nhật Bản vào sự phát triển thần kỳ. Nhật Bản nhảy lên kịp chiếc tàu cách
mạng điện tử tốc hành đang lăn bánh. Nhật Bản phát triển con chip từ đó, và
trong những năm 1980, nó đã trở thành cơn tsunami đe dọa ngay cả ngành công
nghiệp chip của chính Hoa Kỳ.
Chúng ta nhớ lại, Nikita Khrushchev đã từng đến thăm nơi sản
xuất lớn của IBM tại San Jose năm 1959, và đầu 1960 de Gaulle cũng đến vùng
đó, trước khi nó chính thức được gọi là Thung lũng Silicon
(1971). Khrushchev làm ra vẻ “ta đây”, tuyên bố với báo chí rằng cái gây
ấn tượng nhất đối với ông chỉ là căng-tin của IBM, và ông bắt chước thật, nghĩa
là ông ta không học điều gì quan trọng khác, kể cả của IBM! Điều đó có thể hiểu
được. Thứ nhất, chỉ mới 2 năm trước, họ rất tự hào đã phóng Sputnik lên quỹ
đạo. Thứ hai, Khrushchev đang có ý đồ lớn. Các chuyên gia và kỹ sư, trong đó có
những gián điệp kịp chạy về từ Mỹ trước khi bị bắt trong vụ gián điệp Rosenberg
nổi tiếng, muốn thuyết phục Khrushchev dành riêng một thành phố để phát triển
chuyên ngành điện tử và vi điện tử (microelectronics). Khrushchev được giải
thích và hiểu rằng “Vi điện tử là một bộ óc cơ học”, và “đó là tương lai của
chúng ta”. Ông muốn “Bắt kịp và qua mặt” nước Mỹ. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng
con chip SN-51 của Texas Instruments do một sinh viên tên Boris Malin mua được
từ Mỹ mang về, bộ trưởng công nghiệp điện tử Alexander Shokin ra lệnh cho các
kỹ sư ông ta: “Cóp nó”, và muốn biến Zelenograd, “thành phố Xanh” ở ngoại ô
Moscow, thành một Soviet Silicon.
![]() |
Khrushchev thăm IBM tại San Jose tháng 9 năm 1959 và được chủ tịch IBM Thomas J. Watson Jr. (trái) tiếp đón nồng nhiệt. Photo: courtesy of IBM |
Dĩ nhiên, cuối cùng họ đã không thành công. Thung
lũng silicon không hình thành bằng mệnh lệnh, hay bằng một miếng đất tốt mà
Zelenograd có thể hội đủ, ngoại trừ nó không có nhiều mặt trời ấm áp và biển
đẹp như vùng vịnh San Francisco. Điểm khác biệt căn bản ở đây là, trong khi Hoa
Kỳ có nền kinh tế tự do theo ý tưởng của Adam Smith, có hàng loạt công ty tham
gia vào sản xuất trong một chuỗi cung ứng, không ngừng cải tiến kỹ thuật, thiết
kế và cạnh tranh làm ra transistor mới, thì Nga áp dụng kinh tế chỉ huy cứng
nhắc, nên rất nghèo nàn, không có những cụm, cluster, các công ty, hay một hệ
sinh thái hỗ trợ. Khrushchev chỉ có thể đe dọa và tạm thời gây khó khăn cho Hoa
Kỳ và đồng minh bằng những coup bao vây Berlin, hay cuộc khủng hoảng hỏa tiễn
Cuba, nhưng họ không biết rằng ngược lại con chip và máy tính điện tử là mối đe
dọa dài hạn cho họ, mà điều đó dính dáng tới hình thái kinh tế. Đầu năm 1988,
sau khi những chiếc máy tính cá nhân của Steve Jobs hay IBM đã vững vàng trên
thị trường, Ronald Reagan có thể đứng trước 600 sinh viên khoa học máy tính tại
Đại học quốc gia Moscow tán dương những vinh quang của ngành vi mạch và máy
tính cá nhân do Mỹ sản xuất như là “biểu hiện tốt nhất về những gì nền dân chủ
kiểu Mỹ có thể làm được”.
Với kiến thức của một nhà vật lý lý thuyết lượng tử
cũng như là người đã và đang tiến hành các nghiên cứu ứng dụng tại một trong
những công ty high-tech có vị trí đặc biệt trong lịch sử công nghệ của nước Mỹ,
Nguyễn Trung Dân đã hiểu rất sâu lý thuyết cũng như thực hành ở cấp độ cao, và
anh trình bày lịch sử con chip từ lúc nó hình thành tại Thung lũng Silicon, sự
thâm nhập của nó vào đời sống dân sự cũng như vào lãnh vực quốc phòng; sự thành
công của Thung lũng Silicon cũng như sự thất bại của một số quốc gia châu Âu,
sự nhạy bén tiếp thu nắm lấy thời cơ phát triển tiếp con chip của các quốc gia
Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Đặc biệt tác giả trình bày câu
chuyện thành công có tính thần thoại của ốc đảo nhỏ bé Đài Loan trong việc
thống lãnh sản xuất chip ở quy mô thế giới. Anh trình bày sự hình thành cuộc
cạnh tranh địa chính trị do chip tạo ra. Chip là “vũ khí” không có tiếng nổ
nhưng tác động của nó bao trùm lên xã hội, và có sức mạnh gấp triệu lần vũ khí.
Tác giả cũng trình bày những viễn tượng của cuộc chạy đua giữa Trung Quốc và
Hoa Kỳ, của sự phát triển máy tính quang tử và lượng tử là công cụ cực kỳ cách
mạng như những triển vọng mới. Anh cũng nói về cơ hội lịch sử cho Việt Nam.
Người thường có thể hiểu nhanh chóng những ý tưởng trong quyển sách, trong khi
nhà khoa học lại càng đánh giá chúng cao hơn.
Khi con chip lên ngôi là quyển sách trình bày được bản đồ phát
triển công nghệ cao của thế giới, giúp cho những nhà hoạch định chính sách Việt
Nam một tọa độ cụ thể, những công cụ cần thiết để phát triển, để định hình
chính sách của mình trong một cuộc chơi mới mà mình phải làm chủ nhiều hơn.
Chúng ta cần biết sự thật, để từ đó vươn lên, cho dù sự thật đó có gây sự sợ
hãi đi nữa. Tháng 5, 2017, hàng trăm triệu dân Trung Quốc chứng kiến người hùng
cờ vây của họ, Ke Jie (Kha Khiết) đã bị AlphaGo của DeepMind Technologies,
Google, đánh bại trong ba ván liên tiếp như thế nào. Đó là giờ phút “thức tỉnh”
đau đớn và sợ hãi của họ. Sau đó họ đưa ra chương trình đầu tư mạnh mẽ vào lãnh
vực Trí tuệ nhân tạo,
và họ đã nhanh chóng thành công lớn. Nhà vật lý lượng tử Niels Bohr cũng từng
nói, Ai không thấy thất kinh với thuyết lượng tử, người đó chưa hiểu nó. Chúng
ta phải hiểu, và chỉ có tri thức mới là nguồn sức mạnh của chúng ta.
Tôi xin nồng nhiệt giới thiệu với quý đọc giả.
Nguyễn Xuân Xanh
Xem thêm: Cuộc hóa rồng và Giới tinh hoa kỹ trị và Cần một thay đổi thông minh
A.I.: BÌNH MINH CỦA MỘT CUỘC CÁCH MẠNG KH&CN MỚI
Nguyễn
Trung Dân, New York
Nguyễn Xuân Xanh trình bày

Nó (machine learning/AI) có thể so
sánh được với cuộc Cách mạng Công nghiệp. Thay vì vượt qua con người về sức
mạnh thể chất, nó sẽ vượt qua con người về khả năng trí tuệ. Chúng ta chưa hề
có kinh nghiệm với những thứ thông minh hơn chúng ta sẽ như thế nào.
—Geoffrey
Hinton
Có hàng tỷ tế bào thần kinh
(nơ-rôn) trong não của chúng ta, nhưng tế bào thần kinh là gì? Chỉ là tế bào.
Bộ não có kiến thức khi các kết nối được tạo ra giữa các nơ-rôn. Tất cả những gì chúng ta biết, tất cả những gì
chúng ta là, đều đến từ cách các tế bào thần kinh của chúng ta được kết nối.
—Tim Berners-Lee
![]() |
John Hopfield (1933-), 91 tuổi. Ảnh do Mary Waltham, vợ của Hopfield chụp trong phòng ăn của căn nhà nông thôn của họ tại làng Selborne, Hampshire, Anh. |
Lời nói đầu
Chúng ta đã nghe về Geoffrey Hinton, bố già của trí tuệ nhận tạo.
Bây giờ chúng ta sẽ nghe về John Hopfield, nhà vật lý tài ba đã đi vào lãnh vực
sinh học và sáng tạo ra “mạng Hopfield”, nền tảng cho sự phát triển hệ nơ-rôn
và AI mạnh mẻ như ngày nay. Hai ông được trao Giải Nobel Vật lý 2024 “cho những
khám phá và phát minh nền tảng tạo điều kiện cho máy học hoạt động với các mạng
nơ-ron nhân tạo.” Những câu chuyện kể trong bài viết của Nguyễn Trung Dân là
rất thú vị, cho chúng ta một cái nhìn tổng quát của sự phát triển từ vật lý đến
sinh học, mạng nơ-rôn, rồi máy Boltzmann với những ứng dụng bức phá. Nghe giống
những chuyện thần thoại.
Điểm “kỳ dị” (singularity) mà nhà khoa học máy tính
và tương lai học Ray Kurzweil chờ đợi từ lâu, khi máy trở nên thông minh hơn
con người, có lẽ đã gần đến, chỉ còn “vài phút nữa” thôi . Ông uống mỗi ngày
trên 80 viên thuốc để sống đến giây phút đó.
Một trong nhiều tiếng nói critical về sự xuất hiện
“trí thông minh siêu phàm” và hệ quả của nó:
Trong vòng ba mươi năm, chúng ta sẽ có phương tiện
công nghệ để tạo ra trí thông minh siêu phàm. Ngay sau đó, kỷ nguyên của con
người sẽ bị kết thúc. Liệu sự tiến bộ như vậy có thể tránh được không? Nếu
không thể tránh được, liệu các sự kiện có thể được hướng dẫn để chúng ta có thể
sống sót không?
— Vernor Vinge, tác giả, giáo sư, nhà khoa học máy
tính
Stephen Hawking cũng bày tỏ quan ngại: “nguy cơ là
có thật rằng chúng có thể phát triển trí thông minh và chiếm lấy thế giới”.
Isaac Newton có viết trong tác phẩm Opticks rằng
Trong khi đó, Nhiệm vụ chính của Triết học tự nhiên
là lập luận từ Hiện tượng mà không giả vờ đưa ra Giả thuyết, và suy ra Nguyên
cớ từ Kết quả, cho đến khi chúng ta đến được Nguyên cớ đầu tiên, chắc
chắn không phải là cơ học.
— Opticks,
Book Three. Part I, Query 28
Cùm từ cuối rất đáng để ý: không phải là cơ
học. Phải chăng loài người đang trên đường đi đến Nguyên cớ đầu
tiên, nó không còn là cơ học nữa như những câu chuyện máy học, mạng nơ-rôn
nhân tạo cho thấy?
Bộ óc con người vĩ đại, “rộng hơn trời, và sâu hơn
đại dương” như một nữ thi sĩ Mỹ thế kỷ XIX có nhiều ảnh hưởng diễn tả trong bài
thơ sau đây:
The Brain — is wider than the Sky —
For — put them side by side —
The one the other will contain
With ease — and You — beside —
The Brain is deeper than the sea —
For — hold them — Blue to Blue —
The one the other will absorb —
As Sponges — Buckets — do —
The Brain is just the weight of God —
For — Heft them — Pound for Pound —
And they will differ — if they do —
As Syllable from Sound —
—Emily Dickinson
Con người đang trên đường tạo ra bộ óc thứ hai, một
‘bản sao” của nó, có thể mạnh hơn nó, với những hệ quả chưa lường hết được. A
second creation? Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất của thế kỷ XVIII cũng
từng đã tạo ra những hệ quả toàn cầu ghê gớm. Một trong những hệ quả đó là nó
kéo toàn nhân loại vào văn minh, như Karl Marx nói. Nền văn minh sắp tới là nền
văn minh gì, nếu con người không bị hủy diệt bởi chính sản phẩm của mình?
Bài viết này của Nguyễn Trung Dân đã được đăng lần
đầu tiên trên báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần ngày 22/10/2024, với tiêu
đề “Từ bộ não người đến trí tuệ nhân tạo”. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn tác
giả đã cho phép đăng lại trên mạng rosetta.
Nguyễn Xuân Xanh
Một buổi sáng thu Sài gòn nắng ấm đem
lại nhiều niềm vui tự nhiên
***
Hai nhà khoa học John J.
Hopfield và Geoffrey E. Hinton đã
được trao Giải Nobel Vật lý năm 2024 vì những khám phá giúp cho máy tính có thể
học được theo cách mà bộ não con người thực hiện (thuật ngữ khoa học gọi là
‘machine learning’) tạo nên nền tảng phát triển của lĩnh vực trí tuệ nhân tạo
(artificial intelligence – AI).
Ủy ban Nobel cho biết những đột phá về lĩnh
vực ‘machine learning’ (hiểu đơn giản nhất theo sát nghĩa khoa học là ‘huấn
luyện máy tính học’) của Tiến sĩ Hopfield và Tiến sĩ Hinton “đã cho thấy một
cách hoàn toàn mới trong việc sử dụng máy tính để hỗ trợ và hướng dẫn chúng ta
giải quyết nhiều thách thức mà xã hội đang phải đối mặt”.
Mạng nơ-ron (neural networks)
nhân tạo – hệ thống máy tính có thể học các kỹ năng bằng cách phân tích dữ liệu
và được đặt tên theo mạng nơ-ron trong não người – là một phần của các dịch vụ
internet ngày nay, bao gồm các công cụ tìm kiếm như Google, các kỹ thuật trợ
giúp điều khiển bằng tiếng người như Siri của Apple và các chatbot như ChatGPT
của OpenAI. Những kỹ thuật này bắt nguồn từ toán học và khoa học máy tính, không
phải vật lý. Nhưng các nghiên cứu vật lý của Tiến sĩ Hopfield và
Tiến sĩ Hinton vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 đã giúp tác động
đến sự phát triển của mạng nơ-ron nhân tạo sau này đã trở thành một bộ phận cấu
thành của hệ thống Internet hiện đại.
Thông cáo báo chí hôm
ngày 08/20/2024 của Ủy ban Nobel nhấn mạnh hai nhà khoa học đoạt giải Nobel vật
lý năm nay đã sử dụng các công cụ vật lý để phát triển các phương pháp làm nền
tảng cho lĩnh vực vô cùng quan trọng là machine learning.
John J. Hopfield hiện là
giáo sư danh dự tại Princeton nổi tiếng với những khám phá quan trọng về khoa
học máy tính, sinh học và vật lý. Ông năm nay 91 tuổi và là người lớn tuổi thứ
ba đoạt giải Nobel Vật lý.
TỪ VẬT LÝ ĐẾN MANG NƠ-RÔN
Ông bắt đầu sự nghiệp
của mình tại Bell Labs vào năm 1958 với tư cách là một nhà vật lý nghiên cứu
chất rắn. Đây chính là thời kỳ vật lý chất rắn phát triển mạnh mẽ với các phát
minh ra bóng bán dẫn (transistor) năm 1947 và pin mặt trời bằng chất bán dẫn
silicon1954 ngay tại Bell Labs. Mặc dù vậy, Hopfield vẫn cảm thấy gò bó trong
nghiên cứu, ông chuyển đến Đại học California, Berkeley vào năm 1961 rồi sau đó
đến khoa vật lý của Đại học Princeton vào năm 1964. Năm 1980 ông chuyển đến làm
giáo sư hóa học và sinh học ở Viện Công nghệ California, và trở lại Princeton
năm 1997với tư cách là giáo sư ở khoa Sinh học Phân tử.
Vào những năm 1980, ông
tập trung nghiên cứu các quá trình não lưu giữ và tái tạo các mẫu thông tin.
Ông giải thích trong một cuộc phỏng vấn rằng công việc của ông xuất phát từ sự
tò mò về mối liên hệ giữa vật lý và sinh học. Ông nói:
- Hệ sinh
học cũng chỉ là một hệ vật lý nhưng là một hệ thống rất phức tạp.
Trước đó, Hopfield đã sử
dụng kiến thức vật lý của mình để khám phá các vấn đề lý thuyết trong sinh học
phân tử. Khi được mời đến một số cuộc họp về khoa học thần kinh, ông đã được
tiếp cận với các nghiên cứu về cấu trúc của bộ não. Ông bị cuốn hút bởi những
gì mình học được và bắt đầu suy nghĩ về hoạt động của mạng nơ-ron thần kinh đơn
giản.
![]() |
Mạng nơ-ron con người |
Năm 1982, Hopfield đã phát
triển một mô hình mạng bao gồm các nút có vai trò như các nơ-ron của bộ não để
mô tả cách bộ não nhớ lại các ký ức khi được cung cấp một phần thông tin (còn
gọi là mạng Hopfield). Đó là một quá trình tương tự như việc mà bộ não của bạn
sử dụng để ghi nhớ một từ phát ra trên đầu lưỡi. Khả năng này được gọi là ‘nhớ
liên kết (associate memory)’. Các nghiên cứu của Hopfield cho thấy rằng hành vi
của mạng nơ-ron có thể được giải thích giống như một hệ vật lý gồm các nam châm
nhỏ xíu cỡ nguyên tử (thuật ngữ khoa học là các spin) tác động và ảnh hưởng lẫn
nhau. Hơn thế nữa, mạng các spin này có thể được đào tạo và huấn luyện bằng
cách tìm giá trị các kết nối giữa các nút tương ứng với mức năng lượng cực tiểu
khi một hình ảnh được nạp vào và lưu giữ.
Huấn luyện máy tính học
các kỹ năng (machine learning) khác với công nghệ phần mềm truyền thống dùng để
điều khiển máy tính hoạt động theo cách: nhập dữ liệu, xử lý theo các công thức
được mô tả rõ ràng và cho ra kết quả tính toán, giống như khi ai đó chuẩn bị
các nguyên liệu và chế biến theo công thức để làm ra một chiếc bánh. Trong khi
đó, với machine learning máy tính học từ các ví dụ được đào tạo rồi từ đó cho
phép nó giải quyết các vấn đề mơ hồ và phức tạp vốn không thể hướng dẫn từng
bước hay bằng công thức rõ ràng.
Hãy tưởng tượng rằng bạn
đang cố nhớ một từ mà bạn hiếm khi sử dụng, chẳng hạn như từ chỉ cái vật để vặn
vào cái máy bị lỏng lẻo. Bạn tìm kiếm trong trí nhớ của mình. Nó giống như cái
đinh,… có lẽ là cái đinh,… nhưng nó không nhọn, lại có các rãnh để vặn? hay là
đinh vặn? Nghe không ổn. OK, cái đinh vít, thế thôi!
Quá trình tìm kiếm ra từ
phù hợp bằng liên kết với các từ tương tự để gợi ra sự nhớ liên kết mà John
Hopfield đã phát hiện ra vào năm 1982. Mạng Hopfield không chỉ lưu trữ các mẫu
thông tin (như hình ảnh) mà còn có phương pháp tái tạo lại dữ liệu ngay cả khi
thông tin có chứa nhiễu hoặc đã bị xóa một phần. Holfield không hề lường trước
được rằng công việc của ông về mạng nơ-ron sẽ hữu ích trong lĩnh vực ‘machine
learning’ sau này.
![]() |
Trên: Nơ-ron con người. Dưới: Nơ-rôn nhân tạo |
TỪ MẠNG NƠ-RÔN ĐẾN MÁY BOLTZMANN
Geoffrey E. Hinton, sinh
ra ngay ngoại ô London, sống và làm việc chủ yếu ở Hoa Kỳ và Canada kể từ cuối
những năm 1970. Ông là giáo sư khoa học máy tính tại Đại học Toronto. Khi
Hopfield công bố bài báo về ‘nhớ liên kết’, Geoffrey Hinton đang là giáo sư khoa
học máy tính tại Đại học Carnegie Mellon ở Pittsburgh, Hoa Kỳ. Nhưng sau đó đã
rời trường đại học này để đến đại học Toronto, Canada vì ông nói rằng ông không
muốn nhận tài trợ của Lầu Năm Góc. Vào thời điểm đó, hầu hết nghiên cứu AI. ở
Hoa Kỳ được tài trợ bởi Bộ Quốc phòng. “Tôi nhớ mình đã tham dự một hội nghị ở
Rochester (tiểu bang New York), có John Hopfield báo cáo và lần đầu tiên tôi
biết đến mạng nơ-ron thần kinh nhân tạo. Trước đó, ông cũng đã từng nghiên cứu
trí tuệ nhân tạo ở Anh và Scotland và tự hỏi liệu máy móc có thể học cách xử lý
các mẫu thông tin theo cách tương tự như con người hay không. Cùng với đồng
nghiệp của mình, Terence Sejnowski vốn là một nghiên cứu sinh làm luận án tiến
sỹ dưới sự hướng dẫn của Hopfiled, Hinton bắt đầu từ xây dựng một cái hệ thống
mở rộng hơn của mạng Hopfield có sử dụng các ý tưởng từ vật lý thống kê. Mạng
của Hinton đã sử dụng phương trình do nhà vật lý thống kê Ludwig Boltzmann tìm
ra từ thế kỷ 19, và hệ thống này có tên là máy Boltzmann và công bố năm 1985.
Một cỗ máy Boltzmann đã
được huấn luyện có thể nhận ra những đặc điểm quen thuộc trong thông tin mà nó
chưa từng thấy trước đây. Hãy tưởng tượng bạn gặp anh chị em của một người quen
và bạn có thể thấy ngay rằng họ chắc chắn có quan hệ họ hàng với nhau. Theo
cách tương tự, máy Boltzmann có thể nhận ra một ví dụ hoàn toàn mới nếu nó
thuộc một danh mục có trong tài liệu đào tạo và phân biệt nó với tài liệu khác.
Trong những năm 1990,
sau hàng chục năm với quá nhiều kỳ vọng và thất vọng về công nghệ AI, nhiều nhà
đầu tư và nghiên cứu không còn hứng thú với mạng nơ-ron thần kinh nhân tạo. Đó
cũng còn được gọi là thời kỳ ‘AI Winter (Mùa đông AI)’ để nói lên sự nguội lạnh
với công nghệ AI. Nhưng Hinton là một trong những người tiếp tục làm việc trong
lĩnh vực này và đã giúp cho sự bùng nổ mới của công nghệ AI. Năm 2006, ông và
các đồng nghiệp đã phát triển một phương pháp huấn luyện một loạt máy Boltzmann
theo từng lớp, lớp này chồng lên lớp kia. Quá trình đào tạo này đã giúp tối ưu
hóa việc đào tạo máy tính nhận dạng trong ảnh.
BỨT PHÁ
Vào năm 2012, Hinton và hai sinh viên của ông ở
Toronto, Ilya Sutskever và Alex Krishevsky, đã xây dựng một mạng nơ-ron nhân
tạo có thể phân tích hàng nghìn bức ảnh và tự dạy nó cách xác định các vật thể
thông thường, chẳng hạn như hoa, chó và ô tô. Google đã chi 44 triệu USD để mua
lại một công ty của họ. Và hệ thống đó đã dẫn đến tạo ra các công nghệ AI ngày
càng lớn mạnh, bao gồm các chatbot mới như ChatGPT và Google Board. Ông
Sutskever trở thành Khoa học gia trưởng tại OpenAI. Năm 2018, Hinton và hai cộng
tác viên lâu năm khác đã nhận được Giải thưởng Turing, thường được gọi là “Giải
Nobel về Khoa học Máy tính” cho các công trình nghiên cứu về mạng mạng nơ-ron
thần kinh nhân tạo và ông còn được mệnh danh là “cha đỡ đầu của AI.” Trong cuộc
phỏng vấn sau khi được nhận tin về giải Nobel Vật lý năm 2024, ông đã nói đùa
rằng “Nếu có giải thưởng Nobel về khoa học máy tính thì có lẽ các nghiên cứu
của chúng tôi phù hợp với giải thưởng đó hơn. Nhưng không có một giải như thế.”
Năm ngoái, ông đã gây chú ý trên khắp thế giới khi
rời bỏ công việc tại Google sau hơn 10 năm làm việc cho Google và cảnh báo rằng
công nghệ AI mà ông góp phần tạo ra một ngày nào đó có thể hủy diệt loài người.
Trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại trong buổi công bố giải Nobel ở Stockholm,
Hinton bày tỏ lo lắng về ‘machine learning’ và cho biết nó sẽ có ảnh hưởng đặc
biệt đến xã hội. Ông nói “nó có thể so sánh được với cuộc Cách mạng Công
nghiệp. Thay vì vượt qua con người về sức mạnh thể chất, nó sẽ vượt qua con
người về khả năng trí tuệ. Chúng ta chưa hề có kinh nghiệm với những thứ thông
minh hơn chúng ta sẽ như thế nào.” Trong khi Hinton bày tỏ mối quan ngại của
mình, ông cũng cho rằng công nghệ tiên tiến này sẽ mang lại dịch vụ chăm sóc
sức khỏe tốt hơn nhiều cũng như sẽ có những cải thiện lớn về năng suất.
Cũng trong một cuộc họp báo hôm thứ Ba ngày
08/10/2024, Tiến sĩ Hopfield đã so sánh những tiến bộ trong AI với các nghiên
cứu năng lượng nguyên tử dẫn đến cả những quả bom chết người và nguồn năng
lượng dồi dào.
Mặc dù máy tính không thể suy nghĩ nhưng giờ đây
máy móc có thể bắt chước các chức năng như nhớ và học các kỹ năng mới. Những
người đoạt giải vật lý năm nay đã giúp biến điều này thành hiện thực bằng sử
dụng các khái niệm và phương pháp cơ bản của vật lý để phát triển các công nghệ
sử dụng mạng nơ-ron nhân tạo để xử lý thông tin.
New York, 10/10/2024
Nguyễn Trung Dân
Xem thêm bài liên quan: Geoffrey Hinton: (I) Cha đỡ đầu của trí tuệ nhân tạo và
(II) Lời cảnh báo
Nguồn bài viết: Giới thiệu sách Khi con chip lên ngôi của Nguyễn Trung Dân, 11 Tháng Một, 2025, và AI: Bình minh của một cuộc cách mạng KH&CN mới (Nguyễn Trung Dân), 26 Tháng Mười, 2024, rosetta.vn.
[i] Ông Lý là một trong những nhà “siêu
kỹ trị” của Đài Loan đã giúp đất nước phát triển từ nông nghiệp tiến lên hóa
rồng bằng công nghệ cao.
