VÒNG ĐỜI (GIẢ THIẾT)
Life cycle hypothesis
➜ Giải Nobel: BECKER, 1992 – FRIEDMAN, 1976 – HICKS, 1972 – MODIGLIANI, 1985
Giả thiết vòng đời, được kí hiệu là LCH (life-cycle hypothesis), là
một mô hình liên thời gian về tiêu dùng và tiết kiệm của các hộ gia đình, của kinh tế học vi
mô tân cổ điển
(lựa chọn duy lí cá thể, thị trường cạnh tranh,
sở thích
ổn định...). Ý tưởng tiên khởi cho rằng những quyết định đầu tư là tương đối
tách biệt với những lựa chọn gia đình hay nghề nghiệp và, trong một chừng mực
ít hơn, tách biệt với những lựa chọn cung lao động và lựa chọn danh mục đầu tư
(tác nhân trước tiên chọn giá trị của di sản trước khi phân bổ di sản này giữa
những tài sản hợp thành di sản). Hơn nữa, theo truyền thống fisherian, người ta
chỉ quan tâm đến tổng khối lượng tiêu dùng ở mỗi thời kì (tổng giá trị thực
tế).
Lí thuyết này đã mang lại cho tác giả nó, Franco Modigliani giải Nobel 1985. Theo đúng tư tưởng của Fisher (1930), thông điệp trung tâm của lí thuyết này xem tiết kiệm như việc hoãn tiêu dùng và không chỉ phụ thuộc vào thu nhập hiện hành mà còn phụ thuộc vào mức nguồn lực dự kiến có được trong dài hạn – hay vào “thu nhập thường xuyên”. Chính xác hơn, di sản, ban đầu được nhìn như một quĩ đồng nhất, được đồng hoá với một dự trữ tiêu dùng bị hoãn lại trong suốt cuộc đời; do đó LCH xét những tác nhân ích kĩ nhưng lo xa, mà điểm cuối của chân trời ra quyết định trùng khớp với điểm cuối của cuộc đời. Chính đặc tính này được xem là phân biệt LCH với “lí thuyết anh em”, tức mô hình thu nhập thường xuyên của Friedman (1957), được kí hiệu là PIH (permanent income hypothesis): đối với tác giả này, chân trời là mềm dẻo hơn, về mặt lí thuyết là không được xác định và trong thực tiễn ngắn hơn nhiều – cho dù không loại trừ những động cơ chuyển giao.
![]() |
Roy F. Harrod (1900-1978) |
Đặc thù này, thậm chí tính nhập nhằng này, giải thích lộ trình đầy nghịch lí của LCH. Ra đời ba năm trước PIH, với bài viết của Modigliani và Brumberg (1954), giả thiết này trải qua một thời thơ ấu lặng lẽ, trước khi chiếm một vị trí thống trị, kể từ những năm 1970, trong nội bộ những lí thuyết về tiêu dùng. Quả thật là mục tiêu đầu của những nhà sáng lập giả thiết này chỉ là để cung cấp “một khuôn khổ phân tích chung cho việc nghiên cứu hàm tiêu dùng keynesian và việc khám phá những quan hệ ổn định đằng sau những sự kiện tản mạn quan sát được – một mục tiêu mà PIH đã thực hiện một cách đơn giản và hiệu quả hơn. Nhưng ngày nay, LCH là công cụ ưu tiên để phân tích tiêu dùng tổng gộp trong ngắn hạn hay mức tiết kiệm quốc gia lẫn những hình dạng tiêu dùng và tích luỹ cá thể, sự phân phối di sản hay tiến hoá của cơ cấu danh mục đầu tư trong suốt cuộc đời.
Angus Deaton (1945-) Christopher D. Carroll
Lịch sử
![]() |
Luigi Pasinetti (1930-) |
Sự phân đôi keynesian này sẽ có một sự kế thừa phong phú. Phân đôi này tạo
cảm hứng cho những mô hình hậu keynesian (Kaldor, Pasinetti) tổng hợp những
trào lưu trước đó bằng cách đối lập hai loại tác nhân: người tiêu dùng-lao
động, tác nhân thụ động thường bị thanh khoản ràng buộc, tiết kiệm ít và chủ
yếu dưới dạng tiền mặt để giao dịch hay để dự phòng (và sản phẩm lâu bền); nhà
tư bản-đầu tư tích luỹ vì những lí do khác nhau – vì quyền lực, lợi tức, uy tín hay để gia tài … –, mà phần lớn sản phẩm được truyền lại cho thế hệ sau.
Công lao của LCH là đưa vào một khuôn mặt thứ ba, người tiết kiệm của vòng đời
tích luỹ một cách có ý nghĩa nhưng chỉ cho riêng bản thân mình: nếu tuổi thọ là
chắc chắn (LCH chuẩn) thì người tiết kiệm sẽ không để lại gì cả sau khi chết đi;
trong thực tiễn, người này có thể để lại một di sản đáng kể tương ứng với tiêu
dùng của người đó nếu được thượng đế cho sống lâu hơn – trong trường hợp này người ta nói đến di sản tai nạn hay di sản dự phòng.
Dù sao đi nữa, có thể chỉ ra là những hướng mở rộng LCH biến giả thiết này
thành một lí thuyết về sự tích luỹ di sản an toàn và hưởng thụ của những giai
cấp trung lưu: lí thuyết này phân tích tốt sự kiện lịch sử là việc phổ biến
rộng việc sở hữu (kể từ 1920 và nhất là từ 1945), dưới dạng những sản phẩm lâu
bền, nhà ở, thanh khoản, cổ phần quần chúng hay quyền hưu trí (Masson, 1991).
Milton Friedman (1912-2006) James Duesenberry (1918-2009)
Nhưng LCH còn có một khác biệt thứ hai so với những lí thuyết khác về hàm tiêu dùng. Trong lúc Friedman (1957) vẫn còn thuộc về truyền thống thực nghiệm của thời đó, một truyền thống tập trung vào những đặc tính của những hàm cầu thì LCH lại dựa trực tiếp trên việc hình thức hoá tân cổ điển về việc tối đa hoá dưới ràng buộc một hàm lợi ích liên thời gian được chỉ định rõ ràng.
Hình thức hoá (mô hình chuẩn)
Dưới đây ta chọn một hình thức hoá với thời gian liên tục t, đơn giản hơn. Mô hình vòng đời chuẩn dựa trên bốn giả thiết: 1) những thị trường vốn hoàn hảo, cho phép tự do đầu tư hay đi vay theo cùng một lãi suất r (được giả định là không đổi); 2) sự tồn tại của những tương đương với sự chắc chắn (tính trung lập của rủi ro), đặc biệt là đối với tuổi thọ bằng với T; 3) những nguồn lực Y(t), thu nhập của lao động hay của những chuyển nhượng, ngoại sinh – những quyết định tiết kiệm được giả định là tách biệt với những lựa chọn cung lao động hay lựa chọn giáo dục của cá thể, cũng như tách biệt với những chuyển nhượng về vốn con người nhận được từ bố mẹ; 4) không có chuyển giao di sản nhận hay cho.
Trong khuôn khổ này, người tiêu dùng tối đa hoá một hàm lợi ích U chỉ phụ thuộc vào tổng khối lượng tiêu dùng, tức C(t) tại thời điểm t. Hơn nữa, những ràng buộc duy nhất người tiêu dùng phải đối mặt là những ràng buộc ngân sách tức thì, liên quan đến tiến hoá của tài sản thuần, A(t), mà đạo hàm đối với thời gian được kí hiệu là dA(t)/dt:
dA(t)/dt = rA(t) + Y(t) - C(t) = R(t) - C(t) (1)
biến thiên (thực tế) của di sản tại thời điểm t bằng với tiết kiệm, số kết của tổng thu nhập (R(t)) và tiêu dùng. (Tuy nhiên trong thực tiễn, quan hệ này đòi hỏi những định nghĩa rất chính xác về các biến, được tính theo số hạng thực tế: C bao gồm cả dịch vụ của những sản phẩm lâu bền, A là số tiền của C, Y là thu nhập sử dụng (sau khi trừ thuế và đóng góp xã hội); r bao gồm lợi tức và lãi chuyển nhượng của di sản sau khi trừ thuế và khấu hao vốn...).
Hơn nữa, những ràng buộc ngân sách tức thì này có thể được tóm gọn thành một ràng buộc duy nhất, ràng buộc ngân sách sống còn buộc không được tiêu dùng nhiều hơn những gì ta có được trên toàn bộ vòng đời, tức là số tiền ban đầu của những nguồn lực W(0):
với A(t) = 0 (2)
Ta ghi nhận là cũng ràng buộc này có thể được viết ở thời điểm s, tuỳ theo những nguồn lực chưa được tiêu dùng W(s), liên quan đến phần còn lại của vòng đời, từ s đến T, và gồm có tài sản thuần A(s), và việc làm tăng giá trị của vốn con người.
Irving Fisher (1867-1947) John M. Keynes (1883-1946)
Về mặt kĩ thuật, bốn đặc tính này tương ứng với một hàm lợi ích, U[C(0)..., C(t)..., C(T)], vì tự có những đặc tính tách thời gian (chính xác hơn, tách yếu và đệ qui mạnh). Nếu ta chỉ xét một tập con của những hàm này bằng cách áp đặt tính tách mạnh, tức tính cộng thời gian của những sở thích, thì ta có công thức sau:
với a(0) = 1, a(1) = 0, giảm theo t; (3)
ut(C) = u(C)= C1 - (1/s)/ [1 - (1/s)];
s > 0 (s = 1; u logarithmique). (4)
“Thị hiếu” của người tiêu dùng là không đổi và được biểu trưng bằng một hàm lợi ích tức thì, u, đồng co dãn, với là độ co dãn thay thế liên thời gian. Tham số tượng trưng cho hệ số hiện tại hoá (thời gian). Nói chung người ta thích sử dụng tỉ suất khấu hao của tương lai, d(t), tỉ suất này là, li lai dấu, đạo hàm lôga của hệ số hiện tại hoá; thường người ta chọn một tỉ suất không đổi và điều này tương ứng với một hiện tại hoá theo hàm mũ:
d(t) = - [da(t)/d(t)]/a(t) = 0.
tức là: a(t) = e-d(t) nếu d(t) = d; (5)
d càng cao thì người tiêu dùng càng “nôn nóng” (Fisher, 1930) và chân trời dự báo của tác nhân này càng ngắn (cho cùng một tuổi thọ T).
Như thế, hai tham số về sở thích, s và d, đủ để đặc trưng cho hành vi của người tiêu dùng. Giải chương tình tối đa hoá dưới ràng buộc (2) cho thấy là tỉ suất tăng trưởng tức thì của tiêu dùng, g(t), nghiệm đúng quan hệ:
g(t) =[dC(t)/d(t)]/C(t) = s(r - d); s > 0 (6)
Tỉ suất tăng trưởng của tiêu dùng phản ứng ngược chiều, với một độ nhạy cảm được đo bằng độ co dãn s, với những biến thiên của hai tỉ suất hiện tại hoá: một gia tăng của lãi suất r khuyến khích hoãn lại tiêu dùng hiện nay để hưởng những lợi tức cao hơn của tiết kiệm, trong lúc một độ nôn nóng d cao hơn thúc đẩy tiêu dùng nhiều hơn ngay tức thì.
Còn hàm cầu được viết là:
C(t) = kt(r, d, T, s) W(t)
kt tăng dần với d, giảm dần với T. (7)
Ngược lại tác động của lãi suất trên khuynh hướng tiêu dùng kt những nguồn lực sống còn là không rõ ràng, phụ thuộc vào giá trị của s: hiệu ứng thay thế này không được PIH xem xét. Thật ra hằng số kt tượng trưng cho giá trị khấu hao hàng năm của một đơn vị của cải. Khi s và d bằng không thì kt bằng (1/T - t): do đó có sự lạm dụng, đặc trưng cho Friedman, để xem 1/kt như là độ dài của chân trời ra quyết định của tác nhân bằng cách giả định rằng dạng tiêu dùng liên thời gian được tác nhân mong muốn là dẹp.
Dù sao đi nữa, quan hệ (7) tóm tắt tốt những đặc tính của mô hình LCH chuẩn. Tiêu dùng chỉ chỉ phụ thuộc vào tổng số tiền những nguồn lực hiện nay và sắp tới, theo một quan hệ tỉ lệ; do đó hành vi là hướng đến tương lai và việc san bằng tiêu dùng là hoàn hảo, do tiêu dùng không phụ thuộc chút nào vào lịch kì hạn của những nguồn lực. Và hiện tượng hump saving vẫn còn giá trị chừng nào những thu nhập hoạt động không tăng quá cao tuỳ theo tuổi và chừng nào tỉ suất khấu hao tương lai là bị giới hạn.
Những mở rộng của mô hình vòng đời sản phẩm
Tất cả, hay gần như hầu hết, những hướng mở rộng có thể của phiên bản chuẩn đã được khai thác, cho ra đời một kinh văn vô cùng phong phú. Kết luận (quá) tổng quát là những hướng mở rộng này có thể đặt thành vấn đề – ở những mức độ khác nhau – hầu như tất cả những tiên đoán của mô hình chuẩn …
Một số những phiên bản mở rộng này liên quan đến việc mở rộng tính duy lí: lợi ích của nhàn rỗi, dẫn đến một cung lao động ngoại sinh; động cơ chuyển giao dẫn đến những di sản tự nguyện … Những thay đổi phát sinh so với phiên bản chuẩn còn giới hạn một khi giả định là những lựa chọn khác nhau – nhàn rỗi và tiêu dùng, tiết kiệm vòng đời hay di sản – là tách bạch, để có thể còn tiếp tục nghiên cứu hành vi tích luỹ một cách độc lập.
Một số phiên bản khác, gần đây hơn, đặt thành vấn đề tính không đổi của những nhu cầu trong suốt cả vòng đời (mô hình chuẩn LCH dường như tương ứng với một người độc lập luôn còn trẻ). Lợi ích tức thì, u[C(t), Z(t)], không chỉ tuỳ thuộc vào tiêu dùng mà còn phụ thuộc vào những biến Z, thường là những biến dân số, vốn là một chỉ báo của biến thiên của nhu cầu: nhu cầu tăng với kích cỡ của gia đình, giảm khi tuổi cao … Như thế ta có thể tính đến một mức độ biến thiên nhất định của nhu cầu mà vẫn giữ logic hành vi của mô hình chuẩn (Attanasio & Browning, 1995).
Chúng tôi quan tâm nhiều hơn đến những mở rộng đưa vào một môi trường thực tế hơn: bất trắc của thu nhập và của lãi suất (hay ngay cả của thị hiếu) tương lai, và bất trắc về tuổi thọ; tính không hoàn hảo của những thị trường vốn, đặc biệt là những hạn mức tín dụng và ràng buộc thanh khoản. Như thế, ta có thể giữ lại một hàm lợi ích liên thời gian U kiểu (3)-(4)-(5). Nếu cá thể tối đa hoá kì vọng lợi ích U của mình, (1/s) bằng - u²/u¢ nay tượng trưng cho mức độ ngại rủi ro tương đối và đặc biệt xác định những lựa chọn danh mục đầu tư. Hơn nữa, ràng buộc ngân sách tức thì (1), vốn có một vai trò then chốt, thường nghiệm đúng. Nhưng điều quan trọng cần ghi nhận là không còn giữ được quan hệ (2) và do đó cả quan hệ (7) nữa: tiêu dùng không chỉ phụ thuộc vào tổng những nguồn lực con người và không còn người mà còn phụ thuộc cả vào cơ cấu và lịch của những nguồn lực này; việc san bằng tiêu dùng chỉ là bộ phận và tất cả diễn ra như thể chân trời đã bị “rút ngắn”. Đặc biệt là của cải vật chất phải được cách biệt khỏi những thu nhập tương lai của vốn con người vì của cải này có những chức năng đặc thù của tiết kiệm dự phòng và dự trữ thanh khoản.
Friedman (1957) quả đã ý thức rằng sự bất trắc và tính không hoàn hảo của các thị trường khiến cho những điều chỉnh như thế trở nên cần thiết. Vấn đề là những điều chỉnh này là hoàn toàn không đủ (Zeldes, 1989). Đặc biệt là giả thiết những tương đương chắc chắn chỉ được giữ lại với một lợi ích toàn phương; giả thiết này hết đứng vững một khi tác nhân có một sự thận trọng dương – sự thận trọng là đạo hàm cấp ba của lợi ích, u¢² (Kimball, 1990). Với những sở thích đồng co dãn kiểu (4) thì phương sai dự kiến của thu nhập tương lai tạo thên một tiết kiệm dự phòng và làm tăng tỉ suất tăng trưởng của tiêu dùng (quan hệ (6)). Hơn nữa, những ràng buộc thanh khoản hay ràng buộc vay mượn củng cố đông cơ dự phòng này một cách phức tạp (các mô hình hết còn có nghiệm giải tích). Cuối cùng, tiết kiệm dự phòng phát sinh do có bất trắc của thời lượng khi không có (hay bị từ chối) những tô suốt đời có thể dẫn đến những di sản lớn và làm giảm nhiều nhịp độ tiêu dùng di sản vào cuối đời (Davies, 1981).
Triển vọng
Nếu quả là hoài công nếu lập luận đến bất tận về những công lao của Friedman và Modigliani thì dù sao đi nữa nguồn gốc chung và những nét gần nhau của hai lí thuyết fisherian này che khuất một tiến hoá thiết yếu. Những phát triển hiện nay của LCH đánh dấu một sự đoạn tuyệt quan trọng không chỉ đối với Keynes mà cả đối với PIH. Dựa trên một hình thức hoá tân cổ điển chặt chẽ, giả thiết vòng đời nay trở thành một mô hình kinh tế vi mô tổng quát về những quyết định tiêu dùng và tiết kiệm, và cả về những lựa chọn tài chính của các hộ gia đình. Nếu muốn phác hoạ những tương lai có thể của LCH thì những lí thuyết cạnh tranh nghiêm túc nhất ta có thể đối lập với LCH không phải là những lí thuyết về (hàm) tiêu dùng, mà lịch sử có vẻ là đã hoàn tất và khép lại.
Những phê phán nghiêm túc nhất ngày nay nhắm vào LCH thuộc một cấp độ khác. Một số phê phán rằng LCH cung cấp một mô tả những hành vi di sản chỉ áp dụng được cho những giai cấp trung lưu, và đặc biệt loại trừ những tầng lớp giàu nhất. Một số phê phán khác chĩa mũi dùi vào cách nhìn thuần tuý trong nội bộ của thế hệ của cá thể hay của hộ gia đình, cắt đứt khỏi những quan hệ gia đình, những quan hệ với song thân (gia tài thừa hưởng) cũng như với những người kế thừa (giáo dục và gia tài để lại cho con): những mô hình gia đình, được phát triển tiếp bước theo Becker (1991), bác bỏ LCH vì giả thiết độc lập của những lựa chọn tiết kiệm đối với những hành vi khác, có tính nghề nghiệp hay gia đình, và từ chối xem hộ gia đình như một đơn vị ra quyết định độc lập.
![]() |
Robert Barro (1944-) |
![]() |
▶ ATTANASIO O. P. & BROWNING M., “Consumption over the Life Cycle and over the Business Cycle”, American Economic Review, 1995, 85(5), p. 1118-1137. – BARRO R. J., “Are government bonds net weath?”, Journal of Political Economy, 1974, 82 (5), p. 1118-1137. – BECKER G. S., A Treatise on the Family, Harvard University Press, 2nd enlarged ed., 1991. – CARROLL C. D., “The Buffer-stock Theory of Saving: Some Macroeconomic Evidence”, Brookings Papers on Economic Activity, 1992, vol. 2, 61-156. – DAVIES J. B., “Uncertain Lifetime, Consumption and Dissaving in Retirement”, Journal of Political Economy, 1981, 89 (3), 561-577. – DEATON A. S., Understanding Consumption, Oxford, Clarendon Press, 1992. – DUESENBERRY J. S., Income, Saving, and the Theory of Consumption Behavior, Cambridge (Mass.), Harvard University Press, 1949. – FELDSTEIN M., “Social Security, Induced Retirement and Aggregate Capital Accumulation”, Journal of Political Economy, 1974, 82 (5), 905-926. – FISHER I., The Theory of Interest, New York, Macmillan, 1948. – FRIEDMAN M., A Theory of the Consumption Function, NBER, Princeton University Press, 1957. – HARROD R. F., Towards a Dynamic Economics, London, Macmillan, 1948. – KESSLER D. & MASSON A, chủ biên, La théorie du cycle de vie, numéro spécial (en anglais), Annales d’économie et de statistiques, 9, 1988; “Bequest and Weath Accumulation: Are Some Pieces of the Puzzle Missing?”, Journal of Economic Perspectives, 1989, 3 (3), 141-152. – KEYNES J. M., The General Theory of Employment, Interest and Money, New York, Harcourt Brace, 1936. – KIMBALL M. S., “Precautionnary Saving in the Small and in the Large”, Econometrica, 1990, 58, 534-573. – MASSON A., “La théorie du cycle de vie illustrée”, Risques, 1991, 7, 75-100. – MODIGLIANI F., “Life Cycle, Individual Thrift and the Weath of Nations”[*] (Nobel Lecture), American Economic Review, 1986, 76 (3), 297-313. – MODIGLIANI F. & BRUMBERG R., “Utility Analysis and the Consumption Function: an Interpretation of Cross-section data”, in KURIHARA K. K., chủ biên, Post Keynesian Economics, Rutgers University Press, 1954, 388-436. – ZELDES S. P., “Optimal Consumption with Stochastic Income: Deviation from Certain Equivalence”, Quarterly Journal of Economics, 1989, 104, p. 275-298.
André MASSON
Giám đốc nghiên cứu Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia (CNRS), Khoa và phòng kinh tế lí thuyết và ứng dụng (DELTA) và Trường cao đẳng sư phạm (ENS) (Paris)
Nguyễn Đôn Phước dịch
➜ Của cải; Di sản; Dự kiến; Điều khiển tối ưu; Kinh tế học vi mô; Gia đình; Học thuyết Keynes; Hưu trí; Thời gian; Tiết kiệm; Duy lí tân cổ điển (tính); Vị tha (học thuyết).
Nguồn: Dictionnaire des sciences économiques, Claude Jessua, Christian Labrousse và Daniel Vitry (đồng chủ biên), PUF, Paris, 2001.
[*]
bản dịch tiếng Việt: “Vòng đời, tiết kiệm cá nhân và của cải của các quốc gia”, trong Các thuyết trình tại lễ trao giải thưởng Nobel về khoa học kinh tế, tập 2: 1981-1990, trang 242-278, Hà Nội, 2000, nhà xuất bản Chính trị quốc gia (ND).
Chú thích:
