Microeconomics
® Giải Nobel: ARROW, 1972 – DEBREU, 1983 – LUCAS, 1995 – MARKOWITZ, 1990 – MERTON, 1997 – MILLER, 1990 – MIRRLEES, 1996 – SCHOLES, 1997 – SHARPE, 1990 – STIGLER, 1982 – VICKREY, 1996.
Kinh tế học vi mô nghiên cứu hành vi của những đơn vị
kinh tế cá thể (đặc biệt là hành vi của người tiêu dùng và của người sản xuất)
và những tương tác của những tác nhân này. Mục tiêu đầu tiên của bộ môn này là
làm rõ những điều kiện cho phép có được sự phân bổ hiệu quả nhất có thể của các
sản phẩm và dịch vụ, sẵn có lúc ban đầu hoặc được sản xuất. Phần lớn chương
trình nghiên cứu này đã kết thúc vào đầu những năm 1950 với các công trình của
Gérard Debreu và Kenneth Arrow về mô hình cân bằng chung giúp hai tác giả trên được giải
Nobel kinh tế. Nhưng hai định lí cơ bản của kinh tế học phúc lợi tổng hợp cách
tiếp cận của họ chỉ có giá trị dưới những giả thiết vô cùng chính xác và không
bao giờ được hoàn toàn kiểm chứng trong thực tiễn. Đặc biệt, thông tin các tác
nhân kinh tế có được là không bao giờ hoàn hảo và những quyết định của các tác
nhân này hiếm khi được phối hợp, ngược lại với giả thiết cạnh tranh hoàn hảo và
hư cấu về người xướng giá được cách tiếp cận truyền thống giả định. Do đó, có
hai hướng được thăm dò. Hướng thứ nhất, được phát triển kể từ những năm 1960,
nhằm mở rộng phương thức phân tích ra toàn bộ những quan hệ xã hội. Đặc biệt
hướng này đã sinh ra trường phái được gọi là trường phái lựa chọn công cộng
nhằm tìm hiểu hoạt động của Nhà nước theo mô hình phân bổ tối ưu các nguồn lực
khan hiếm. Hướng thứ hai, dần dần hình thành từ những năm 1970, nhằm nghiên cứu
những trao đổi hàng hoá với những giả thiết ít nghiêm ngặt hơn những giả thiết
của cạnh tranh hoàn hảo. Vận dụng một cách đại trà lí thuyết trò chơi không hợp
tác, hướng nghiên cứu này hiện ra như một chương trình nghiên cứu nhất quán,
phát triển những khái niệm riêng như khái niệm hợp đồng, nhưng không vì thế mà
đoạn tuyệt với cách tiếp cận kinh tế vi mô truyền thống dựa trên tính duy lí cá
thể. Do tính chất tương đối thiểu số của trường phái lựa chọn công cộng, chúng
tôi tự giới hạn ở việc trình bày cách tiếp cận kinh tế vi mô truyền thống và
những phát triển mới bắt nguồn từ việc sử dụng lí thuyết trò chơi.
Mô hình cân bằng
chung
Kenneth Arrow (1921-) |
Gérard Debreu (1921-2004) |
Những giả thiết của Arrow-Debreu. Không đi vào chi tiết những công trình của Arrow và Debreu, ta chỉ đơn
giản nói rằng chứng minh của hai tác giả này về sự tồn tại của một cân bằng
chung dựa trên việc mô tả cân bằng này như điểm cố định của một ánh xạ được xác
định từ những cung và cầu được các tác nhân kinh tế thể hiện. Một cách trực
quan, biểu trưng này tương ứng với việc là nếu có một cân bằng chung thì không
có tác nhân nào mong muốn thay đổi cung và cầu của mình vì chúng, tuỳ theo
trường hợp, tối đa hoá lợi ích hay lợi nhuận của mình. Những định lí toán học
đảm bảo sự tồn tại của ít nhất một điểm cố định cho một ánh xạ (định lí
Brouwer) hay của một phiếm hàm (định lí Kakutani) đều đòi hỏi là những ánh xạ
hay phiếm hàm này là giới nội và liên tục. Những cầu
thuần phái sinh từ những chu cấp ban đầu, sở thích và công nghệ, những giả
thiết của Arrow-Debreu nhằm đảm bảo rằng những cung và cầu là liên tục và giới
nội. Như thế, người tiêu dùng phải có những sở thích lồi, những chu cấp ban đầu
đủ để sống sót mà không cần trao đổi và có một tập tiêu dùng không bảo hoà
(nghĩa là, bất kể tiêu dùng là gì đi nữa, bao giờ cũng có một tập tiêu dùng
được người tiêu dùng ưa thích). Còn công nghệ phải là một công nghệ không có
lợi tức tăng dần lẫn chi phí cố định và nghiệm đúng tính chất tự do sử dụng
(luôn có thể loại bỏ miễn phí những sản xuất dư thừa). Có thể tham khảo danh
sách đầy đủ những giả thiết đảm bảo sự tồn tại của một cân bằng chung trong
Debreu (1959, trang 83-84). Đây là những giả thiết đủ (nhưng không phải là
những giả thiết cần) để đảm bảo sự tồn tại của ít nhất một cân bằng chung,
nhưng chúng không cho phép kết luận tính đơn nhất của cân bằng này, và điều này
đặt thành vấn đề những kết luận về so sánh tĩnh. Một khi đã chứng minh sự tồn
tại của cân bằng chung, bước thứ hai là đánh giá tính hiệu quả của phân bổ thu
được. Do đó vấn đề là xây dựng một quan điểm chuẩn tắc xác định một tiêu chí để
đánh giá tính hiệu quả này. Đó là đối tượng của kinh tế học phúc lợi.
Thế tối ưu. Xét hai trạng thái thực hiện được của nền kinh tế, trạng thái thứ hai
được xem là được ưa thích ít ra cũng bằng trạng thái thứ nhất nếu mỗi người
tiêu dùng ưa thích (trong nghĩa rộng) tiêu dùng của mình trong trạng thái thứ
hai hơn. Một phân bổ những nguồn lực được gọi là một tối ưu Pareto nếu ta không
thể cải thiện tình thế cuả bất kì người tiêu dùng nào mà không làm xấu đi tình
thế của ít nhất một người tiêu dùng khác. Xuất phát từ một tình thế trong đó
người tiêu dùng được đặc trưng bằng những chu cấp ban đầu và quyền sở hữu của
họ trên các doanh nghiệp, ta đạt đến một tối ưu Pareto khi, cho mỗi cặp sản
phẩm, những tỉ suất thay thế cận biên (MRS) và những tỉ suất biến đổi kĩ thuật
(MRT) bằng nhau và những tỉ suất kĩ thuật thay thế cận biên (TMRS) cũng thế.
Khi tồn tại một cân bằng chung, thì người tiêu dùng tối đa hoá lợi ích của mình
bằng cách làm bằng nhau các MRS của họ với tỉ số những giá khiến cho những MRT
bằng nhau. Tương tự như thế, nhà sản xuất phân bổ một cách tối ưu đầu vào bằng
cách làm bằng nhau những TMRS của họ với tỉ số những giá. Cuối cùng, trong cạnh
tranh hoàn hảo, lợi nhuận được tối đa hoá khi những chi phí cận biên bằng với
các giá. Sự bằng nhau của những MRS và những MRT được suy ra từ đó vì những MRS
bằng với những tỉ số giá và những MRT bằng với những chi phí cận biên. Như thế
ta có được định lí thứ nhất của kinh tế học phúc lợi, định lí này nói rằng một
cân bằng chung cạnh tranh là một tối ưu Pareto, và như thế tối ưu này thể hiện
tính hiệu quả của sự phân bổ các nguồn lực bằng cạnh tranh hoàn hảo. Tuy nhiên,
cân bằng đạt được có thể là một cân bằng vô cùng bất bình đẳng, mặc dù nó cải
thiện tình thế ban đầu của mỗi tác nhân, và tiêu chí tối ưu paretian không cho
phép sắp xếp thứ bậc của hai cân bằng. Do đó, mô hình không có những lí do
riêng của nó để khiến ta mong muốn một cân bằng khác hơn cân bằng có được như
kết quả của những dữ liệu nguyên thủy (sở thích, chu cấp ban đầu và công nghệ).
Tuy nhiên có thể có những lí do bên ngoài (lí do đạo đức, chính trị, môi
trường) khiến cho một tối ưu Pareto được ưa thích hơn tối ưu Pareto đạt được ở
thế cân bằng chung. Định lí thứ hai của kinh tế học phúc lợi chỉ ra là có thể
đạt đến, bằng cách tiến hành những chuyển nhượng cố định làm thay đổi những chu
cấp ban đầu, một cân bằng chung vốn là một tối ưu Pareto được chọn một cách
tiên nghiệm. Nói cách khác, bao giờ cũng có thể, bằng cách tiến hành những
chuyển nhượng thích hợp giữa các tác nhân, tìm ra một hệ thống giá cung cấp đủ
thông tin cho các tác nhân để họ lấy những quyết định tối đa hoá mục tiêu của
mình mà vẫn đạt đến một tối ưu Pareto được cho trước lúc khởi đầu. Như thế mọi
tối ưu Pareto có thể được phi tập trung hoá bằng hệ thống giá cả.
Những giới hạn của mô hình cân bằng
chung. Chúng tôi chỉ nhanh chóng đề cập đến ba
giới hạn chính. Trước tiên là tính không hiệu quả của thị trường trong việc
phân bổ tối ưu các nguồn lực khi có những sản phẩm công cộng, những ngoại ứng,
những chi phí giao dịch hay khi có cạnh tranh không hoàn hảo; thế nhưng đó
không chỉ là những trường hợp ngoại lệ mà phổ biến hơn qui tắc cạnh tranh hoàn
hảo lí tưởng của mô hình. Tiếp đó, hư cấu người xướng giá walrasian và quá
trình dò dẫm, một quá trình giả định là các trao đổi chỉ được tiến hành một khi
đã đạt đến thế cân bằng, thế mà các tác nhân phản ứng trước mỗi lần xướng giá
như thể họ đang ở thế cân bằng. Do đó phải giả định rằng các tác nhân vừa cận
thị vì họ không tưởng tượng được là họ không đang ở thế cân bằng, vừa mất trí
nhớ vì họ cảm nhận mỗi thông báo mới về giá của người xướng giá như một tình
thế cân bằng, và như thế quên đi rằng tình thế trước đó không phải là một tình
thế cân bằng. Một hành vi như thế có vẻ mâu thuẫn với tính duy lí được giả định
của các tác nhân. Cuối cùng, quá trình dò dẫm không hội tụ về một cân bằng nếu
không thêm vào những giả thiết nữa, như giả thiết tính thay thế thô (giả định
rằng hiệu ứng thay thế khống chế một cách có hệ thống hiệu ứng thu nhập, do đó
kéo theo rằng cầu thuần của một sản phẩm là một hàm tăng của giá của những sản
phẩm khác). Tiếc thay, định lí Mantel, Debreu và Sonnenschein cho thấy là những
tác nhân tối đa hoá trong một nền kinh tế “theo kiểu
Arrow-Debreu” có thể có những cầu thuần có dạng bất kì, do đó không tất
yếu thoả mãn giả thiết thay thế thô. Từ đó, không có gì bảo đảm rằng quá trình
dò dẫm hội tụ. Qui luật cung cầu mất đi rất nhiều ích lợi của nó.
Những phát triển
mới của kinh tế học vi mô
Gilles Rotillon |
Joseph Stiglitz (1943-) |
Gilles ROTILLON
Giáo sư đại học Nanterre (Paris 10)
Nguyễn
Đôn Phước dịch
® Cân bằng chung; Duy lí hạn chế (tính); Duy lí tân cổ điển (tính); Đối tượng và
phương pháp của kinh tế học; Kinh tế toán học; Lợi ích; Lợi nhuận; Người tiêu dùng; Người sản xuất; Tối ưu.
Nguồn: Dictionnaire
des sciences économiques, sous la direction de Claude Jessua,
Christian Labrousse, Daniel Vitry, PUF, Paris, 2001