15.4.24

Cuộc khảo sát lớn nhất sau đại dịch nhận thấy sự tin tưởng cao vào các nhà khoa học

CUỘC KHẢO SÁT LỚN NHẤT SAU ĐẠI DỊCH NHẬN THẤY SỰ TIN TƯỞNG CAO VÀO CÁC NHÀ KHOA HỌC

Nghiên cứu trên 70.000 người cho thấy mức độ tin tưởng biến đổi giữa các quốc gia và có liên quan đến định hướng chính trị.

Carissa Wong

Cuộc khảo sát toàn cầu chỉ ra rằng nhìn chung mọi người có mức độ tín nhiệm khá cao đối với các nhà khoa học. Nguồn ảnh: Michael Candelori/Pacific Press trên Zuma Wire/Shutterstock

Một cuộc khảo sát toàn cầu với hơn 70.000 người tham gia cho thấy mọi người trên khắp thế giới có sự tin tưởng cao vào các nhà khoa học và hầu hết đều muốn các nhà nghiên cứu tham gia nhiều hơn vào việc hoạch định chính sách. Tuy nhiên, theo mô tả trong bản thảo đăng trực tuyến vào tháng trước của nghiên cứu, mức độ tin tưởng (của người tham gia) bị ảnh hưởng bởi định hướng chính trị và khác nhau giữa các quốc gia1.

James Liu, nhà tâm lý học tại Đại học Massey của New Zealand ở Auckland, cho biết: “Thông điệp tổng thể khá tích cực”. “Mặc dù đại dịch COVID-19 có thể gây ra sự phân cực đối với niềm tin vào các nhà khoa học, nhưng nhìn chung, mức độ tin tưởng của công chúng thuộc nhiều nhóm nhân khẩu học khác nhau vẫn tương đối cao."

“Các nhà nghiên cứu sử dụng thước đo độ tin tưởng thiết thực hơn so với các nghiên cứu trước đây vốn chỉ tập trung vào một hoặc hai chiều (dữ liệu), Nan Li, người chuyên nghiên cứu cách công chúng tương tác với khoa học tại Đại học Wisconsin–Madison, cho biết. “Tôi thực sự ngưỡng mộ tham vọng của các tác giả khi thực hiện loại nghiên cứu này, tính đến cả các nhà nghiên cứu từ khắp nơi trên thế giới.”

Phạm vi này khiến cuộc khảo sát trở thành một trong những nghiên cứu lớn nhất về niềm tin vào các nhà khoa học được thực hiện kể từ khi đại dịch bắt đầu.

Print Friendly and PDF

14.4.24

Gặp hai đạo diễn Israel và Palestine của phim “No Other Land”

GẶP HAI ĐẠO DIỄN ISRAEL VÀ PALESTINE
CỦA PHIM “NO OTHER LAND”:

“TÔI SỐNG DƯỚI CHẾ ĐỘ DÂN LUẬT
CÒN ANH ẤY DƯỚI THIẾT QUÂN LUẬT”

Nicolas Rouger

Phóng viên đặc biệt của báo Libération (Pháp)

tại Masafer Yatta (Cisjordanie). Bài được đăng

trên báo Thuỵ Sĩ “Le temps” ngày 08-04-2024.

Bản dịch: Đỗ Tuyết Khanh

Đoạt giải phim tài liệu hay nhất ở festival Berlinale, “No Other Land”, do hai đạo diễn Yuval Abraham, người Israel, và Basel Adra, người Palestine, đồng thực hiện, đã gây chấn động nơi người xem. Gặp gỡ ở Masafer Yatta, vài ngày trước khi bộ phim được trình chiếu ở festival Visions du Réel ở Nyon (Thuỵ Sĩ).

Hoàng hôn đến, chấm dứt ngày nhịn ăn ở At-Tuwani, trung tâm không chính thức của Masafer Yatta, một vùng gồm khoảng hai mươi làng nhỏ Palestine nằm trên các ngọn đồi khô cằn ở phía nam Hébron, trong lãnh thổ Cisjordanie bị chiếm đóng. Trong sân nhà của Basel Adra, 27 tuổi, các khách mời háo hức đợi ăn những đĩa cơm với thịt gà. Basel, khuôn mặt thanh tú, ánh mắt đanh lại, dỏng tai lên. Anh không tìm nghe tiếng bom dội ì ầm từ Gaza, cách đây 50 cây số đường chim bay, mà rình xem có chiếc máy bay không người lái nào, của quân đội hay của khu di dân Do Thái Ma’on, trong những năm gần đây đã bành trướng và lan tới phía trên của làng.

Đêm xuống, anh thở phào: “Sẽ không có tụi nó.” Hôm nay, ngày 14.3, bộ phim tài liệu “No Other Land” được chiếu lần đầu ở Palestine trong sân trường học, trước buổi chiếu ra mắt ngày 16.4 ở festival Visions du Réel ở Thuỵ Sĩ. Basel là đồng đạo diễn, với một người tranh đấu Palestine khác, Hamdan Ballal, và hai nhà báo Israel Rachel Szor và Yuval Abraham. Buổi chiếu được tổ chức cho dân chúng ở Masafer Yatta và các nhà hoạt động Israel ủng hộ họ.

Ở đây, từ bốn mươi năm nay, các khu di dân Do Thái dần dần trưởng giả hoá, được ưu tiên dùng đường sá đi lại và hưởng những dịch vụ do bộ máy quản lý của quân đội cung cấp, trong khi các cộng đồng Palestine và một ngàn cư dân có thể bị trục xuất bất cứ lúc nào ngày càng suy giảm. Người Palestine phải đối mặt với bạo lực trên thể xác, có khi thiệt mạng, và cả về mặt biểu tượng như cái giếng bị đổ đầy xi-măng, những ống dẫn nước bị cắt. Quân đội phá huỷ ban ngày, người dân xây dựng lại ban đêm.

Bộ phim cho thấy cách một thanh niên hoạt động Palestine ghi lại chứng cớ về những làng mạc trong vùng dần dần bị huỷ diệt.

Print Friendly and PDF

13.4.24

Tăng trưởng kinh tế ít gây ô nhiễm hơn? Vấn đề là cần hiểu tăng trưởng theo nghĩa nào…

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NHƯNG ÍT GÂY Ô NHIỄM HƠN? VẤN ĐỀ LÀ CẦN HIỂU TĂNG TRƯỞNG THEO NGHĨA NÀO…

Các tác giả:

Albert Bouffange

Nghiên cứu sinh tiến sĩ kinh tế, Sciences Po Lyon

Baptiste Andrieu

Nghiên cứu sinh tiến sĩ về khoa học trái đất và môi trường, Đại học Grenoble Alpes (UGA)

Florence Jany-Catrice

Giáo sư kinh tế tại Đại học Lille, đồng chủ nhiệm bộ môn Tái chuyển đổi sinh thái, lao động, việc làm và chính sách xã hội tại Trường Cao đẳng Nghiên cứu Toàn cầu, FMSH., Fondation Maison des Sciences de l’Homme (FMSH)

Pierre-Yves Longaretti

Nhà nghiên cứu của CNRS trong nhóm “Tính bền vững, Lãnh thổ, Môi trường, Kinh tế và Chính trị”, Inria

Liệu phát thải khí nhà kính có thể đi theo một quỹ đạo khác với tốc độ tăng trưởng kinh tế? Shutterstock

Khi chủ đề biến đổi khí hậu càng chiếm được một chỗ đứng trong cuộc tranh luận chính trị và kinh tế, thì các cuộc thảo luận ngày càng phân cực xoay quanh khả năng có hay không một sự “tách rời”. Đằng sau thuật ngữ này, là một câu hỏi đơn giản: liệu việc giảm thiểu các tác động môi trường có thể diễn ra cùng lúc với việc tiếp tục phát triển các hệ thống kinh tế hay không? Một bài báo gần đây của Gregor Semieniuk, nhà kinh tế học tại Ngân hàng Thế giới, đã đề cập đến một khía cạnh mấu chốt và chưa được thảo luận nhiều: liệu chúng ta có đo lường hoạt động kinh tế một cách đúng đắn hay không?

Vấn đề “tách rời” là vấn đề về hai đường cong, thứ mà chúng ta muốn biết liệu chúng có thể tách rời nhau, hoặc thậm chí tiến triển, theo cách trái ngược nhau hay không: đường cong phát thải khí nhà kính, và đường cong tăng trưởng kinh tế, tức là sự biến đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực tế: liệu có thể thấy được đường cong GDP thực tế tăng lên theo thời gian, trong khi đường cong phát thải lại tăng chậm hơn (“sự tách rời tương đối”), hoặc thậm chí (“sự tách rời tuyệt đối”) giảm hay không? Ở đây, chúng tôi xem xét đến GDP thực tế, vì nó cho phép so sánh GDP nhiều năm khác nhau bằng cách tính đến lạm phát (trái với GDP danh nghĩa). Khi thao tác với các chuỗi thời gian thì bao giờ cũng sử dụng GDP thực tế.

Print Friendly and PDF

11.4.24

Trí tuệ nhân tạo: một đối tượng khó hiểu của tranh luận

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO: MỘT ĐỐI TƯỢNG KHÓ HIỂU CỦA TRANH LUẬN

Tác giả: Matthieu Hug

Kỹ thuật số không chỉ là một tập hợp các công nghệ mà còn là một “môi trường” mà chúng ta sống trong đó. Chính vì vậy mà quân đội ở Pháp cũng như ở Mỹ nhắm đến và nhận diện 5 môi trường tương tác với nhau, với những ràng buộc riêng: không khí, đất, biển, không gian và “cyber” (không gian mạng). Môi trường này bao phủ các mối quan hệ liên cá nhân và quan hệ xã hội, các mối tương tác giữa chúng ta và Nhà Nước, mối liên hệ của chúng ta với tri thức, với sự tưởng tượng hay với nghệ thuật, và định hình lại chúng. Môi trường này xác định lại ranh giới giữa không gian riêng và không gian công cộng cũng như giữa giám sát và tự do, nó tạo nên sự tồn tại của xã hội diễn cảnh thường trực, bởi mọi người và vì mọi người, nó xâm chiếm, thậm chí thao túng trí não của chúng ta: kỹ thuật số là một vectơ thiết yếu của các dự án chính trị.

Với Internet, vectơ chính trị này trước hết đã tạo điều kiện cho việc phổ biến các ý tưởng trong một diễn đàn toàn cầu được xây dựng từ cơ sở, một cách ngẫu nhiên và thực sự không kiểm soát; diễn đàn mới này đã mở ra những không gian và những niềm hy vọng về lòng khoan dung, với đỉnh cao là các mùa xuân Ả Rập[*] và các cuộc cách mạng màu[**]. Tuy nhiên diễn đàn toàn cầu của thời kỳ đầu bị hòa tan trong rất nhiều bong bóng bộ lọc (bulle de filtres) trong đó nảy nở sự ngờ vực và khiêu khích, và diễn đàn này phải đối đầu với sự đe dọa của “quá trình chia nhỏ Internet” (“splinternet” ), hầu như đã được thực hiện tại Trung Quốc. Sự tan rã này phần lớn liên quan đến sự tiến triển của các nền tảng từ khoảng 10 năm nay, vốn đã tạo ra một sự phát triển Internet và các công nghệ kỹ thuật số rất tập trung và phân cấp rất mạnh (descendant). Một số tác nhân công nghệ dần dần áp đặt những cách sử dụng: một số đặt lại vấn đề về cơ sở của xã hội như Uber, một số khác tổ chức những thao tác để thay đổi như Cambridge Analytica[1] thông qua Facebook, hay gần đây hơn là Team Jorge thông qua tất cả các mạng xã hội, như tập thể Forbidden Stories đã tiết lộ[2]. Có thể làm điều này được nhờ tốc độ triển khai các công nghệ và sự hiện diện của chúng ở khắp nơi: những cách sử dụng đã có sẵn trước khi ta có thể hiểu chúng, trước khi ta có thể giải thích tác động của chúng đối với xã hội, nghĩa là trước khi có mọi hình thức thảo luận nghiêm túc. Các điều chỉnh đến sau một cách hậu nghiệm với nhiều khó khăn: trong lúc chờ đợi sự điều tiết các cách sử dụng gây nguy hiểm cho nền dân chủ, những can thiệp về thông tin gia tăng, những tin giả lan rộng và những cuộc bầu cử bị thao túng như Brexit hay cuộc bầu cử năm 2016 ở Mỹ.

Print Friendly and PDF

9.4.24

Phân tích khung pháp lý trong khuôn khổ đối tác ICA-EU

PHÂN TÍCH KHUNG PHÁP LÝ TRONG KHUÔN KHỔ QUAN HỆ ĐỐI TÁC ICA-EU

Báo cáo của Hàn Quốc

Liên minh Hợp tác xã Quốc tế, Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương (ICA-AP) là tiếng nói của những hợp tác xã (HTX) trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. ICA-AP, với tư cách là văn phòng khu vực của ICA, cũng là bên đồng ký kết Thỏa thuận Đối tác Khung giữa Liên minh HTX Quốc tế và Ủy ban Châu Âu vào tháng 03/2016, nhằm tăng cường phong trào và năng lực HTX để thúc đẩy sự phát triển trên toàn thế giới. Thỏa thuận này củng cố chương trình “HTX trong sự phát triển”[1] và bao gồm các hoạt động xây dựng tri thức ở phạm vi toàn cầu (hài hòa) và khu vực (phi tập trung).

Các hoạt động được lên kế hoạch trong khuôn khổ của chương trình bao gồm các hoạt động nghiên cứu đa dạng được thực hiện ở phạm vi toàn cầu và khu vực. Các hoạt động chính được thực hiện ở cấp độ toàn cầu bao gồm Phân tích Khung Pháp lý (A2.2), do tất cả các văn phòng ICA phối hợp thực hiện. Trong khuôn khổ này, ICA-AP giám sát việc triển khai nghiên cứu ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.

Nghiên cứu về khuôn khổ pháp lý trong phần Phân tích Khung Pháp lý (A2.2) sẽ đánh giá các quy định về thẩm quyền và quy định chính sách theo khả năng mà chúng hỗ trợ cho sự phát triển của HTX. Tài liệu này sẽ trình bày các khuyến nghị cho các bước tiếp theo trong việc đổi mới khung pháp lý và giúp định hình các chương trình nghị sự chính sách theo mục tiêu ở các khu vực và quốc gia khác nhau. Nó sẽ đánh giá khung pháp lý về HTX cùng với các chỉ số chung, thể hiện bằng thang mức độ “thân thiện với HTX” của pháp luật ở một quốc gia. Trong bối cảnh tương tự, báo cáo này đề cập đến Phân tích Khung Pháp lý của Đại Hàn Dân Quốc (Hàn Quốc).

Print Friendly and PDF

7.4.24

Niềm vui lạ lùng vì đã sai: về tầm quan trọng của tính khiêm nhường trí thức

NIỀM VUI LẠ LÙNG VÌ ĐÃ SAI: VỀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA TÍNH KHIÊM NHƯỜNG TRÍ THỨC

Đôi khi những thông tin mới giúp lấy một hướng đi mới. Schon/Moment via Getty Images

Tác giả: Daryl Van Tongeren

Người ta cho tuyên bố sau đây là của Mark Twain: “Tôi ủng hộ sự tiến bộ; nhưng tôi không thích sự thay đổi”. Một câu nói nhấn mạnh xu hướng của con người mong muốn trưởng thành đồng thời chống đối mạnh mẽ công việc nặng nhọc đi kèm theo. Có lẽ là tôi tự mình đồng nhất với cảm nhận này.

Tôi đã được nuôi dạy trong một môi trường gia đình theo đạo Tin Lành bảo thủ. Như nhiều người đã lớn lên trong một môi trường tương tự, tôi đã học một tập hợp những niềm tin tôn giáo vốn tạo nên khuôn khổ của cách mà tôi hiểu thế giới bao quanh tôi. Người ta đã dạy tôi là Thượng Đế đầy lòng nhân từ và là bậc toàn năng, và những tín đồ của Ngài được bảo vệ. Người ta đã dạy tôi rằng thế giới là công bằng và Thượng Đế là nhân hậu. Thế giới đối với tôi dường như đơn giản và dự báo được – và nhất là an toàn.

Những niềm tin này vỡ tan tành khi anh của tôi đột ngột qua đời khi tôi được 27 tuổi. Cái chết của anh tôi vào tuổi 34, với ba đứa con, đã gây chấn động trong gia đình tôi và trong cộng đồng chúng tôi. Ngoài nỗi ưu phiền, tôi đã đặt lại vấn đề một số giả thuyết sâu đậm nhất của tôi. Thượng đế không nhân từ hay không toàn năng? Tại sao Thượng Đế không cứu lấy anh tôi, vốn là một người cha, người chồng tử tế và đầy tình thương? Và vũ trụ là bất công, vô cảm và bấp bênh đến mức độ nào?

Print Friendly and PDF

5.4.24

Lịch sử xã hội học thực dân

LỊCH SỬ HỘI HỌC THỰC DÂN

Về cuốn Cội Nguồn Thực dân của Tư tưởng Xã hội Hiện đại. hội học Pháp và Đế Chế Hải Ngoại/The Colonial Origins of Modern Social Thought. French Sociology and the Overseas Empire, của George Steinmetz, Princeton

Jean-Louis Fabiani[*]

Quá trình thuộc địa hóa đi kèm với sự khao khát kiến ​​thức dựa trên các thể chế đặc thù đã sinh ra một Đông Phương Luận dai dẳng trong lĩnh vực khoa học hội.

----------------------------------------------------------------------------------

Vô thức thực dân của khoa học xã hội

George Steinmetz

Cuốn sách mới nhất của George Steinmetz[**], một trong những đại diện xuất sắc nhất của xã hội học lịch sử mới về khoa học xã hội, mang một tham vọng lớn: đánh giá tầm quan trọng của ma trận thực dân trong sự phát triển của khoa học xã hội trong thế giới hiện đại. Trường hợp của Pháp được quan tâm nhiều, bởi vì trải nghiệm thực dân ở đó luôn đi kèm với ý muốn tri thức mạnh mẽ, như trường hợp của kế hoạch được gọi là Thám hiểm khoa học Algérie/Exploration scientifique de l’Algérie, đã huy động cả các nhà khoa học và quân đội từ năm 1839 và tạo ra một khối lượng dữ liệu đáng kể, từ địa lý hình thể đến nhân học[1]. Nhiều công trình đã cho thấy sự tham gia của hầu hết các nhà quản lý thuộc địa vào việc sản xuất tri thức, ở điểm giao thoa giữa việc quản lý các nhóm dân cư bị thống trị và kiến ​​thức dân tộc học toàn diện[2]. Mặc dù từ Pháp chỉ xuất hiện trong phụ đề, nhưng chính đất nước này được đề cập chứ không phải tư duy xã hội hiện đại nói chung. Sẽ rất lí thú nếu hỏi liệu trường hợp của Pháp có mang tính hệ hình, hay liệu tính đặc biệt của nó là do tính đặc thù của quá trình thuộc địa và mối liên hệ của quá trình này với việc xây dựng nền Đệ Tam Cộng hòa.

George Steinmetz muốn đi xa hơn diễn ngôn ngày nay được định nghĩa là “giải thực dân”: đó là vấn đề xác định những tác động phản hồi của những kiến ​​thức này đối với việc sản xuất thông thường các kiến ​​thức trong xã hội học, được coi là một chuyên ngành trung tâm trong cuốn sách. Thật vậy tiến trình thuộc địa hóa và mặt trái của nó, sự giải thực dân hóa, nằm ở trung tâm của xã hội học. Chúng ta đã biết điều này rồi, nhưng tác giả không tự giới hạn trong việc tố cáo mối liên hệ giữa thời điểm thành lập xã hội học và kế hoạch thực dân, một tố cáo tương đối phần nào vô dụng, vô ích nếu ta không xem xét đến hậu quả về mặt khoa học luận của tình huống đặc thù của các kiến thức liên quan.

Print Friendly and PDF

3.4.24

Alain Desrosieres, nhà bác học nhiều phẩm giá

ALAIN DESROSIÈRES, NHÀ BÁC HỌC NHIỀU PHẨM GIÁ

Emmanuel Didier[1]

Alain Desrosières (1940-2013)

Alain Desrosières qua đời ngày 15 tháng hai năm 2013. Ông đã không kịp thời gian hoàn thành cuốn sách ông đang chuẩn bị. Phải kết thúc công việc này, ngay cả khi ông vắng mặt. Đó là cuốn sách mà chúng tôi giới thiệu ở đây với bạn đọc.

Không còn gì nghi ngờ nữa, Alain Desrosières là nhân vật trung tâm thuộc thế hệ trí thức Pháp tiếp nối thế hệ những Bourdieu, Deleuze hay Foucault, mà tầm quan trọng đã bắt đầu được thừa nhận khắp thế giới kể từ những năm 2000. Lần theo vết sự nghiệp của ông cho phép viết một mảng lịch sử của thế hệ này, khi đề cập đến những kiểu tập thể khác nhau mà ông từng là thành viên. Chúng tôi sẽ làm điều này từ quan điểm của ông, quan điểm của sự lượng hoá, một điều quan trọng vì không có bất kì khoa học xã hội nào xứng đáng với tên gọi như vậy có thể phát triển mà không có quan niệm về thống kê.

Tất cả sự độc đáo của Desrosières nằm ở việc ông không phải là “nhà định lượng” đơn giản, còn lâu mới là như vậy, của cái khối bòng bong khoa học này. Nhờ có một sự uyên bác kĩ thuật rất ấn tượng, ông đã phát triển điều đang trở thành một chuyên ngành thật sự là lịch sử xã hội của sự lượng hoá, xem các thực tiễn đo đạc và định hình con số như một đối tượng điều tra. Thật vậy, thế giới chúng ta đang sống bị những số lượng xuyên suốt, được sản xuất một cách đặc biệt và có những hệ quả và cách sử dụng riêng. Alain Desrosières chỉ ra bằng cách nào có thể hình dung các số lượng hoàn toàn như những đối tượng xã hội. Cuối cùng ông bao giờ cũng quan niệm hoạt động tri thức của mình là một đòi hỏi chính trị. Đóng góp trí tuệ của ông luôn mang đậm dấu ấn của sự rộng lượng[2] và cẩn thận chú ý đến những tiền giả định ý thức hệ của mình cũng như đến những hiệu ứng xã hội của chúng. Những phẩm giá này đã nảy nở trên mảnh đất của những số lượng.

Như vậy, đóng góp của ông, trong suốt cuộc đời và theo ba cách khác nhau – với Bourdieu, với những nhà nghiên cứu nối tiếp tác giả này quan tâm đến những phẩm giá của thực tại chúng ta, cuối cùng với những đồng nghiệp của ông ở trung tâm Koyré – tầm quan trọng, chiều sâu và biên độ của các cuộc điều tra về sự lượng hoá.

Print Friendly and PDF

1.4.24

Kỹ sư Lê Tùng Hiếu – Cây đại thụ ngành cơ khí Việt Nam

LÊ TÙNG HIẾU

Kỹ sư, CÂY ĐẠI THỤ NGÀNH CƠ KHÍ VIỆT NAM

Nguyễn Xuân Xanh trình bày

Là người con của vùng sông nước và lớn lên từ ruộng đồng, nên cả cuộc đời ông luôn trăn trở, suy nghĩ làm sao đền ơn trả nghĩa được cho ruộng đồng, giúp cho bà con bớt đi nỗi vất vả, khó khăn.

Chúng ta phải tìm mọi cách phát triển được ngành cơ khí chế tạo, ngành công nghiệp phụ trợ, mà trước hết là phải đào tạo cho được đội ngũ thầy ra thầy và thợ đúng nghĩa là thợ. Chỉ khi có đủ trình độ và năng lực sản xuất, chúng ta mới tham gia được vào chuỗi sản xuất, công nghệ của nước ngoài. Từ đó, chúng ta mới chủ động thỏa thuận về thời gian, tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm khi hợp đồng với doanh nghiệp nước ngoài.

Kỹ sư Lê Tùng Hiếu

Thần Hy Lạp Hephaestus là biểu tượng nghệ nhân của ngành chế tạo đồ cơ khí tinh vi, từ vũ khí đến đồ trang sức. Ông làm tất cả mọi thứ: thợ rèn, thợ mộc, thợ thủ công, lửa, luyện kim, gia công kim loại, điêu khắc. Ông là con trai của Zeus và Hera và được Zeus cho kết hôn với nàng Aphrodite (Venus).

Lời nói đầu. Ngành kỹ thuật cơ khí (mechanical engineering, hay công nghệ cơ khí) có từ lâu đời, từ thời Hy Lạp, La Mã, nhưng phát triển mạnh thời Trung cổ châu Âu, và đạt tới cao điểm trong cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh thế kỷ XVIII. Từ đó, nó đi tiếp đến những bước phát triển mới rực rỡ. Hầu hết các ngành chế tạo đều sử dụng kỹ thuật cơ khí, nhất là trong ngành động cơ đốt, vận tải, cho tới ngành máy tính, robotic. Thế nhưng ngành kỹ thuật cơ khí ở Việt Nam còn rất kém phát triển mặc dù người Việt đã tiếp xúc với văn minh châu Âu đã hơn trăm năm. Cuộc công nghiệp hóa mà kỹ thuật cơ khí là một phần nền tảng hết sức quan trọng cũng không phát triển, kéo theo hệ lụy ngành giáo dục nghề cũng kém phát triển luôn.

Tôi hết sức vui mừng giới thiệu kỹ sư Lê Tùng Hiếu có thể được xem là một trong những cây đại thụ ngành cơ khí Việt Nam. Ông là một người hiếm hoi, có lẽ duy nhất đầu tiên đã du học sang CHLB Đức những năm đầu 1960 để học nghề cơ khí. Trước đó ông học tại Việt Nam theo hệ thống học nghề là do chính quyền Pháp thiết kế. Phần lý thuyết được các ông Tây dạy, trong khi phần thực hành thì người Việt Nam. Ông là một người rất yêu nghề, cả đời sống với cơ khí, phục vụ sản xuất máy móc và giáo dục. Ông là một người hiền lành, nhân hậu, rất mực hòa nhã. Ông nói ít, làm nhiều. Ai đến gần ông cũng cảm thấy một từ trường dễ chịu và thân thiện như thế tỏa ra.

Từ hơn mười năm qua ông Lê Tùng Hiếu hoạt động tích cực trong nhóm Tủ sách Nhất Nghệ Tinh của các anh chị cựu sinh viên từng đi du học tại CHLB Đức và Tây Bá Linh những năm 1960-70.

Nguyễn Xuân Xanh

Print Friendly and PDF

30.3.24

Nhật Bản, Ấn Độ, Haiti và những nơi khác: các nhà vệ sinh công cộng nói lên điều gì về các xã hội

NHẬT BẢN, ẤN ĐỘ, HAÏTI VÀ NHỮNG NƠI KHÁC: CÁC NHÀ VỆ SINH CÔNG CỘNG NÓI LÊN ĐIỀU GÌ VỀ CÁC XÃ HỘI

Các tác giả: Anthony Goreau-Ponceaud Alice Corbet

Một cảnh trong phim Perfect Days của Wim Wenders, với nhân vật chính là một người làm vệ sinh nhà vệ sinh công cộng ở Tokyo. Wim Wenders, “Perfect Days”, Master Mind

Ngày 6 tháng 12 vừa qua, phim Perfect Days (Những ngày hoàn hảo) của Wim Wenders được chiếu ra rạp, phim nêu lên đời sống hàng ngày của một nhân viên của thành phố Tokyo tên là Hirayama, phụ trách làm vệ sinh các nhà vệ sinh công cộng. Phim này nêu rõ, nếu điều này còn cần thiết, những khác biệt về xã hội và văn hóa trong các cách nhìn nhận “cái góc nhỏ” này (nhà vệ sinh), sự hiển hiện của nó trong không gian công cộng, cũng như những vấn đề các điều kiện vệ sinh.

Cuốn phim trình bày phần nào một kinh nghiệm được phát triển bởi Tokyo Toilet Project do tổ chức phi chính phủ The Nippon Foundation phát động, hướng đến việc phục hồi 17 nhà vệ sinh công cộng trong quận Shibuya của Tokyo, biến chúng thành những tác phẩm nghệ thuật, tất cả đều miễn phí và tất cả mọi người không phân biệt nam hay nữ, tuổi tác hay khuyết tật đều có thể sử dụng được.

Một trong những tác phẩm này, do kiến trúc sư Shigeru Ban thực hiện, được trang bị bằng những phòng nhỏ (buồng) nhiều màu sắc và trong suốt và chúng trở nên mờ đục khi người ta đóng cửa lại. Theo kiến trúc sư này, có một thiết bị cho phép đáp ứng hai mối quan tâm có thể có của những người dùng nhà vệ sinh: kiểm tra tình trạng vệ sinh sạch sẽ và bảo đảm rằng không có người nào đang ở bên trong.

Nhà vệ sinh trong suốt, Shibuya

Print Friendly and PDF