1.6.23

Trực quan trong toán học (G. Bouligand, 1944)

TRỰC QUAN TRONG TOÁN HỌC (1944)

Tác giả: Georges Bouligand[1]
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa

*

Các chân lý toán học không hoàn toàn là những sáng tạo thuần túy ý tưởng; Émile Boutroux[2] từng nói rằng tư tưởng toán học là “một sự thích nghi tự nguyện và thông minh của tư duy vào sự vật”.

Trong trích đoạn dưới đây, Georges Bouligand cho rằng chúng ta có thể tìm thấy ở cơ sở, cũng như xuyên suốt quá trình phát triển của toán học, một số trực giác nhất định.

*

Các khía cạnh trực quan của Toán học được liên kết với những ấn tượng khác nhau của các giác quan mà chúng ta có, và với những ký ức về chúng. Điều quan trọng cho sự nảy nở của hoạt động tiền-toán-học là ký ức về những đối tượng, ở đó một tính chất chung có thể được cảm nhận, cho dù tính chất ấy chỉ được thực hiện một cách sơ sài. Hơn nữa, sự không hoàn hảo của các giác quan của ta đôi khi còn tạo ra ảo tưởng rằng tính chất ấy là biểu hiện trung thành của hiện thực. [...]

Có những trực giác được liên kết với ký ức về những sự vật cụ thể: đấy là trường hợp của những trực giác khơi dậy các ý niệm về tính liên tục, ý niệm đường thẳng, ý niệm đường thẳng góc với một mặt phẳng, cũng như một lượng lớn các ý niệm khác bắt nguồn từ địa vật lý học chẳng hạn. Chúng ta có thể bao gồm chúng trong thuật từ: trực quan tức thời (intuition immédiate). [...]

Print Friendly and PDF

30.5.23

Mười điểm về các kim loại chiến lược

MƯỜI ĐIỂM VỀ CÁC KIM LOẠI CHIẾN LƯỢC

Trong các công nghệ có khả năng đảm bảo quá trình chuyển đổi năng lượng, nguyên liệu trọng yếu đóng vai trò then chốt. Vào thời điểm mà châu Âu đang tìm cách giảm bớt sự phụ thuộc vào các chuỗi giá trị nước ngoài, vì sao các kim loại này lại là chất xúc tác đối với mọi tình hình căng thẳng?

Quay trở lại 10 điểm tổng hợp về các nguồn tài nguyên này ở trung tâm cuộc đối đầu giữa các chủ nghĩa tư bản chính trị.

Emmanuel Hache Valérie Mignon

1 — Các loại kim loại khác nhau là gì?

Ngay cả khi không có sự phân loại địa chất hoàn hảo nào về kim loại, chúng ta có thể gộp các kim loại đó thành bốn loại chính:[1]

     Kim loại cơ bản: nhôm, crom, đồng, thiếc, sắt, ma-giê, mangan, chì, niken, titani, kẽm;

     Kim loại quý: bạc, iridi, vàng, osmi, palađi, bạch kim, rhodi, rutheni;

     Actini, tương ứng với các kim loại năng lượng hạt nhân: plutoni, thori, urani;

     Kim loại chuyên biệt: tất cả các kim loại khác.

Chúng ta cũng có thể phân biệt các kim loại đó theo sự tồn tại của chúng trong lớp vỏ trái đất, được đo bằng đơn vị phần triệu (ppm). Về mặt này, chúng ta phân biệt:

     Kim loại dồi dào: là những kim loại có hàm lượng lớn hơn 1000 ppm (0,1%) như nhôm, canxi, sắt, ma-giê, kali, silic, natri và titani;

     Kim loại hiếm hoặc ít dồi dào: đây là những kim loại có số lượng nhiều nhất, có hàm lượng tồn tại trong lớp vỏ trái đất nằm trong khoảng từ 1 đến 1000 ppm (coban, đồng, molypden, niken, chì, vonfram, kẽm);

     Kim loại rất hiếm: hàm lượng dưới 1 ppm; loại này bao gồm các kim loại quý (bạc, vàng và sáu kim loại thuộc platinoid – iridi, osmi, palađi, bạch kim, rhodi và rutheni), cũng như antimon, indi và seleni.

Điều quan trọng nữa là không nên nhầm lẫn giữa kim loại hiếm với đất hiếm. Thực vậy, đất hiếm là loại nguyên liệu ít hiếm hơn so với tên gọi của nó, do mật độ của nó trong lớp vỏ trái đất cao hơn mật độ của vàng hoặc bạc; tính hiếm của nó xuất phát từ sự khó khăn kinh tế trong việc khai thác nó và những hậu quả về môi trường của việc khai thác nó. Đất hiếm liên quan đến một tập hợp gồm 17 nguyên tố hóa học (scandi, ytri và mười lăm lanthanide) có phản ứng hóa học khá mạnh và có những thuộc tính điện từ khiến nó trở thành nguyên liệu không thể thiếu trong việc chế tạo các sản phẩm công nghệ cao. Đất hiếm thường được coi là vitamin của các nền kinh tế hiện đại, vì việc khai thác nó cho phép đạt được một hiệu quả sản phẩm cao hơn đối với những công nghệ sử dụng nó.

Đất hiếm thường được coi là vitamin của các nền kinh tế hiện đại, vì việc khai thác nó cho phép đạt được một hiệu quả sản phẩm cao hơn đối với những công nghệ sử dụng nó.

Emmanuel Hache và Valérie Mignon

Print Friendly and PDF

28.5.23

Những bất đồng được thể hiện thế nào ở Trung Quốc?

NHỮNG BẤT ĐỒNG ĐƯỢC THỂ HIỆN NHƯ THẾ NÀO Ở TRUNG QUỐC?

Phỏng vấn David Ownby

do Émilie Frenkiel[*] thực hiện

Mặc dù quyền tự do ngôn luận, tự do đi lại và tự do xuất bản bị hạn chế, giới trí thức vẫn có thể thể hiện những quan điểm phê phán và bất đồng chính kiến ​​thông qua những phương thức ​​lệch chuẩn/gián tiếp/ngoài lề/quanh co.

David Ownby

David Ownby là một nhà sử học về các tôn giáo dân gian ở Trung Quốc hiện đại và đương đại. Giáo sư tại Đại học Montréal, ông nghiên cứu sự phát triển của tôn giáo trong bối cảnh những biến động về thể chế và xã hội của thế kỷ 19 và 20. Ông đã nghiên cứu các hội kín dưới triều đại nhà Thanh trước khi bắt tay vào một cuộc khảo sát dài về những người theo Pháp Luân Công ở Bắc Mỹ. Ông hiện đang tham gia vào một dự án tập thể rộng lớn về dịch thuật và phân tích các trí thức Trung Quốc của những năm 2000, giúp tiếp cận và lập bản đồ các ấn phẩm của họ.

Ông là tác giả của cuốn Xem xét lại các hội kín: quan điểm về lịch sử xã hội của Nam Trung Quốc và Đông Nam Á hiện đại/ Secret societies reconsidered: perspectives on the social history of modern South China and Southeast Asia, Armonk, 1993 (với Mary Somers Heidhues); Các hội huynh đệ và hội kín ở Trung Quốc thời kỳ đầu và giữa triều đại Nhà Thanh: sự hình thành truyền thống/ Brotherhoods and secret societies in early and mid-Qing China: the formation of tradition, Nhà xuất bản Đại học Stanford 1996; Pháp Luân Công và tương lai của Trung Quốc/ Falungong and the future of China, Oxford University Press, 2008; (với Vincent Goossaert và Ji Zhe) Lập các thánh ở Trung Quốc hiện đại/ Making saints in modern China, Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2011, và các bài báo được xuất bản đáng chú ý trên China Information, Archives des sciences sociales des religions, Perspectives Chinoises, Sociologie et sociétés.

La Vie des Idées: Tình trạng học thuật và trí tuệ ở Trung Quốc ngày nay như thế nào, trong bối cảnh nhiệm kỳ thứ 3 của Tập Cận Bình, Đại hội Đảng lần thứ 20 và Covid?

Cai Xia (1952-)
Xu Zhangrun (1962-)

David Ownby: Theo tôi, rất ít trí thức hoặc học giả ở Trung Quốc cảm thấy lạc quan vào lúc này. Tôi không biết liệu điều kiện vật chất của các học giả/giáo sư đại học có xuống cấp hay không (không phải do việc đóng cửa vì đại dịch); thông thường, các giáo sư, đặc biệt là tại các trường đại học ưu tú, không gặp khó khăn về mặt kinh tế đang gây khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Trung Quốc, nhưng những người đã quen với việc đi nước ngoài để nghiên cứu lại cảm thấy thất vọng và rất nhiều những cuộc trao đổi quốc tế đã bị đóng băng/hủy bỏ, đó là một điều rất quan trọng đối với một nhóm trước đại dịch đã đi rất nhiều nơi và tiếp đón rất nhiều đồng nghiệp nước ngoài. Ngoài ra, ngay từ đầu nhiệm kỳ của mình, Tập Cận Bình đã cố gắng áp đặt lại một kỷ luật ý thức hệ đối với giới trí thức và học thuật, một sự chuyển hướng dẫn đến sự thu hẹp quyền tự do ngôn luận của họ (các giáo sư) và những khó khăn về mặt xuất bản. Họ thường phàn nàn về những khó khăn trong việc xuất bản sách và bài báo của họ, về những sự gia hạn không ngừng; nói chung, vấn đề thường ở cấp biên tập và phản ánh mối lo sợ bị chỉ trích, nhưng đồng thời chúng ta cũng chứng kiến ​​những trường hợp học giả bị mất việc làm, mất lương, lương hưu vì dám chỉ trích Đảng và lãnh tụ của Đảng (Thái Hà/Cai Xia, Hứa Chương Nhuận/Xu Zhangrun). Việc Tập Cận Bình đã thành công trong việc đi ngược lại ước muốn của Đặng Tiểu Bình và sửa đổi hiến pháp để được ban thêm một nhiệm kỳ thứ 3 chỉ làm tăng thêm sự bất mãn chung; cảm tưởng của tôi là phần đông giới trí thức Trung Quốc không có tình cảm đặc biệt với Tập, và đối với họ viễn cảnh 5 năm nữa chỉ mang lại những điều không có gì là tốt lành đối với họ.

Print Friendly and PDF

26.5.23

Eunice Foote, nhà khoa học nữ đầu tiên đã nêu ra lý thuyết về biến đổi khí hậu

EUNICE FOOTE, NHÀ KHOA HỌC NỮ ĐẦU TIÊN (VÀ CŨNG LÀ NGƯỜI ĐẤU TRANH CHO QUYỀN BẦU CỬ CỦA PHỤ NỮ -SUFFRAGETTE-) ĐÃ NÊU RA LÝ THUYẾT VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Tác giả: Manuel Peinado Lorca*

Trường Troy Female Seminary nơi Eunice Foote đã phát triển các năng lực khoa học thực nghiệm của mình (1800). Library of Congress, CC BY-NC-ND

Năm 1859, nhà vật lý người Ireland John Tyndall là người đầu tiên đã phát hiện ra những phân tử khí carbonic, metan và hơi nước (mà ngày nay ta gọi là khí gây hiệu ứng nhà kính, viết tắt là GES) ngặn chặn bức xạ tia hồng ngoại. Người ta xem ông là nhà khoa học đầu tiên đã báo trước những tác động mà những thay đổi nhỏ này trong thành phần của khí quyển gây ra cho khí hậu. Ít nhất đó là điều mà người ta dạy trong tất cả các phân khoa khoa học trên toàn thế giới.

Không lược bỏ bất kỳ điều gì từ những nghiên cứu của Tyndall cũng như những nghiên cứu sau này của nhà khoa học Thụy Điển đã đạt giải Nobel Steven Arrhenius, được xem là người đã phát hiện ra hiệu ứng nhà kính, các nhà khoa học đương thời không quan tâm đến công trình của Eunice Newton Foote (1819-1888). Theo chuyện kể của Leila McNeill trên tạp chí Smithsonian, nhà khoa học này (Eunice Foote) đã thực hiện các thí nghiệm của bà vào năm 1856, ba năm trước khi Tyndall nêu ra các kết quả của mình và 40 năm trước khi Arrhenius tiết lộ những phát hiện của ông.

Người phụ nữ Mỹ này là nhà khoa học đầu tiên đã đưa ra lý thuyết theo đó thì ngay cả những mức tăng vừa phải của sự tập trung khí carbonic (CO2) trong khí quyển cũng có thể gây ra một sự nóng lên toàn cầu đáng kể.

Từ đó, mối quan hệ này giữa khí CO2 và khí hậu đã trở thành một trong những nguyên tắc mấu chốt của khí tượng học hiện đại, của hiệu ứng nhà kính và của khí hậu học. Nhưng không có ai đã nhìn nhận rằng Foote là người đầu tiên phát hiện ra điều đó – hơn nữa, bà còn là một trong những người thiết lập Công ước Seneca Falls, hội nghị đầu tiên vào năm 1848 bàn về quyền phụ nữ.

Print Friendly and PDF

24.5.23

Các triết gia đã nghiên cứu “phản thực tế” trong nhiều thập kỷ. Liệu chúng có giúp ta mở khóa những bí ẩn của AI không?

CÁC TRIẾT GIA ĐÃ NGHIÊN CỨU “PHẢN THỰC TẾ” TRONG NHIỀU THẬP KỶ. LIỆU CHÚNG CÓ GIÚP TA MỞ KHÓA NHỮNG BÍ ẨN CỦA AI KHÔNG?

Xuất bản: 26 tháng 1 năm 2023 7:04 chiều theo giờ GMT

Phản thực tế là tuyên bố về những gì sẽ xảy đến, nếu một việc nào đó đã diễn ra theo cách khác. Chẳng hạn, chúng ta có thể hỏi thế giới sẽ như thế nào nếu Internet chưa bao giờ được phát triển. Ảnh: Shutterstock

Trí tuệ nhân tạo đang được triển khai ngày càng nhiều trên khắp thế giới để hỗ trợ đưa ra các quyết định trong cuộc sống, dù cho đó là quyết định cho vay của ngân hàngchẩn đoán y tế hay việc cơ quan thực thi pháp luật Hoa Kỳ dự đoán khả năng tái phạm của tội phạm.

Tuy nhiên, nhiều hệ thống AI là các hộp đen: chẳng ai hiểu chúng hoạt động ra sao. Chính điều này đã dẫn đến nhu cầu về “AI có thể giải thích được” [explainable AI], để chúng ta có thể hiểu tại sao một mô hình AI lại cho ra một kết quả cụ thể và những thiên kiến nào có thể đã góp phần tạo ra kết quả này.

AI có thể giải thích là một nhánh đang lớn mạnh trong nghiên cứu AI. Nhưng có lẽ còn ít người biết đến vai trò của triết học trong sự phát triển này.

Cụ thể, một ý tưởng được gọi là “giải thích phản thực tế” thường được đưa ra như một giải pháp cho các vấn đề về hộp đen. Nhưng một khi bạn hiểu triết lý đằng sau đó, bạn có thể bắt đầu hiểu ra vì sao nó không được như mong đợi.

Print Friendly and PDF

22.5.23

Người ăn không

NGƯỜI ĂN KHÔNG

Free rider

è Giải Nobel: BUCHANAN, 1986 VICKREY, 1996

Người ăn không (người đi tàu không có vé) thường được mô tả một cách quá đáng như một kẻ hưởng lợi nhờ gian lận do thu được một lợi thế ròng từ một tình thế mà không phải gánh chịu cái giá phải trả, thật ra là người thụ hưởng việc tiêu dùng một sản phẩm tập thể do nhiều người khác trả và không thể cấm cản người này tiêu dùng sản phẩm này song không vì thế mà có quyền đòi hỏi người này phải chi trả cho sản phẩm này. Ví dụ đó là trường hợp của người di chuyển không có vé xe trên những phương tiện công cộng mà không làm hại cho những khách khác vì còn chỗ trống và do Nhà nước có thể cho quyền sử dụng những chỗ này vào cuối ngày. Đó cũng là trường hợp của người thất nghiệp được hưởng miễn phí nhiều dịch vụ công, của người tuy trốn thuế nhưng được hưởng những lợi thế của những dịch vụ công cho dù người này không đều đặn trả thuế cá nhân, của đứa trẻ được ăn căng-tin miễn phí do thu nhập của bố mẹ bé quá thấp, của người làm công ăn lương không đình công nhưng lại hưởng lợi từ những tác động của cuộc đình công và minh hoạ cho nghịch lí của hành động tập thể bị Mancur Olson tố cáo.

Trong thực tế ta gặp những tình thế người ăn không trong những qui tắc tài trợ các sản phẩm tập thể thuần tuý, do đó không chia nhỏ được dưới tác động của tính không loại trừ khỏi việc sử dụng, và có tiêu dùng tự động. Trong tất cả những trường hợp vừa nêu, người ăn không là thực tình. Ngược lại người ăn không thao túng những người quanh mình nếu có những hành vi chiến lược khiến người này bộc lộ một mức sẵn sàng chi trả cận biên thấp hơn mức mà người này thật sự cảm nhận. Bằng cách không bộc lộ sở thích thật của mình nhằm tối thiểu hoá đóng góp cận biên của mình, người ăn không để cho những người khác phải gánh chịu về mặt thuế việc tài trợ sản phẩm tập thể; trong nghĩa này người ăn không ứng xử như một kẻ gian lận. Trong trường hợp này, những khái niệm người ăn không và bộc lộ sở thích gắn chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên việc đồng hoá người ăn không với người gian lận là tế nhị và không đúng một khi ta áp dụng vào trường hợp tiêu dùng tập thể bắt buộc cho phép đấu thủ (theo nghĩa của lí thuyết trò chơi – ND) lợi dụng một cách thụ động một tình thế tập thể mà người này không yêu cầu, ví dụ một cuộc đình công.

Print Friendly and PDF

20.5.23

Từ vàng sang Bitcoin và hơn thế nữa

TỪ VÀNG SANG BITCOIN VÀ HƠN THẾ NỮA

Tài chính có thể tiếp cận nhiều người hơn nữa trong một tương lai hầu như không dùng tiền mặt theo hình dung của một nhà kinh tế.

Paola Subacchi

Một người biểu tình ở San Salvador phản đối việc El Salvador chấp nhận Bitcoin là tiền tệ hợp pháp. Ảnh: Camilo Freedman/Bloomberg/Getty

Tương lai của tiền: Cách mạng kỹ thuật số đang biến đổi tiền tệ và tài chính ra sao Eswar S. Prasad Belknap (2021)

Muốn hiểu xem tại sao người dân lại xuống đường vì việc chấp nhận Bitcointiền tệ hợp pháp ở El Salvador? Hãy đến với cuốn sách Tương lai của tiền được nghiên cứu kỹ lưỡng của nhà kinh tế học Eswar Prasad. Anh giải thích, những đổi mới trong hệ thống thanh toán và tiền tệ phản ánh cả những thay đổi đáng kể trong nền kinh tế thế giới khi nó liên kết các quốc gia đang phát triển lớn, chẳng hạn như Trung Quốc lẫn sự chuyển đổi kỹ thuật số toàn diện. Khi tiền được tự do di chuyển khắp thế giới, Prasad thăm dò cách đổi mới kỹ thuật số đang định hình lại tiền tệ về mặt công cụ lẫn khái niệm.

Print Friendly and PDF

18.5.23

Liệu máy có biết ta biết những gì nó biết không?

LIỆU MÁY CÓ BIẾT TA BIẾT NHỮNG GÌ NÓ BIẾT KHÔNG?

Một số nhà nghiên cứu cho rằng các phần mềm chatbot đã phát triển thuyết tâm trí. Nhưng điều đó có khiến cho thuyết tâm trí của chúng ta trở nên hoang dại không?

Ngày 27 tháng 3 năm 2023

Các nhà khoa học nhận thức đã khám phá ra các cách để kiểm tra những loại năng lực tinh thần mà các mô hình ngôn ngữ lớn như ChatGPT sở hữu và không sở hữu. Nguồn: vrvr/Alamy

Đọc tâm trí là việc phổ biến ở con người chúng ta. Không phải theo cách các nhà tâm linh [psychics] tuyên bố sẽ làm điều đó, mà theo cách tiếp cận với những luồng ý thức ấm áp lấp đầy kinh nghiệm của mỗi cá nhân, hoặc theo cách các nhà tâm thức học [mentalist] tuyên bố sẽ làm điều đó, bằng cách kéo một suy nghĩ ra khỏi đầu bạn theo mong muốn. Việc đọc tâm trí hàng ngày thì tinh tế hơn: chúng ta ghi nhận khuôn mặt và chuyển động của mọi người, lắng nghe lời ăn tiếng nói của họ rồi quyết định hoặc cảm nhận được là điều gì có thể diễn ra trong đầu họ.

Tâm lý trực giác như vậy — tức khả năng gán trạng thái tinh thần của người khác cho trạng thái tinh thần của chúng ta — được các nhà tâm lý học gọi là thuyết tâm trí [theory of mind], và sự vắng mặt hoặc khiếm khuyết của nó có liên quan tới chứng tự kỷ, chứng tâm thần phân liệtcác rối loạn phát triển khác. Thuyết tâm trí giúp chúng ta giao tiếp với và hiểu được người khác; nó cho phép chúng ta thưởng thức văn chương và phim ảnh, chơi trò chơi và hiểu được các môi trường xã hội quanh ta. Trên nhiều phương diện, năng lực này là một phần thiết yếu của con người.

Print Friendly and PDF

16.5.23

Các nước BRICS muốn một trật tự thế giới mới. Trật tự thế giới này sẽ là đa cực hay Trung-Mỹ?

CÁC NƯỚC BRICS MUỐN MỘT TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI. TRẬT TỰ THẾ GIỚI NÀY SẼ LÀ ĐA CỰC HAY TRUNG-MỸ?

Zakaria Sorgho[*]

Tổng thống Brazil Luiz Inacio Lula da Silva bắt tay Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sau lễ ký kết được tổ chức tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, Trung Quốc vào ngày 14 tháng 4 năm 2023. (Ken Ishii/Pool Photo qua AP)

Trong bài phát biểu khai mạc tại Hội nghị các Đại sứ vào tháng 8 năm 2019, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã gợi ý rằng “có lẽ chúng ta đang chứng kiến ​​sự kết thúc của quyền bá chủ của phương Tây trên thế giới″.

Một sự bá chủ phương Tây mà, theo ông, có thể là của Pháp vào thế kỷ 18, lấy cảm hứng từ thời đại Khai sáng, có thể là của Anh vào thế kỷ 19 nhờ cách mạng công nghiệp, rồi của Mỹ vào thế kỷ 20 sau hai cuộc chiến tranh thế giới.

Nhưng với sự xuất hiện của các quốc gia BRICS – B(razil), R(ussia), I(ndia), C(hina), S(outh Africa), từ viết tắt bao gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi, chúng ta đang chứng kiến ​​một trong những thay đổi quan trọng nhất trong quan hệ quốc tế kể từ cuộc cách mạng công nghiệp. Ban đầu được thành lập vào năm 2009 với tên gọi BRIC, chữ “S” đã được thêm vào năm 2011 với sự gia nhập của Nam Phi.

Ý muốn được các nước BRICS nêu bật là sự chuyển đổi cấu trúc “lấy phương Tây làm trung tâm” của trật tự kinh tế thế giới hiện tại thành một hệ thống quốc tế đa trung tâm hoặc đa cực.

Họ có đang thành công không?

Print Friendly and PDF

15.5.23

Đại dương chưa bao giờ nóng như thế: điều gì xảy ra tiếp theo?

ĐẠI DƯƠNG CHƯA BAO GIỜ NÓNG NHƯ THẾ: ĐIỀU GÌ XẢY RA TIẾP THEO?

Nhiệt độ thời tiết kỷ lục kết hợp với hiện tượng El Niño được dự đoán có thể tàn phá sinh vật biển và làm tăng khả năng xảy ra thời tiết khắc nghiệt.

Tác giả: Nicola Jones

Nhiệt độ các đại dương nóng lên có thể tẩy trắng và giết chết san hô. Nguồn: Juergen Freund/NPL

Đại dương trên toàn cầu đạt nhiệt độ kỷ lục mới là 21,1ºC vào đầu tháng 4, cao hơn 0,1ºC so với kỷ lục cuối vào tháng 3 năm 2016. Mặc dù gây ấn tượng mạnh nhưng con số (xem biểu đồ “Nhiệt độ đại dương đang nóng lên như thế nào”) phù hợp với nhiệt độ nóng lên của đại dương được dự đoán từ hiện tượng biến đổi khí hậu. Điều đáng chú ý là nó xảy ra trước — chứ không phải trong thời gian xảy ra — hiện tượng khí hậu El Niño dự kiến sẽ dẫn đến nhiệt độ thời tiết nóng hơn, ẩm ướt hơn cho khu vực phía đông Thái Bình Dương vào cuối năm nay.

Điều đó có nghĩa là nhiệt độ nóng hơn mức trung bình của đại dương có nhiều khả năng tiếp tục tồn tại hoặc thậm chí tăng lên, dẫn đến thời tiết khắc nghiệt hơn và sóng nhiệt biển, gây ra các vấn đề cho sinh vật biển từ san hô đến cá voi.

Josh Willis, nhà hải dương học tại Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA ở Pasadena, California, cho biết: “Chúng ta có thể đang chứng kiến một chuỗi các mức kỷ lục cao trong năm tới hoặc lâu hơn. Năm tới sẽ là một mức cao điên cuồng nếu El Niño thực sự bùng phát.”

Print Friendly and PDF