12.11.24

Vĩnh biệt nước Mỹ? Vài suy nghĩ quanh một bức tranh

VĨNH BIỆT NƯỚC MỸ? VÀI SUY NGHĨ QUANH MỘT BỨC TRANH

Đỗ Tuyết Khanh

Biếm hoạ “Adieu l’Amérique?” của Chappatte trên báo Thuỵ Sĩ Le Temps đăng từ ngày 9.11.2024.

Bức tranh không lời nhưng nói lên đầy đủ cái sốc và tâm trạng của rất nhiều người sau ngày bầu cử tổng thống ở Hoa Kỳ vừa qua.

Tượng Nữ thần Tự Do, một trong những hình tượng tiêu biểu và đáng kính nhất của nước Mỹ bị thắt cổ bằng chiếc cà-vạt đỏ như máu và dài quá khổ, thường được chế giễu như thể hiện cái machisme trắng trợn của vị tân tổng thống. Lăn lóc dưới đất một bên là ngọn đuốc vốn được nữ thần giương cao, tượng trưng cho ánh sáng soi sáng thế giới và dẫn dắt đến tự do, chào đón người di dân đến xứ sở của tự do và dân chủ. Lửa của ngọn đuốc đã tắt, những giá trị cơ bản của nước Mỹ đã tan ra mây khói. Phía bên kia là tấm bảng trước nằm trong tay nữ thần, ghi ngày tháng của bản Tuyên ngôn độc lập nước Hoa Kỳ, văn kiện nền tảng của quốc gia.

Thông điệp quá rõ ràng: Nước Mỹ thường được xem và tự hào là biểu tượng của tự do và dân chủ đang bước vào một thời kỳ đen tối khi dối trá và phản đạo lý, bất chấp luật pháp, hiến pháp lên ngôi, tham lam quyền lực và của cải là động cơ duy nhất để chiếm lấy vị trí tối thượng trên chính trường. Cứ nhớ đến 4 năm nhiệm kỳ đầu tiên của người sắp trở lại Toà Nhà trắng thì viễn tượng của 4 năm sắp tới có thể còn u ám và não nề hơn bức tranh này, cho nước Mỹ vả cả thế giới.

Print Friendly and PDF

10.11.24

BRICS, châu Á và vấn đề đồng đô la

BRICS, CHÂU Á VÀ VẤN ĐỀ ĐỒNG ĐÔ LA

Hubert Testard

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và người đồng cấp Nga Vladimir Putin trong hội nghị thượng đỉnh BRICS ở Kazan, Nga, ngày 22 tháng 10 năm 2024. (Nguồn: HGT)

Hội nghị thượng đỉnh BRICS vừa diễn ra ở Kazan đánh dấu một bước ngoặt. Tổ chức này đang trong giai đoạn mở rộng nhanh chóng và có tham vọng từ nay sẽ bàn bạc tất cả các vấn đề quốc tế lớn. Các nước châu Á đóng vai trò quan trọng cho tương lai của BRICS. Không có dự án mang tính cơ cấu nào – đặc biệt là tiến trình phi đô la hóa – có thể được thực hiện ngoài sự lãnh đạo của Trung Quốc và dần dần là của Ấn Độ.

***

Hội nghị thượng đỉnh BRICS lần thứ 16 diễn ra tại Kazan từ ngày 22 đến 24/10. Nó quy tụ năm thành viên sáng lập của tổ chức (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi), năm thành viên mới gia nhập kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2024 (Iran, Ai Cập, Ả Rập Saudi, Ethiopia, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất), và 25 quốc gia khác cũng như một số đại diện của các tổ chức quốc tế, với sự tham gia đáng chú ý của Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres.

Print Friendly and PDF

8.11.24

'Liệu học bằng này ra trường có việc làm không?' là câu hỏi sai. Đây mới là điều bạn nên hỏi

'LIỆU HỌC BẰNG NÀY RA TRƯỜNG CÓ VIỆC LÀM KHÔNG?' LÀ CÂU HỎI SAI. ĐÂY MỚI LÀ ĐIỀU BẠN NÊN HỎI

Good Free Photos/UnsplashCC BY

Thời gian này là mùa tham quan trường đại học và đưa ra các quyết định học tập cho học sinh lớp 12.

Là một học giả, câu hỏi mà tôi nhận được nhiều nhất từ học sinh và phụ huynh là “bằng cấp này có giúp tôi có việc làm không?”.

Chuyện này rất dễ hiểu. Tuy nhiên, đây không hẳn là câu hỏi đúng khi những người trẻ cân nhắc xem khóa học nào phù hợp nhất với mình.

Chỉ chú tâm vào triển vọng công việc trước mắt (“bằng cấp đồng nghĩa với việc làm”) có thể giới hạn sự hiểu biết về những gì các khóa học đại học thực sự mang lại.

Print Friendly and PDF

7.11.24

Muốn chống lại bất bình đẳng giới? Một đánh giá dữ liệu từ 118 quốc gia cho thấy viện trợ phát triển có hiệu quả

MUỐN CHỐNG LẠI BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI? MỘT ĐÁNH GIÁ DỮ LIỆU TỪ 118 QUỐC GIA CHO THẤY VIỆN TRỢ PHÁT TRIỂN CÓ HIỆU QUẢ

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng viện trợ có những tác động đặc biệt mạnh mẽ ở Tanzania. Wilpunt/E+ qua Getty Images

Bất bình đẳng giới không chỉ là bất công — mà còn là gánh nặng lâu dài của nền kinh tế thế giới. Một phân tích cho thấy việc trao cho phụ nữ những cơ hội kinh tế giống như nam giới sẽ giúp tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu tăng thêm khoảng 12 nghìn tỷ đô la Mỹ trước năm 2025. Đó là mức tăng trưởng 11%.

Mối liên hệ giữa việc trao quyền cho phụ nữ và sự tăng trưởng kinh tế đã được xác lập rõ ràng. Khi phụ nữ được trao quyền về kinh tế, họ đầu tư nhiều hơn cho gia đình của họ, tạo ra một chu kỳ của những kết quả tích cực trải dài qua nhiều thế hệ. Sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động dẫn đến năng suất cao hơn và mang lại các góc nhìn đa chiều giúp tăng cường khả năng ra quyết định và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Nhận ra những lợi ích này, các chính phủ và các tổ chức phi chính phủ ngày càng hướng viện trợ - nguồn vốn cấp cho các nước đang phát triển để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - vào việc thúc đẩy sự trao quyền cho phụ nữ.

Là một nhà kinh tế nghiên cứu về phát triển, tôi muốn biết: Liệu tất cả số tiền đó có thực sự tạo nên sự khác biệt không? Vậy nên, trong một nghiên cứu gần đây, các đồng nghiệp của tôi và tôi đã phân tích tác động của viện trợ có-liên-quan-đến-giới đến bất bình đẳng giới bằng cách sử dụng dữ liệu từ 118 quốc gia trong khoảng thời gian 13 năm, từ năm 2009 đến năm 2022.

Những phát hiện của chúng tôi là đáng khích lệ: Viện trợ có-liên-quan-đến-giới đã làm giảm bất bình đẳng ở hầu hết các quốc gia mà chúng tôi nghiên cứu.

Print Friendly and PDF

4.11.24

Có phải tất cả các hình ảnh đều giả mạo? Trí tuệ nhân tạo thời ngờ vực lan rộng

Top of Form

CÓ PHẢI TẤT CẢ CÁC HÌNH ẢNH ĐỀU GIẢ MẠO? TRÍ TUỆ NHÂN TẠO THỜI NGỜ VỰC LAN RỘNG

Góc nhìn thời sựSức mạnh của trí tuệ nhân tạo

Trong vòng vài tháng, trí tuệ nhân tạo đã xoá đi một sự phân biệt: không thể biết được một hình ảnh là “thật” hay “giả”. Điều này đã không làm cho chúng ta ngu hơn hay cả tin hơn nhưng làm chúng ta hoài nghi hơn một cách không tưởng tượng nỗi.

Khi nhiếp ảnh không còn là chứng cứ của cái thực, mỗi hình ảnh trở thành một đối tượng ngờ vực và đặt ra cho chúng ta một câu hỏi gây chóng mặt: phải đưa ra cái gì để được tin?

Tác giả: Raphaël Doan

Samuel van Hoogstraten, «Nature morte en trompe-l'œil» - Ảo giác tĩnh vật -, 1664, musée de Dordrecht

Vào thế kỷ XVII đã có một cuộc tranh cãi về nghệ thuật được biết đến với cái tên: tranh cãi về màu sắc. Cuộc tranh cãi này đối chọi, trong hội hoạ, giữa những người bảo vệ hình vẽ và những người bảo vệ màu sắc; giữa những người mà đối với họ hình dáng và đường nét vẽ ra là yếu tố chính của một bức tranh, và những người chỉ quyết tuân theo những cảm nhận do màu sắc gợi ra.

Về một vài khía cạnh, tổng hợp hình ảnh do trí tuệ nhân tạo đưa chúng ta trở lại với sự phân biệt xưa cũ này về hội hoạ. Từ lâu chúng ta đã chấp nhận là các hình ảnh được sửa đổi qua các màng lọc màu sắc. Hầu hết các hình ảnh được chụp chuyên nghiệp đều được trau chuốt lại theo cách này, để thay đổi độ phơi sáng, độ bão hoà, độ sáng, những đường cong của bóng tối. Instagram đã phổ biến cách làm này bằng cách áp dụng dễ dàng các màng lọc chỉnh sửa cho các hình ảnh cá nhân. Đó là một sự thay đổi hình ảnh sâu sắc, bối cảnh và ngay cả ý nghĩa của hình ảnh có thể thay đổi hoàn toàn qua sự biến đổi màu sắc. Tuy nhiên, hiếm khi thấy sự dối trá ở đó. Cùng lắm thì người ta nói những tấm hình được sửa đổi trên Intagram là được trang điểm hơi quá; người ta sẽ không đến nỗi nói rằng một tấm hình được sửa đổi như vậy có thể tạo nên một tin giả (fake news).

Print Friendly and PDF

2.11.24

Trí tuệ, Trí năng, Trí khôn và AI

TRÍ TUỆ, TRÍ NĂNG, TRÍ KHÔN VÀ AI

Hà Dương Tuấn

1. “Trí năng nhân tạo” hay “trí tuệ nhân tạo”, thiểu số thua đa số(*)

Thời gian khoảng hơn chục năm, cỡ trước và sau đầu thế kỷ 21, tác giả bài này hay về VN làm xêmina để thông tin về tin học và viễn thông trên thế giới, và bàn luận với các đồng nghiệp VN để cùng tìm hiểu về AI (tuy AI chưa nổi đình đám như hiện nay).

Khi đó từ ngữ mà tôi đã đề nghị để dịch thuật ngữ “Artificial Intelligence, AI” là “trí năng nhân tạo”, vì “tuệ năng” thì theo tôi chưa ai thấy cái máy nào có cả (bây giờ vẫn thế), còn từ kép “trí năng” nói về chức năng (hay/và năng lực) hiểu biết và suy luận. Tôi cho rằng máy có được cái “trí” như thế của con người đã là ghê gớm lắm rồi, còn “tuệ” thì không. Nhưng rất tiếc là lúc ấy, ý kiến này không được phần đông các đồng nghiệp tin học ở VN và các chuyên gia tin học Việt kiều (mà tôi quen) trên thế giới đồng ý. Rồi cách dùng từ ngữ “trí tuệ nhân tạo này từ lâu đã đi vào truyền thông.

Thôi thì chẻ làm đôi, trong thời buổi toàn cầu hoá này xin đề nghị viết khắp nơi ký hiệu độc nhất “AI”, để nói về những nghiên cứu và những hệ AI sản phẩm nghiên cứu, cùng các ứng dụng của chúng, cho nó vừa gọn vừa lành. Một giải pháp khác thường được dùng trong các từ điển là đăng tải và giải thích hai ý nghĩa khác nhau của thuật ngữ “trí tuệ”, nhưng việc bổ sung từ điển dĩ nhiên ngoài tầm tay của tôi.

Print Friendly and PDF

31.10.24

Khí hậu: Toà Án Quốc tế về Luật Biển đưa ra một quyết định mang tính lịch sử

Để nêu lên ý kiến của mình, Toà Án Quốc tế về Luật Biển đã dựa vào báo cáo mới nhất của Groupe d'experts intergouvernemental sur l'évolution du climat (GIEC) - Nhóm chuyên gia liên chính phủ về diễn biến khí hậu - Shutterstock

KHÍ HẬU: TOÀ ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN ĐƯA RA MỘT QUYẾT ĐỊNH MANG TÍNH LỊCH SỬ

Tác giả: Marta Torre-Schaub

Giám đốc nghiên cứu CNRS, luật gia, chuyên gia về biến đổi khí hậu và luật về môi trường và sức khoẻ, Đại học Paris 1 Panthéon-Sorbonne

Ngày 21 tháng tư 2024, Toà Án Quốc tế về Luật Biển (TIDM, gọi tắt là Toà Án trong bài báo này) đã đi vào lịch sử khi trở thành cơ quan pháp luật quốc tế đầu tiên đưa ra một ý kiến tư vấn về khí hậu. Qua đó, Toà Án đã trả lời một câu hỏi được đặt ra năm 2022 bởi Uỷ ban các Quốc gia đảo nhỏ (Cosis) trong khuôn khổ một yêu cầu về ý kiến tư vấn.

Ý kiến nêu kết luận về nghĩa vụ các quốc gia liên quan đến bảo vệ và bảo tồn các đại dương của hành tinh khỏi các hiệu ứng của biến đổi khí hậu. Đây là lần đầu tiên một toà án quốc tế chú tâm đến những nghĩa vụ của các quốc gia trong lĩnh vực biến đổi khí hậu trong khuôn khổ của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, gọi là “Montego Bay” - sẽ gọi là Công ước trong bài báo này.

Print Friendly and PDF

29.10.24

Những người đoạt giải Nobel giúp giải quyết câu đố bất bình đẳng

NHỮNG NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL GIÚP GIẢI QUYẾT CÂU ĐỐ BẤT BÌNH ĐẲNG

Ảnh chụp bởi Atila Altuntas/Anadolu, Getty Images

Trong khi ngay cả những nền kinh tế nghèo nhất thế giới cũng giàu lên thêm trong những thập kỷ gần đây, họ vẫn còn tụt hậu rất xa so với các nền kinh tế có thu nhập cao hơn – và khoảng cách này không hề thu hẹp lại. Theo các nhà kinh tế đoạt giải Nobel năm nay, lý do chính nằm ở các thể chế. Từ quá trình tái thiết Ukraine đến việc quản lý trí tuệ nhân tạo, những tác động này có hệ quả quan trọng và tầm ảnh hưởng rộng khắp.

BỨC TRANH TOÀN CẢNH

Ngày 14 tháng 10 năm 2024 | Các biên tập viên của PS

Giải Nobel Kinh tế năm nay đã được trao cho Daron AcemogluSimon Johnson và James A. Robinson vì đã mở mang sự hiểu biết của chúng ta về mối quan hệ giữa các thể chế và sự thịnh vượng. Các công cụ lý thuyết để phân tích tại sao và khi nào các thể chế thay đổi của những học giả này đã nâng cao đáng kể khả năng giải thích – và giải quyết – sự khác biệt lớn về sự giàu có giữa các quốc gia.

Thất bại của các nhà hoạch định chính sách trong việc nắm bắt cách thức hoạt động của các thể chế hiện lên rõ ràng ở Afghanistan. Như Acemoglu đã giải thích vào năm 2021, “sự sụp đổ nhục nhã” của đất nước này, và việc Taliban tiếp quản sau cuộc rút quân hỗn loạn của Mỹ, phản ánh ý tưởng sai lầm sâu sắc rằng một “nhà nước vận hành tốt” có thể được “áp đặt từ trên xuống bởi các lực lượng nước ngoài”. Như ông và Robinson đã chỉ ra trước đây, “cách tiếp cận này thật vô nghĩa khi khởi điểm bạn có là một xã hội cực kỳ hỗn tạp thiết lập xung quanh các phong tục và chuẩn mực địa phương, nơi các thể chế nhà nước đã vắng bóng hoặc bị suy yếu từ lâu”.

Các nhà lãnh đạo không nên mắc phải những sai lầm tương tự trong quá trình tái thiết Ukraine. Như Acemoglu và Robinson đã quan sát vào năm 2019, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, đất nước này “vẫn kẹt trong các thể chế tham nhũng trong giới cầm quyền vốn đã tạo ra một nền văn hóa tham nhũng và phá hủy lòng tin của công chúng”. Nếu Ukraine muốn phát triển sau khi cuộc chiến hiện tại kết thúc thì cần tránh việc khôi phục (áp đặt) từ trên xuống của các “thể chế tước đoạt” [extractive institutions] trong quá khứ, thay vào đó, cần huy động xã hội dân sự để “xây dựng các thể chế tốt hơn” từ cơ sở.

Acemoglu và Johnson còn lập luận rằng việc hiểu rõ hơn về các thể chế cũng chỉ đường cho chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Mặc dù sự trỗi dậy của ngành sản xuất Trung Quốc dường như là ví dụ hoàn hảo choquy luật lợi thế so sánh nổi tiếng của nhà kinh tế học thế kỷ 19 David Ricardo, Trung Quốc đã luôn dựa vào các thể chế đàn áp để đạt được lợi thế đó. Vì vậy, trái với giả định của quy luật Ricardo rằng mọi người đều được lợi, sức mạnh kinh tế của Trung Quốc “đe dọa sự ổn định toàn cầu và lợi ích của Hoa Kỳ” theo những cách mà Hoa Kỳ phải – và ngày càng ra sức định hướng chính sách của họ đối với quốc gia này.

Và không chỉ có Trung Quốc. Như Acemoglu đã chỉ ra, “dự án toàn cầu hóa hậu Chiến tranh Lạnh cũng tạo điều kiện cho chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy trên toàn thế giới”, chẳng hạn như ở Hungary, Ấn Độ, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong bối cảnh này, phương Tây phải suy nghĩ lại cách tiếp cận trong việc giao thiệp, cả về kinh tế và chính trị, với các quốc gia này.

Hồi đầu năm nay, Acemoglu và Johnson đã lưu ý rằng những hiểu biết sâu sắc của Ricardo cũng có liên quan đến các cuộc tranh luận về trí tuệ nhân tạo (AI). Việc máy móc “phá hủy hay tạo ra việc làm hoàn toàn phụ thuộc vào cách chúng ta triển khai chúng và vào những người đưa ra những lựa chọn đó”, họ viết, lưu ý rằng “cần có những cải cách chính trị lớn để tạo ra nền dân chủ thực sự, hợp pháp hóa các nghiệp đoàn, và thay đổi hướng tiến bộ công nghệ ở Anh trong Cách mạng Công nghiệp”. Tương tự như vậy, việc xây dựng AI “ủng hộ người lao động” ngày nay sẽ đòi hỏi chúng ta phải “thay đổi hướng đổi mới trong ngành công nghệ và đưa ra các quy định và thể chế mới”.

Print Friendly and PDF

27.10.24

Giải Nobel kinh tế năm nay được trao cho đội ngũ khảo cứu về những gì khiến một số nước lại giàu, còn những nước khác lại nghèo

GIẢI NOBEL KINH TẾ NĂM NAY ĐƯỢC TRAO CHO ĐỘI NGŨ KHẢO CỨU VỀ NHỮNG GÌ KHIẾN MỘT SỐ NƯỚC LẠI GIÀU, CÒN NHỮNG NƯỚC KHÁC LẠI NGHÈO

Daron Acemoglu, Simon Johnson và James A. Robinson. Nobel Prize Outreach

Giải Nobel Kinh tế năm 2024 đã được trao cho 3 kinh tế gia người Mỹ, những người đã nghiên cứu những lợi thế của nền dân chủ và pháp quyền, cũng như lý do tại sao chúng có sức mạnh ở một số nước nhưng lại không có sức mạnh ở những nước khác.

Daron Acemoglu là kinh tế gia người Mỹ gốc Thổ Nhĩ Kỳ tại Học viện Công nghệ Massachusetts, Simon Johnson là kinh tế gia người Anh tại Học viện Công nghệ Massachusetts và James Robinson là kinh tế gia người Mỹ gốc Anh tại Đại học Chicago.

Giải thưởng được trao “vì các nghiên cứu về cách các thể chế hình thành và tác động lên sự thịnh vượng” (trích) khiến nó trở thành giải thưởng cho nghiên cứu về chính trị học và xã hội học cũng như kinh tế học.

Vào thời điểm nền dân chủ dường như đang mất đi sự ủng hộ, ủy ban Nobel đã trao giải cho những công trình chứng minh rằng, trung bình, các nước dân chủ được cai quản bằng pháp quyền có các cư dân giàu có hơn.

Print Friendly and PDF

26.10.24

Chúng ta có được phép không ấn tượng với những người đoạt giải Nobel không? Hy vọng là vậy

CHÚNG TA CÓ ĐƯỢC PHÉP KHÔNG ẤN TƯỢNG VỚI NHỮNG NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL KHÔNG? HY VỌNG LÀ VẬY.

Giáo sư Duncan Green chia sẻ những ý nghĩ của mình về cuốn sách Tại sao các quốc gia thất bại |Why Nations Fail| của Daron Acemoglu và James A. Robinson, cựu sinh viên LSE, những người cùng nhận Giải Nobel Kinh tế năm 2024 cho sự đóng góp của họ trong các nghiên cứu so sánh về sự thịnh vượng giữa các quốc gia.

Khi nghe nói rằng giải Nobel Kinh tế của năm nay đã được trao cho Daron Acemoglu, James Robinson và Simon Johnson, tôi đã xem lại bài điểm sách năm 2012 của mình về cuốn sách đột phá của họ, Tại sao các quốc gia thất bại. Vào thời điểm đó, tôi thực sự có những cảm giác lẫn lộn về cuốn sách - thích cách nhấn mạnh vào những kết luận, nhưng phát hiện ra mức độ thiên kiến đặc biệt của phương Tây đối với các thể chế mà họ cho là hiệu quả. Trên hết, giống như nhiều nhà khoa học chính trị phương Tây khác, họ thực sự đấu tranh với sự trỗi dậy không ngừng của Trung Quốc. Tôi kết luận rằng ‘Nhìn chung, cuốn sách đã để lại cho tôi cảm giác kỳ vọng tăng cao, nhưng rồi lại thất vọng tràn trề.’ Francis Fukuyama cũng chỉ trích tương tự vào thời điểm đó. Khoảng thời gian 12 năm qua, nếu có, chỉ càng khẳng định những lo ngại của tôi.

Print Friendly and PDF