Vốn con người
Human capital
® Giải Nobel: BECKER, 1992 – LUCAS, 1995 – SCHULTZ, 1979 – SOLOW, 1987
“Phân tích vốn con người bắt đầu với giả thiết cho rằng những cá thể quyết định giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế và những phần bổ sung vào hiểu biết và sức khoẻ của mình bằng cách cân nhắc những phần được và những chi phí” (Becker, 1993).
Như thế lĩnh vực của vốn con người được xác định bằng việc mở rộng phân tích kinh tế sang những quyết định mà theo truyền thống không thuộc về bộ môn này. Cá thể được giả định là có tính duy lí, tối đa hoá phúc lợi của bản thân trên toàn bộ cuộc đời mình và có một hành vi nhất quán trong thời gian. Điểm xuất phát của lí thuyết vốn con người có tính kinh tế vi mô. Đó là lựa chọn cá thể về sự đầu tư con người. Những món lợi của đầu tư này có thể có tính tiền tệ hay không. Những món lợi này nằm trong sự gia tăng của năng suất của cá thể trên thị trường và ngoài thị trường. Những chi phí gồm có những chi phí tiền tệ trực tiếp và chi phí gián tiếp, bao giờ cũng đặc biệt quan trọng, thời gian dành cho đầu tư vào vốn con người. Tuy nhiên đầu tư con người không thu về một vấn đề lựa chọn. Đó cũng là quá trình cá nhân sản xuất thêm vốn con người mà người đó hàm chứa trong bản thân. Việc chất chứa này đối lập vốn con người với vốn không con người. Hệ quả là không có thị trường vốn con người (ngoại trừ trong một xã hội nô lệ, mà ta có thể tìm thấy một phân tích lí thuyết trong Blaugh, 1972). Giá của một kho vốn con người không phải là một giá thị trường mà là một giá trị sử dụng. Trực giác về khái niệm vốn con người xuất hiện ngay từ thế kỉ XVI (Hales) và XVII (Misselden, Mun và nhất là Petty). Nhưng khái niệm này chỉ tìm được một khuôn khổ thích hợp với A. Smith, 1776. Smith nhấn mạnh đến những chi phí và món lợi của giáo dục và chỉ ra bằng cách nào có thể xem giáo dục như là một đầu tư. Việc trình bày khái niệm vốn con người cũng đã phải gánh chịu việc thiếu chặt chẽ mà trong một thời gian dài là đặc trưng cho lí thuyết tổng quát về tư bản. I. Fisher (1906 và nhất là 1930) làm rõ một cách chính xác những quan hệ giữa tư bản và thu nhập. Kho tư bản sinh ra những luồng dịch vụ (thu nhập) trong thời gian và chính giá trị dự kiến của những dịch vụ (thu nhập) này xác định giá trị của tư bản. Do tư bản là một kho đầu nguồn của một luồng thu nhập, nên với thu nhập của con người ứng một vốn con người. Do tổng thu nhập của một cá thể là thu nhập tâm lí của cá thể này (enjoyment income), nên khái niệm vốn con người là rất rộng. Khái niệm này chỉ một kho mà những luồng dịch vụ có thể là những luồng tiền tệ hay không. Tuy nhiên lí thuyết thuần tuý này về tư bản được đón nhận một cách lí thú, nhưng như một điều kì lạ về mặt lí thuyết. Ngoại trừ một số ngoại lệ (von Thünen, Nicholsson, 1891; L. Dublin & A. Lotka, 1930, Walsh, 1935; F. Knight, 1944; M. Friedman & S. Kuznets, 1946), phải chờ đến những năm 1950 sự chú ý mới nhằm vào sự bất bình đẳng của những thu nhập cá thể và nhất là vào những nguồn gốc của tăng trưởng. Bằng những khái niệm gộp, sự tăng trưởng của những nhân tố tư bản và lao động như được đo một cách truyền thống không đủ để giải thích tăng trưởng của tổng sản phẩm. Cuộc “cách mạng của đầu tư vào vốn con người” (M. J. Bowman, 1966) thường được đánh dấu từ T. W. Schultz (1961). Schultz nhấn mạnh đến tính thống nhất sâu sắc của những kiểu đầu tư khác nhau vào vốn con người, về mặt đào tạo, tính cơ động hay sức khoẻ, những kiểu đầu tư này có điểm chung là cải thiện những năng lực của cá thể, trên và ngoài thị trường. Ông chỉ ra bằng cách nào khái niệm vốn con người cung cấp được một cách giải thích thống nhất cho những hiện tượng bề ngoài là không đồng nhất. Ví dụ, tăng trưởng quan sát được của năng suất trên một đơn vị lao động được viện dẫn để giải thích “nhân tố dư thừa” của tăng trưởng, nhưng chính ngay bản thân năng suất này lại không được giải thích: tăng trưởng của năng suất này đơn giản là do người ta giữ không đổi trong thời gian đơn vị lao động trong lúc đơn vị này đã được tăng lên do gia tăng của kho vốn con người trên đầu người. Sụt giảm của tỉ số vốn hữu hình trên thu nhập không tương ứng với một sụt giảm của tỉ số vốn trên thu nhập, nhưng tương ứng với một gia tăng tương đối của vốn con người so với vốn hữu hình, trong lúc tỉ số tổng vốn (vốn con người và vốn hữu hình) trên thu nhập là không đổi. Ví dụ khác nữa là việc xây dựng lại nhanh chóng của các nước phát triển sau thế chiến thứ hai, cũng như năng lực hấp thụ có giới hạn vốn nước ngoài của những nước kém phát triển hơn được giải thích bằng những chu cấp về vốn con người của những nước này. Những khái niệm cơ bản của lí thuyết mới được tinh vi hoá trong một số đặc biệt của tạp chí Journal of Political Economy tháng mười 1962 dành cho đầu tư vào vốn con người và nhất là trong lần xuất bản đầu tiên năm 1964 của tác phẩm của Gary S. Becker về vốn con người.