31.7.24

Thế giới vận hành như thế nào

THẾ GIỚI VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO

Nhiều người Mỹ cứ đinh ninh trong suy nghĩ rằng các quy tắc của Adam Smith về tự do giao thương là những quy tắc chính đáng duy nhất. Nhưng các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất hiện nay đang sử dụng một bộ quy tắc rất khác. Một khi chúng ta từng biết họ — biết họ quá rõ nên chúng ta mới chơi cùng họ và giành thắng lợi. Giờ đây, chúng ta dường như đã lãng quên.

JAMES FALLOWS

SỐ PHÁT HÀNH THÁNG 12 NĂM 1993

TRONG một chuyến đi vào mùa xuân năm 1992 tới Đại học Hitotsubashi ở Nhật, vốn nổi tiếng với các khoa kinh tế học và kinh doanh, tôi gặp may mắn tới không ngờ. Như một vài đại học khác của người Nhật, đại học Hitotsubashi gần như khiến tôi nao lòng vì nét dễ thương của nó. Con đường từ sân ga tới học khu chính của trường rợp bóng hoa anh đào, dưới chân tôi xao xuyến những cánh hoa trắng muốt nho nhỏ vương vãi trên mặt đất. Các bạn sinh viên lướt trên chiếc xe đạp, trông như thể họ đang tận hưởng một khoảnh khắc không còn chút căng thẳng nào trong cuộc sống của họ nữa.

Họ có thể là như thế. Trong các cuộc khảo sát, phần lớn sinh viên cho rằng họ “chẳng bao giờ” hoặc “hầu như không” học trong suốt thời đại học. Họ đã học đủ ở trường trung học.

Tôi đã đi tới đại học Hitotsubashi để thực hiện cuộc phỏng vấn với một vị giáo sư đang gây nhiều sóng gió. Kể từ khi Thế Chiến II kết thúc, các nhà ngoại giao và những nhà doanh nghiệp người Nhật đã hành xử như thể nền kinh tế của người Mỹ cần phải là mô hình dành cho sự tăng trưởng công nghiệp của riêng Nhật Bản. Các ngành công nghiệp Nhật Bản không chỉ phải nên cố gắng đuổi kịp vị trí dẫn đầu về công nghệ và sản xuất của nước Mỹ mà quốc gia này còn phải tiến hóa theo một tiêu chuẩn trưởng thành về kinh tế do Hoa Kỳ đặt ra. Trường hợp nền kinh tế Nhật Bản khác với mô hình của người Mỹ — ví dụ, trong các liên minh chặt chẽ giữa các tập đoàn mà luật chống độc quyền của Hoa Kỳ sẽ ngăn cấm — sự khác biệt nên được xem là tạm thời, cho tới khi Nhật Bản đuổi kịp.

Print Friendly and PDF

30.7.24

Những người châu Phi đầu tiên tham dự Thế vận hội là ai?

NHỮNG NGƯỜI CHÂU PHI ĐẦU TIÊN THAM DỰ THẾ VẬN HỘI LÀ AI? CHUYỆN ỒN ÀO VỀ HAI VẬN ĐỘNG VIÊN CHẠY MARATHON NĂM 1904

Những người dự thi marathon Olympic năm 1904 Len Tau (trái) và Jan Mashiani đến từ Nam Phi. Bảo tàng Lịch sử Missouri

Những người châu Phi đầu tiên thi đấu tại Thế vận hội Olympic hiện đại là ai? Câu trả lời cho câu hỏi đó nằm sau câu chuyện đáng ngạc nhiên về cuộc chạy marathon năm 1904 – và vạch trần lịch sử phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa da trắng thượng đẳng vốn là đặc điểm của Thế vận hội thời kỳ đầu.

Thế vận hội Olympic hiện đại đầu tiên được tổ chức vào năm 1896 tại Hy Lạp. Đây là thời kỳ đỉnh cao của chủ nghĩa thực dân châu Âu và không có ghi chép nào về việc người châu Phi tham gia. Chỉ sau chiến tranh thế giới thứ hai, vào cuối những năm 1940, các nước châu Phi mới bắt đầu tham gia phong trào Olympic với số lượng đáng kể, khi nền độc lập của châu Phi bắt đầu được xác lập.

Thực tế là có, dù ít người biết, đó là chuyện về hai vận động viên chạy bộ da đen người Nam Phi đã tham gia Thế vận hội do Hoa Kỳ lần đầu đăng cai, tại St Louis vào năm 1904. Họ là Jan Mashiani và Len Taunyane (Tau), những người đã xuất hiện cùng một vận động viên chạy bộ da trắng người Nam Phi – BW Harris – trong chương trình chạy marathon Olympic. (Một đội kéo co người Boer từ Nam Phi cũng đã tham gia Thế vận hội năm đó.)

Một bức ảnh của Mashiani và Tau được lưu giữ tại bảo tàng của Hiệp hội Lịch sử Missouri, nơi đã hoán chuyển tên của họ trong chú thích, khiến hai người đàn ông này bị gán nhầm danh tính trong nhiều thập kỷ.

Print Friendly and PDF

28.7.24

Đọc lại Tư bản (VI): Chương 5 - Tư bản như là quan hệ bóc lột mang tính hàng hóa

Trần Hải Hạc

Đọc lại Tư bản (VI)

LƯU Ý CỦA TÁC GIẢ - DỊCH GIẢ

Trần Hải Hạc (1945-)

Năm 2003, công trình nghiên cứu Pháp ngữ Relire Le Capital. Marx, critique de l’économie politique et objet de la critique de l’économie politique của Trần Hải Hạc ra mắt ở nhà xuất bản Page Deux (Lausanne, Thụy Sĩ) và gồm hai tập sách (t.1, 397 trang; t.2, 366 tr.). Từ đầu năm 2021, với nhan đề Đọc lại Tư bản. Marx, phê phán chính trị kinh tế học và đối tượng của phê phán chính trị kinh tế học, một bản dịch tiếng Việt do tác giả tự thực hiện được công bố từng phần trên trang Phân tích kinh tế.

Đọc lại Tư bản (VI) bao gồm các nội dung như sau:

Phần thứ hai: Hàng hoá với tính cách là sản phẩm của tư bản

Tiêu đề I: Vấn đề tồn tại của giá trị thặng dư và khái niệm về sức lao động.

Chương 5: Tư bản như là quan hệ bóc lột mang tính hàng hoá

Mục lục

Xem các phần trước:

- Đọc lại Tư bản (I)

- Đọc lại Tư bản (II)

- Đọc lại Tư bản (III)

- Đọc lại Tư bản (IV)

- Đọc lại Tư bản (V)

Do không có đầy đủ bản Việt ngữ các trước tác của Marx, dịch giả chọn sử dụng khi cần thiết bản Pháp ngữ của các tác phẩm và tự chuyển ngữ. Trong thư mục, các văn bản của Marx được xếp theo thứ tự năm xuất bản tác phẩm gốc hoặc năm Marx biên soạn bản thảo, tiếp theo là nhan đề tiếng Việt của tác phẩm và quy chiếu của văn bản tiếng Pháp. Đặt ở phía sau mỗi chương, các chú thích trích dẫn tác phẩm của Marx gồm có tên của văn bản Việt ngữ và quy chiếu đến văn bản Pháp ngữ.

Khi chuyển ngữ một số thuật ngữ của Marx chưa được thông dụng, lần đầu chúng tôi kèm theo từ Pháp ngữ trong dấu ngoặc đơn, đồng thời phía sau đây chúng tôi gom các thuật ngữ đó trong một bảng đối chiếu Việt - Pháp. Khi cần thiết, chúng tôi bổ sung bảng thuật ngữ với những chú giải về chọn lựa cách chuyển ngữ.

Print Friendly and PDF

26.7.24

Immanuel Kant một thoáng

IMMANUEL KANT MỘT THOÁNG

Kỷ niệm 200 năm ông qua đời (1804-2004)

Nguyễn Xuân Xanh (2004)

Hai điều chiếm ngự tâm tư với sự khâm phục và kính trọng sâu sắc ngày càng nhiều hơn, khi càng suy nghĩ nhiều hơn lâu hơn về chúng: bầu trời đầy sao trên tôi và luật đạo đức trong tôi.

(Zwei Dinge erfüllen das Gemüt mit immer neuer und zunehmender Bewunderung und Ehrfurcht, je öfter und anhaltender sich das Nachdenken damit beschāftigt: der bestirnte Himmel über mir und das moralische Gesetz in mir.)

Cái (thế giới) thực không phải để cho ta, mà được đặt ra cho ta (để giải nó).

(Das Wirkliche ist uns nicht gegeben, sondern aufgegeben.)

Immanuel Kant

Immanuel Kant (1724-1804)

Summary. Dieser Aufsatz ist ein Versuch, Immanuel Kant anläßlich seines 200. Todestages einem vietnamesischsprachigen Publikum vorzustellen. Kant war ein glühender Verfechter der Aufklärung. Er verstand sie als Befreiung des Menschen aus der selbstverschuldeten Abhängigkeit, wobei dem Wissen und dem kritischen Denken die zentrale Rolle zukommt. Er unternahm eine radikal kritische Analyse des menschlichen Denkvorgangs. Veraltete Vorstellungen darüber unterzog er einer grundlegenden Kritik. Nach Kant ist der menschliche Geist durch innere komplexe Strukturen und Vermögen befähigt, a priori Erkenntnisse über die Erfahrung hinaus zu erlangen. Die Beziehung zwischen sinnlicher Erfahrung und reiner Erkenntnis ist nicht deduktiv sondern von komplizierter Natur, nicht eine solche wie die zwischen “Suppe und Rindfleisch”, sondern eher eine wie die zwischen “Garderobenummer und Mantel”, wie Einstein es bildlich ausdrückte. Kant war auch der erste, der für eine gemeinschaftliche Form der Koexistenz freier Staaten eintrat und dafür Grundlinien entwarf, um die Völkergemeinschaft endlich aus dem wilden gesetzlosen Zustand herauszuführen. Sein grosser Traum war der vom ewigen Frieden auf Erden. Ethische Grundsätze sollten das Handeln des Menschen im Zusammenleben leiten, der Mensch sollte die Verantwortung gegenüber sich selbst und der Natur übernehmen. Auf eine höhere Macht braucht er sich dabei nicht berufen. Kants “kategorischem Imperativ” zufolge sollte der Mensch so handeln, daß die Maxime seines Handelns die Maxime des Handelns aller und zum allgemeinen Naturgesetz werden könnte.

Lời nói đầu

Hai mươi năm trước, 2004, vì tình yêu và lòng ngưỡng mộ đối với Immanuel Kant như một nhà triết học và khoa học mà tôi đã viết bài tiểu luận dưới đây về ông nhân thế giới kỷ niệm 200 năm ngày mất của ông, ngay cả trước khi tôi viết Einstein. Rời nước Đức, tôi vẫn giữ “Sapere aude”, và “bầu trời đầy sao trên tôi, và định luật đạo đức trong tôi” mà ông đã truyền cảm hứng cho tôi, cũng là biểu tượng của hai tính chất nổi bật của thế kỷ ánh sáng: sự vươn lên của khoa học hiện đại, và cũng là thế kỷ của đạo đức, nhân từ, điều mà người ta dễ quên.

Nhân kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông, tôi xin đăng lại để các anh chị quan tâm tham khảo. Đặc biệt tôi muốn gửi đến hơn 300 vị khách tham gia buổi Hội thảo về Kant tại Đại học Văn Lang ngày 19/7 vừa qua. Tôi chỉ tu chỉnh đôi chỗ nhỏ.

Nguyễn Xuân Xanh

Print Friendly and PDF

25.7.24

Sự cố gián đoạn dịch vụ IT toàn cầu đã khiến chuỗi cung ứng bị tê liệt – chúng ta cần chuẩn bị tốt hơn trong tương lai

 

SỰ CỐ GIÁN ĐOẠN DỊCH VỤ IT TOÀN CẦU ĐÃ KHIẾN CHUỖI CUNG ỨNG BỊ TÊ LIỆT – CHÚNG TA CẦN CHUẨN BỊ TỐT HƠN TRONG TƯƠNG LAI

Tác giả: Sanjoy PaulTowfique Rahman

Sự cố gián đoạn dịch vụ IT vào thứ sáu vừa rồi (19/06/2024) – do lỗi cập nhật phần mềm từ công ty an ninh mạng Crowdstrike – đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh trên toàn thế giới.

Nhiều quốc gia đã báo cáo về tình trạng gián đoạn nghiêm trọng, bao gồm Úc, New Zealand, Nhật Bản, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Nhiều doanh nghiệp không thể truy cập vào các hệ thống và dữ liệu quan trọng, dẫn đến sự chậm trễ đáng kể và tổn thất tài chính.

Khi cuộc khủng hoảng xảy ra, nhiều người trong chúng ta sẽ bận tâm đến những tác động tức thời của nó đối với người tiêu dùng – hệ thống bệnh viện ngừng hoạt động, một số siêu thị chỉ chấp nhận thanh toán bằng tiền mặt, các chuyến bay bị hoãn và người dẫn chương trình thời sự phải đọc từ những bản ghi chú được in ra.

Print Friendly and PDF

24.7.24

Làm sáng tỏ trí tuệ nhân tạo tạo sinh: đúng, sai, không chắc

LÀM SÁNG TỎ TRÍ TUỆ NHÂN TẠO TẠO SINH: ĐÚNG, SAI, KHÔNG CHẮC

Tác giả: Laure Soulier

Giảng sư tại Đại học Sorbonne, 

thành viên của nhóm “Machine Learning and Information Access” 

Tóm tắt

  • Các trí tuệ nhân tạo (AI) tạo sinh làm ra nội dung, nói chung là thích đáng và đa dạng (văn bản, hình ảnh, video), dựa trên các xác suất và các mô hình ngôn ngữ sâu.
  • Mặc dù rất hiệu quả, trí tuệ nhân tạo không so sánh được cũng không tương đương với trí tuệ của con người: điều mà trí tuệ nhân tạo nhắm tới bất lợi cho sự thật, đó là vẻ ngoài như thật.
  • Chương trình tiếp tục kéo dài các thiên kiến và sai lầm của trò chơi các dữ liệu trên cơ sở đó trí tuệ nhân tạo đã được huấn luyện.
  • “Công cụ làm việc này” sẽ không thay thế một cách rộng rãi số việc làm, mà còn có thể tạo ra việc làm mới.
  • Sự phát triển về dài hạn của trí tuệ nhân tạo vẫn còn bất định, nhưng sẽ phải tính đến những mối quan tâm về môi trường và hướng tới một trí tuệ nhân tạo tiết kiệm.

#1 Trí tuệ nhân tạo tạo sinh: một cuộc cách mạng trí tuệ?

Trí tuệ nhân tạo tạo sinh, một trí tuệ nhân tạo riêng biệt - ĐÚNG

Trong vương quốc của trí tuệ nhân tạo tồn tại nhiều loại. Trong các loại này, trí tuệ nhân tạo tạo sinh, như tên của nó chỉ ra, nổi bật hơn nhờ năng lực tạo ra nội dung: văn bản, hình ảnh, video… Một số được biết đến nhiều nhất trong các hệ thống hiện nay là ChatGPT, Bard, Midjourney hay còn là DALL-E. 

Nguyên tắc của các hệ thống này dựa trên các xác suất: Hệ thống đoán trước từ tiếp theo hay pixel kế cận, tùy theo điều mà hệ thống cho là có vẻ như thật nhất. Để làm như vậy, trí tuệ nhân tạo tạo sinh dựa vào một mô hình ngôn ngữ lớn (LLM), nghĩa là một mạng nơ-ron nhân tạo sâu vốn đã được huấn luyện với một lượng lớn các dữ liệu. Như vậy, phần mềm máy tính nhận dạng những mối tương quan khả dĩ nhất tùy theo bối cảnh.

Print Friendly and PDF

22.7.24

MMT (Modern Monetary Theory) hay Lí thuyết tiền tệ hiện đại

MMT (MODERN MONETARY THEORY) HAY LÍ THUYẾT TIỀN TỆ HIỆN ĐẠI

MMT là lí thuyết biết rút ra tất cả những hệ quả của tính NỘI SINH của việc tạo sinh tiền tệ. Như vậy lí thuyết có một quan điểm độc đáo, thường trái chiều với các thành kiến giữa TIỀN TỆ và tín dụng cũng như như với vai trò của CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ. Lí thuyết này, trong một thời gian dài chỉ phổ biến trong một vài đại học không nổi tiếng, trở nên quan trọng vào thời điểm cuộc khủng hoảng năm 2007-2008, tính xác đáng của những phân tích của nó được một phần lớn giới kinh tế miễn cưỡng thừa nhận. Các luận điểm của lí thuyết – được trình bày trong “MMT primer” trên trang neweconomicperspectives.org là một thách thức thật sự đối với lí thuyết TÂN CỔ ĐIỂN mà tiền tệ và, chung hơn, các khoản nợ và tín dụng là những lỗ đen.

Điều làm nên sức mạnh và lực thu hút của MMT là do lí thuyết được đặt trên nền tảng của những sự kiện khó phản bác và trên những hằng đẳng thức kế toán do đó luôn đúng. Việc này khiến cho lí thuyết có một quan điểm rất khác, và xác đáng hơn quan điểm truyền thống.

Print Friendly and PDF

20.7.24

Bước đi đầu tiên: Tự Do Tư Tưởng

BƯỚC ĐI ĐẦU TIÊN: TỰ DO TƯ TƯỞNG

Tác giả: Tôn Thất Thông

Nếu trong kinh tế, tự do kinh doanh là gốc rễ của sự tăng trưởng phồn vinh, thì trong triết học và các lĩnh vực nghiên cứu khác, tự do tư tưởng là cội nguồn của mọi sáng tạo và là nguồn cảm hứng tạo nên sáng kiến để canh tân, đưa xã hội đến tiến bộ.

Trong thời đại khai sáng, khi học giả đã đạt đến tự do tư tưởng, thì triết học trở thành lĩnh vực quan trọng hàng đầu trong việc định hình con người và xã hội. Nó thay đổi cách nhìn về con người và vũ trụ. Nó định hình cách hành xử của con người đối với các định chế chính trị, tôn giáo và xã hội. Nó vạch hướng đi cho những cuộc cách mạng chính trị vĩ đại. Đồng thời, triết học cũng cung cấp phương pháp luận cho khoa học gia trên đường nghiên cứu khoa học tự nhiên.

Để đạt đến năng lực chi phối tiến trình lịch sử ấy, con đường cũng vô cùng cam go, nhưng triết gia khai sáng đã tìm được cho mình một hướng đi rất vững chắc: đó là, trước hết cần tự giải thoát mình ra khỏi thế kìm kẹp về độc quyền văn hóa và tư tưởng, vốn dĩ đã ngự trị suốt cả ngàn năm trước. Video hôm nay sẽ cung cấp cho các bạn những dữ liệu lịch sử liên quan để phán xét. Ngoài ra, con đường họ đi cũng là bài học có giá trị cho đến ngày nay, nhất là ở trong các nước chuyên chế độc tài.

Trên con đường xây dựng thế giới mới, thì con người, chứ không phải một sức mạnh siêu nhiên nào, là chủ thể kiến tạo nên mọi tiến bộ. Chúng ta hãy nghe Christian Thomasius, triết gia người Đức trong thế kỷ 17, phác họa chân dung một mẫu người lý tưởng, mà nền giáo dục trong thời đại khai sáng cần đào tạo để xây dựng xã hội mới:

Chúng ta cần một chương trình đào tạo học thuật vừa đặt trên nền tảng khôn ngoan, thông thái và gần gũi với kinh nghiệm thực tế, vừa chú trọng đặc biệt về năng lực phán quyết và phê phán hơn là việc bảo tồn và quản lý tri thức, đồng thời có thể gạt phăng những chướng ngại cản trở việc tiếp cận tri thức hữu dụng, […] [Chúng ta muốn] đào tạo con người có thẩm quyền về xã hội và đạo đức, những con người tao nhã, thông thái, có nhân cách, có thị hiếu lành mạnh và một tâm hồn cao thượng, […] những con người biết nghiêm khắc với truyền thống để làm quen với sáng kiến canh tân, tự rèn luyện một quan hệ lành mạnh với cải cách và đổi mới[1].

Triết gia Đức Christian Thomasius (1655-1728).

Print Friendly and PDF

18.7.24

Điện ảnh Hàn Quốc: “Remember our Sister” của Jo Hayoung hay bi kịch của các “Camp Towns”

PHỎNG VẤN

ĐIỆN ẢNH HÀN QUỐC: “REMEMBER OUR SISTER” CỦA JO HAYOUNG HAY BI KỊCH CỦA CÁC “CAMP TOWNS”

Tác giả: Gwenaël Germain

Trích từ phim “Remember our Sister" của Jo Hayoung. Hàn Quốc, 1980, bé gái Hong làm việc trong một ngôi làng phục vụ cho thú vui của các lính Mỹ. (Credits: Jo Hayoung)

Một bi kịch không được biết đến. Ngay từ những năm 1950 tại Hàn Quốc, có những ngôi làng đã tập trung các nhà chứa và những nơi “thư giãn” khác dành cho binh lính Mỹ. Tên của những ngôi làng này: Camp Towns. Những ngôi làng này do chính phủ Hàn Quốc trực tiếp tổ chức và cấm mại dâm ở ngoài các làng này. Ở đây đã có hàng chục ngàn phụ nữ trẻ bị buộc làm mại dâm. Trước tiên là phụ nữ Hàn Quốc, rồi sau đó là những phụ nữ từ khắp châu Á, họ đã trải qua một cực hình mà mọi người đều chấp nhận mãi cho đến những năm 2000. Hy sinh của họ được cho rằng để bảo vệ thường dân tránh khỏi những tội về tình dục mà binh lính Mỹ có thể phạm phải. Từ câu chuyện bi thảm này, nữ đạo diễn Jo Hayoung, 25 tuổi, đã thực hiện một bộ phim có độ dài trung bình gây xúc động đến xót xa, Remember our Sister. Vở nhạc kịch này được quay phù hợp với trẻ em đã đạt giải phim ngắn hay nhất năm 2022 tại Liên hoan phim Hàn Quc ti Paris (FFCP). Năm nay phim này được chiếu lại tại một buổi đặc biệt mang tên “Fly Asiana”. Gặp gỡ với một nhà làm phim trẻ với niềm tin mãnh liệt và tài năng nổi bật.

Phỏng vấn

Sinh năm 1998 tại Seoul, Jo Hayoung lớn lên ở Daejeon, say mê đọc những trang truyện Những người khốn khổ của Victor Hugo. Tốt nghiệp Viện Nghệ thuật và truyền thông Dong-A và vẫn là sinh viên ngành điện ảnh Đại học Nghệ thuật quốc gia Hàn Quốc, (KNUA), cô đặc biệt quan tâm đến những nơi đầy ắp ký ức, lịch sử đời người và cảm xúc. Năm 2018, cô cho ra đời một phim tài liệu ngắn đầu tiên, Sister’s Room nói về việc chị gái của cô dọn đến một khu ở mới trong khi chính cô lo lắng và phải đối mặt với những bạo lực tình dục đối với phụ nữ ở nơi công cộng. Phim xuất sắc về mặt kỹ thuật, với sự tinh tế và những thắc mắc về không gian dành cho phụ nữ, Sister’s room gần giống với phiên bản hiện đại của Hàn Quốc của quyển sách về nữ quyền do Virginia Woolf viết vào năm 1929, A Room of One’s Own (Căn phòng riêng). Năm 2022, Jo Hayoung tiếp tục khám phá những nơi đầy ắp lịch sử khi thực hiện phim Remember our Sister, một vở nhạc kịch dài 29 phút, hé lộ, qua mắt của một bé gái, đời sống tồi tệ hàng ngày tại các Camp Towns, những nhà chứa do chính phủ Hàn Quốc thiết lập để phục vụ quân đội Mỹ. Được trình chiếu tại nhiều liên hoan phim ở Hàn Quốc, năm 2022 phim đã đạt giải Fly Asiana về phim ngắn hay nhất tại Liên hoan phim Hàn Quốc ở Paris (FFCP) tạo điều kiện cho đạo diễn của phim được mời đến buổi chiếu phim vào năm 2023 và chiếu nhiều phim khác của cô cho công chúng Paris trong một buổi chiếu phim dành cho cô. Ngoài hai phim này, buổi này được bổ sung với phim Kids Land (2023) của nữ đạo diễn Kim Wonwoo, một dự án mà Jo Hayoung là phụ tá đạo diễn và có sự tham gia của cô gái trẻ Yoon Boyoun, diễn viên đóng vai bé gái là nhân viên phục vụ tên Hong trong phim Remember our Sister.


Nữ đạo diễn Hàn Quốc Jo Hayoung, được giải thưởng phim ngắn hay nhất tại Liên hoan phim Hàn Quốc ở Paris năm 2022 (Nguồn: Jo Hayoung)

Năm trước, chị đã cảm thấy thế nào khi được biết là chị đã đạt giải thưởng phim ngắn hay nhất tại Liên hoan phim Hàn Quốc ở Paris FFCP?

Jo Hayoung: Tôi hoàn toàn không tưởng tượng được việc nhận giải thưởng này và tôi rất ngạc nhiên. Vào lúc tôi biết tin này tôi đang cùng một người bạn gái và cả hai chúng tôi đã reo lên. Chúng tôi đã vô cùng sung sướng. Sau đó tôi tự nhủ rằng công chúng Paris đã yêu thích phim của tôi và điều này làm cho tôi rất hạnh phúc. Điều này đã là động lực cho tôi có thể thực hiện các dự án tiếp theo của tôi.

Print Friendly and PDF

16.7.24

Thuyết hậu thực dân: một ngõ cụt về mặt khái niệm cần phải tra cứu?

THUYẾT HẬU THỰC DÂN: MỘT NGÕ CỤT VỀ MẶT KHÁI NIỆM CẦN PHẢI ĐƯỢC TRA CỨU?

Etienne Huyghe

Nghiên cứu sinh tiến sĩ về Quan hệ quốc tế tại Đại học Paris 1 Panthéon Sorbonne

Một bức tranh gốm có thể nhìn thấy tại số 10 đường Petits-Carreaux, Paris, một trong những bằng chứng cuối cùng của Paris từ thời bành trướng thuộc địa của Pháp, được xếp hạng Di tích lịch sử từ năm 1984, chụp ảnh ngày 17/6/2020, còn mang dấu vết của sự phá hoại. Anne-Christine Poujoulat/AFP

Thuyết hậu thực dân, xuất hiện vào cuối những năm 1970, hiện nay là một trường phái tư tưởng có ảnh hưởng rất lớn trong giới học thuật Pháp và quốc tế.

Các nghiên cứu được thực hiện trong trường của thuyết hậu thực dân tập trung sự phân tích vào những tác động trong quá khứ và hiện tại của sự thống trị văn hóa và tâm lí đối với các xã hội và các dân tộc thuộc địa trước đây. Các công trình tự nhận thuộc trường phái này, hoặc sử dụng các khái niệm bắt nguồn từ nó, đã tăng lên trong những năm gần đây, trong khi các tiền đề lý thuyết nền tảng của chúng không phải lúc nào cũng bị tra vấn.

Tuy nhiên, hệ hình hậu thực dân vượt xa không gian đại học đơn thuần và hiện nay xuất hiện trong cuộc tranh luận chính trị, định hướng, một cách ít nhiều có ý thức, tiến trình lấy các quyết định công cộng trong không gian quốc gia và quốc tế. Mặc dù một số trong các công trình này đã có thể đưa ra một cái nhìn mới mẻ và phong phú về những biểu tượng kéo dài của chủ nghĩa thực dân, nhưng ngày nay cần phải có một cái nhìn phê phán. Bởi vì khi bản chất hóa các nhóm xã hội được nghiên cứu, khi ít chú ý đến quỹ đạo lịch sử trước đây và độc đáo của các quốc gia được nghiên cứu, và khi bỏ qua những chuyển đổi cơ bản đang xảy ra trong hệ thống quốc tế đương đại, hệ hình hậu thực dân giờ đây có nguy cơ biến thành một lối mòn thực sự về mặt khái niệm, gây hại cho sự hiểu biết về các động năng xã hội hiện tại, ở Pháp và nước ngoài. Sáu mươi năm sau khi các nước châu Phi trở thành độc lập, một lộ trình lý thuyết và thực tiễn mới phải được đề xuất.

Print Friendly and PDF

14.7.24

Cao Huy Thuần và Thích Trí Quang

CAO HUY THUẦN và THÍCH TRÍ QUANG

Nguyễn Thùy An

Giáo sư Cao Huy Thuần
(1964-2024)

Thiền sư Thích Trí Quang
(1923-2019)

Khác với các tác giả của những bài viết tưởng niệm Giáo sư Cao Huy Thuần trên không gian này, tôi chỉ là hậu bối, mà lại còn là hậu bối chỉ được tiếp xúc trực tiếp với ông trong hơn hai năm ngắn ngủi. Duyên “hạnh ngộ” của tôi với Giáo sư Thuần nẩy mầm từ một phần quan trọng trong nghiên cứu luận văn tiến sĩ về chủ đề “Thành phần thứ ba và Học thuyết Nixon,” mà tôi bắt đầu viết từ cuối năm 2021. Đó là hai chương về phong trào tranh đấu cho Hòa bình của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất nói chung, và của Thiền sư Thích Trí Quang nói riêng. Thiền sư Trí Quang, như nhiều người đã biết, là người thầy mà Giáo sư Thuần vừa kính trọng, vừa xem như tri kỷ. Vì chỉ muốn bàn về những gì nằm trong phạm vi hiểu biết hạn hẹp của mình, tôi xin dành bài viết này để tưởng nhớ mối thâm tình Giáo sư Thuần dành cho Thầy Trí Quang, tức cũng là dành cho Huế, cho Phật giáo, cho con người Việt Nam.

Dù đã đọc qua các tác phẩm và tiểu luận của Giáo sư Thuần từ trước đó, phải chờ đến khi nhận được lời khuyên và sự động viên của Bác Trần Hải Hạc, tôi mới dám ngỏ lời xin trò chuyện cùng ông. Như Giáo sư Thuần tự nhận với tôi, ông “ít nói” và đã nhiều lần “từ chối phỏng vấn hay viết lại chuyện cũ.” Trong hồi âm đến thư dài giới thiệu của tôi vào mùa xuân năm 2022, ông đã không quên cho tôi biết cuộc trò chuyện mà ông đã đồng ý, thực tế, là ngoại lệ: “Cô đánh đúng chỗ yếu của tôi. Cho nên tôi khó lòng không tỏ thiện cảm và quý mến của tôi khi đọc thư cô. Nhưng xin cô nhớ câu viết đầu thư của tôi: tôi rất ít nói và chuyện ấy lại rất khó nói. Tôi sợ cô sẽ thất vọng.” Tôi mừng khôn xiết!

Print Friendly and PDF

13.7.24

Einstein và Heisenberg: Những người đặt nền tảng cho nền Vật lý hiện đại (K. Kleinknecht)

EINSTEIN HEISENBERG

Những người đặt nền tảng cho nền Vật lý hiện đại

Begründer der modernen Physik

Tác giả: Konrad Kleinknecht

Người dịch: Nguyễn Lê Tiến

Chủ trương, hiệu đính và dẫn nhập: Nguyễn Xuân Xanh

Chúng ta không là gì cả. Nhưng những gì chúng ta đi tìm là tất cả.

— Friedrich Hölderlin, nhà thơ Đức thế kỷ XIX

Thay cho những chân lý cơ bản là những xác suất cơ bản tôi muốn đặt ra – những điều dẫn dắt nhất thời được giả định để theo đó con người sống và tư duy.

Friedrich Nietzsche (1882)

Lời nói đầu

Các anh chị và các bạn thân mến,

Quyển sách Einstein và Heisenberg dưới đây vừa chính thức được Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh phát hành. Anh Nguyễn Lê Tiến và tôi rất vui mừng quyển sách này cuối cùng đã có mặt ở Việt Nam để đưa cuộc cách mạng vật lý đầu thế kỷ XX, một “thiên anh hùng ca” trong hành trình khoa học của nhân loại, đến tay bạn đọc. Nó giống như câu chuyện trong thần thoại Hy Lạp của nhóm anh hùng được gọi Argonauts, dưới sự lãnh đạo của Jason, đi trên chiếc thuyền Argo với cái đích tìm Lông cừu vàng, được treo trong khu rừng của Colchian Ares, và được bảo vệ đêm ngày bởi một con rồng không bao giờ ngủ. Họ phải vượt qua muôn vàng hiểm nguy. Tuy các nhà vật lý cuối cùng chưa tìm thấy Lông cừu vàng, hay ở đây là Bản đồ của Chúa, nhưng cuộc phiêu lưu như thần thoại đã đưa họ đến một lục địa cực kỳ màu mỡ, một “phần đất hứa của Thượng đế”. Qua khoa học mới, họ đã hiểu Thượng đế nhiều hơn, đến gần Thượng đế nhiều hơn, ở những vùng đất xa xôi nhất và những vùng đất nhỏ bé nhất trong thế giới vật chất. Tri thức của họ tuy vẫn còn bị thách thức vì chưa trọn vẹn, nhưng nhiều thử nghiệm ý tưởng đã tiếp tục diễn ra liên tục, dù vẫn chưa thấy một triển vọng thuyết phục về một con đường khả thi để đi tiếp. Tuy thế, lục địa mới hôm nay là nền tảng quan trọng nhất mà con người có được và là bàn đạp cho cuộc tìm kiếm con đường tương lai.

Đây là Nhóm các Argonaut vật lý thế kỷ XX đi tìm Bản đồ của Chúa mà người đóng vai trò lãnh đạo tinh thần là Einstein. Hội nghị Solvay lần thứ năm diễn ra tại Brussells năm 1927 ngay sau khi những khám phá cơ học lượng tử được công bố và gây nhiều tranh luận. Mười bảy (17) trong số 29 khách tham dự Hội nghị đã nhận được Giải Nobel hoặc sau đó (như Pauli 1945, Max Born 1954). Tên nhân vật từ hàng phía sau đến hàng phía trước, và từ trái sang phải:

– Auguste Piccard, Émile Henriot, Paul Ehrenfest, Édouard Herzen, Théophile de Donder, Erwin Schrödinger, Jules-Émile Verschaffelt, Wolfgang Pauli, Werner Heisenberg, Ralph Howard Fowler, Léon Brillouin,

– Peter Debye, Martin Knudsen, William Lawrence Bragg, Hendrik Anthony Kramers, Paul Dirac, Arthur Compton, Louis de Broglie, Max Born, Niels Bohr,

– Irving Langmuir, Max Planck, Marie Skłodowska Curie, Hendrik Lorentz, Albert Einstein, Paul Langevin, Charles Eugène Guye, Charles Thomson Rees Wilson, Owen Willans Richardson.

Tôi xin phép hơi “dài dòng” một chút, nếu có thể nói, bởi vì câu chuyện bản thân nó là một trường ca mà thế giới hơn một trăm năm qua đã tốn không ít bút mực để viết về nó và về những con người đã tạo nên nó, và vẫn còn tiếp tục.

Print Friendly and PDF

12.7.24

Các nhà khoa học nhẹ nhõm vì phe cực hữu thất bại trong cuộc bầu cử ở Pháp

CÁC NHÀ KHOA HỌC NHẸ NHÕM VÌ PHE CỰC HỮU THẤT BẠI TRONG CUỘC BẦU CỬ Ở PHÁP — NHƯNG HỌ VẪN PHẢI ĐỐI MẶT VỚI SỰ BẤT TRẮC

Do không có đảng nào giành được đa số phiếu nên tác động của cuộc bỏ phiếu đối với việc nghiên cứu vẫn chưa rõ ràng.

Barbara Casassus

Một cuộc mít tinh vào đêm bầu cử ở Nantes, Pháp. Ảnh: Loic Venance/AFP qua Getty

Các nhà khoa học ở Pháp nhẹ nhõm khi đảng cánh hữu National Rally (RN) thua cuộc trong cuộc bầu cử quốc hội ngày hôm qua. Nhưng việc không có người chiến thắng hoàn toàn bộc lộ sự bất trắc cho các nhà khoa học, và nhiều người không nghĩ rằng chính phủ mới sẽ tạo ra sự khác biệt tích cực cho nghiên cứu và giáo dục đại học.

Đảng National Rally được kỳ vọng sẽ giành được đa số phiếu sau khi giành chiến thắng trong vòng bỏ phiếu đầu tiên vào ngày 30 tháng 6, và các nhà khoa học đã lo ngại rằng điều này có thể dẫn đến việc cắt giảm ngân sách nghiên cứu, hạn chế nhập cư và đưa chủ nghĩa hoài nghi về biến đổi khí hậu vào hạ viện Pháp, tức Quốc hội nước này. Nhưng bất ngờ thay, đảng này đã giành vị trí thứ ba trong cuộc bỏ phiếu vòng hai ngày hôm qua, xếp sau đảng cánh tả Mặt trận Bình dân Mới (NPF) và trung dung Ensemble — một liên minh bao gồm đảng Phục hưng của Tổng thống Emmanuel Macron. Không ai trong hai đảng dẫn đầu giành được lượng phiếu đa số tuyệt đối và giờ đây họ phải đàm phán để thành lập chính phủ.

Print Friendly and PDF

10.7.24

Trí tuệ nhân tạo cần được dạy trên các tập dữ liệu đa dạng về văn hóa để tránh thiên vị

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO CẦN ĐƯỢC DẠY TRÊN CÁC TẬP DỮ LIỆU ĐA DẠNG VỀ VĂN HÓA ĐỂ TRÁNH THIÊN VỊ

Tác giả: Vered Shwartz

Nhu cầu giải quyết sự đa dạng trong các bộ dữ liệu được sử dụng để đào tạo trí tuệ nhân tạo ngày càng tăng. (Shutterstock)

Các mô hình ngôn ngữ lớn (LLM) là các chương trình trí tuệ nhân tạo học sâu, như ChatGPT của OpenAI. Khả năng của các LLM đã phát triển thành một phạm vi khá rộng, từ viết các bài luận trôi chảy, đến viết mã lập trình cho đến viết sáng tạo. Hàng triệu người trên toàn thế giới sử dụng các LLM và sẽ không ngoa khi nói rằng những công nghệ này đang chuyển đổi công việc, giáo dục và xã hội.

Các LLM được dạy bằng cách đọc một lượng lớn văn bản và học cách nhận ra và bắt chước các hình mẫu trong dữ liệu. Điều này cho phép chúng tạo ra văn bản mạch lạc và giống con người về hầu như mọi chủ đề.

Vì internet vẫn chủ yếu là tiếng Anh — 59 phần trăm tất cả các trang web đều bằng tiếng Anh tính đến tháng 1 năm 2023 — nên các LLM chủ yếu được dạy bằng văn bản tiếng Anh. Thêm vào đó, phần lớn văn bản tiếng Anh trực tuyến đến từ người dùng tại Hoa Kỳ, nơi có 300 triệu người nói tiếng Anh.

Học về thế giới từ các văn bản tiếng Anh được viết bởi người dùng web ở Hoa Kỳ, các LLM nói tiếng Anh Mỹ chuẩn và có lăng kính hẹp về phương Tây, Bắc Mỹ hoặc thậm chí lấy Hoa Kỳ làm trung tâm.

Print Friendly and PDF