THANH KHOẢN
Liquidity
® Giải Nobel: HICKS, 1972 – TOBIN, 1981
Thanh khoản chắc chắn là một trong những thuật ngữ được dùng nhiều nhất trong kinh tế học. Chúng tôi sẽ phân biệt thanh khoản trong số ít (liquidité) với thanh khoản trong số nhiều (liquidités) vốn là đồng nghĩa với tiền tệ hay phương tiện chi trả (ví dụ: les liquidités internationales). Nguồn gốc của thuật ngữ này không hoàn toàn rõ ràng. Đối với Hicks (1962), đây là một khái niệm keynesian, được chính ông ấy sử dụng ngay từ 1935 bằng cách qui chiếu về Chuyên luận về tiền tệ của Keynes (1930). Một số tác giả khác có những cách kiến giải khác và trích dẫn Fisher (1930) hay Menger (1930) nhiều hơn. Tuy nhiên chính Keynes là người đại chúng hoá thuật ngữ này trong Lí thuyết tổng quát (1936) trong đó ông đề xuất khái niệm ưa thích thanh khoản. Cuối những năm 1950 là thời kì khái niệm niệm này lên đến đỉnh điểm, đặc biệt là ở Anh với báo cáo Radcliffe.
Những nghiên cứu này và những nghiên cứu tiếp theo trong những năm 1960 sẽ cho phép mở rộng khái niệm trên. Khái niệm niệm rộng của thanh khoản được xác lập trong hai bước: một bước mà theo tinh thần của lí thuyết lựa chọn danh mục đầu tư sẽ nằm trong lĩnh vực tài chính với khái niệm rủi ro, và một bước khác mở rộng khái niệm này ra cho doanh nghiệp với việc tính đến sự bất trắc.