Tự do kinh doanh
Laisser-faire
Vincent de
Gournay, rồi tiếp đến môn đồ của ông là Turgot, đã lấy lại công thức của Thomas Le Gendre: “Tự do kinh doanh”. Khi Colbert hỏi
thương gia giàu có này, người sở hữu nhiều của cải ở châu Phi và châu Mĩ, là nhà vua và bộ máy công quyền có thể làm
được gì để giúp thương mại thì Le Gendre đáp: “Xin cứ để cho
chúng tôi làm”. Lúc bấy giờ đó là một câu trả lời, một lời thỉnh cầu và rồi
sau này sẽ trở thành một cuộc cách mạng. Đó cũng là một lời tư vấn chính trị
thực tiễn và rồi sau này sẽ trở thành một nguyên lí lí thuyết.
![]() |
Vincent de Gournay (1712-1759) |
![]() |
Jacques Turgot (1727-1781) |
![]() |
Jean-Baptiste Colbert (1619-1683) |
Trên quan điểm thực tiễn, tự do kinh doanh hiện ra như sự kết án học
thuyết trọng thương. Nền kinh tế chỉ huy được thiết lập ngay từ thế kỉ XV đã
đưa nhiều nước đến điêu tàn và sinh ra nhiều cuộc chiến không dứt và tốn kém
cho tất cả các quốc gia. Bổ sung vào mô hình Anh hợp thành từ việc bảo hộ đối
với nước ngoài (Luật hàng hải), nền quân chủ Pháp còn thêm vào những cản trở
đối với nội thương: qui định hoá khống chế từ ban quản lí phường hội đến những
cuộc hội chợ, các nghị viện làm luật trong lĩnh vực nông nghiệp, vận tải, nhà
vua đã biến rất nhiều ngành nghề thành những chức hàm công cộng đi kèm với một
độc quyền, một thuế khoá nhọc nhằn kết hợp những điều miễn thuế, tuỳ tiện và
phức tạp. Do dó “tự do kinh doanh” là phản ứng của những cá thể năng động bị nền kinh tế chỉ
huy đè nén. Đó là một thỉnh nguyện vì sự tự do kinh doanh và tự do lưu thông:
cứ để cho làm, cứ để cho qua. Turgot sẽ nâng những nguyên lí của tự do kinh
doanh lên mức cao nhất bằng cách thuyết phục vua Louis XVI kí sắc lệnh thiết
lập tự do thương mại ngũ cốc (1774) và sắc lệnh bãi bỏ những ban quản lí phường
hội (1776).
![]() |
Hugo Grotius (1583-1645) |
![]() |
Samuel von Pufendorf (1632-1694) |
![]() |
John Locke (1632-1704) |
Đó là do trong thời gian trên tự do kinh doanh đã được nâng lên hàng một
nguyên lí của triết học kinh tế. Đây là sự tiếp nối logic của học thuyết quyền
tự nhiên và trật tự tự nhiên được Grotius, Pufendorf và nhất là Locke rao giảng
trong thế kỉ XVII. Con người là một sinh vật có ý thức, có lí trí và có những
quyền. Cuộc sống trong xã hội được hiểu như một mạng những quyền và nghĩa vụ mà
các cá thể thừa nhận cho nhau. Quyền sở hữu là qui tắc xã hội cho phép cấu trúc
hoá những tương tác này. Thật vậy, quyền sở hữu cho phép mỗi người có quyền
trên sản phẩm của hoạt động của bản thân, do đó cho phép trao quyền này đổi lấy
sản phẩm của hoạt động của những người khác. Mặc dù được các nhà trọng thương
trình bày vụng về nhưng ý tưởng về một trật tự kinh tế tự nhiên vẫn tiến triển
và cuối cùng, nhờ Turgot và Adam Smith, điều được xác lập rõ ràng là trao đổi, mà con người hướng
đến một cách tự nhiên, là nguồn gốc của những lợi ích cho đôi bên, làm tăng
phúc lợi của những bên tham gia và dẫn đến sự hài hoà xã hội. Do đó, mọi cản
trở tự do kinh doanh, mọi giới hạn hoạt động kinh tế là một sự vi phạm đến bản
chất và những quyền cơ bản của con người, đồng thời là một sự đe doạ cho trật
tự kinh tế tự nhiên. Cuộc Cách mạng sẽ tuyên bố “quyền tự do của
thương mại và công nghiệp”.
Adam Smith (1723-1790) |
![]() |
Jean Baptiste Say (1767−1832) |
Tuy nhiên sự tin tưởng vào “bàn tay vô hình” và vào diễn tiến hài hoà của một nền kinh tế được tự do hoá
sẽ bị những cuộc khủng hoảng gọi là “sản xuất thừa”, được xem là gắn
với cuộc cách mạng công nghiệp, làm lung lay. Chính lúc này Jean Baptiste Say sẽ chứng minh về mặt lí thuyết là không thể có khủng hoảng
trong một nền kinh tế dựa trên sự tự do trao đổi sản phẩm của doanh nghiệp tự
do, nghĩa là trên sự trao đổi những “quyền thật sự” ra đời từ việc
sáng tạo ra của cải. Một cách đối lập, J. B. Say không có đủ yếu tố để giải
thích sự có mặt cụ thể thường xuyên của những cuộc khủng hoảng: đó là do các
chính phủ tiếp tục vi phạm nguyên lí “tự do kinh doanh”. Do thiếu tính
trung lập của tiền tệ và thuế khoá, không muốn từ bỏ việc chi phối một số mặt
của sản xuất trao đổi và việc kiểm soát
quyền sở hữu tư nhân nên các nhà cầm quyền đã tạo điều kiện ưu đãi cho việc
phân phối những “quyền giả tạo” (J. Rueff) và ngăn cản sự hoàn thành của những hài hoà kinh
tế. Frédéric Bastiat sẽ giải thích vì sao các chính khách lại hành xử như thế.
Đây là sự suy đồi của nền dân chủ đại diện, một hệ thống trong đó nhân dân không
còn kiểm soát trực tiếp Nhà nước nữa mà kiểm soát gián tiếp thông qua những dân
biểu, mà đối với những dân biểu này việc kiểm soát dần dần ít được ưu tiên bằng
việc bầu cử. Các dân biểu dần dần thông qua những chi tiêu mới (do đó những
thuế mới) nhằm mở rộng số cử tri bầu cho mình, bảo vệ người nước mình (là những
cử tri) chống người nước ngoài (không phải là cử tri), qui định hoá tuỳ theo
những lợi ích cục bộ có khả năng tác động đến kết quả bầu cử.
![]() |
Frédéric Bastiat (1801-1850) |
![]() |
Jacques Rueff (1896-1978) |
Từ ba thế kỉ nay những người ủng hộ tự do kinh doanh không ngừng đấu tranh
chống lại những độc quyền, những đặc quyền, sự tuỳ tiện thuế khoá, những thao
túng tiền tệ, những qui định, chi tiêu công cộng và chủ nghĩa bảo hộ và thu
được những thắng lợi không đồng đều. Ngày nay toàn cầu hoá, việc “chuyển đổi sang
thị trường”, sự phình to quá mức khu vực công khiến cho cuộc chiến đấu
này thêm quyết liệt. Có thể là những cơ hội thành công của tự do kinh doanh sẽ
lớn hơn nếu ta biết được rằng “tự do kinh doanh” không có nghĩa là điều gì. Tự do kinh doanh không có nghĩa
là vô chính phủ, nhưng là sự phối hợp các hoạt động kinh tế bằng một quá trình
phi tập trung: thị trường. Tự do kinh doanh cũng lại càng không có nghĩa là sự
buông thả dễ dãi, thiếu vắng qui tắc nhưng là việc tôn trọng những qui tắc được
một truyền thống xã hội tiến hoá thường xuyên tự do suy ra từ những quyền cá
nhân. Tự do kinh doanh là một đòi hỏi trách nhiệm cá nhân, là một niềm tin vào
những điều tốt lành của sự sáng tạo và hợp tác của con người.
▶ LAURENT A. & TURGOT, Laissez-faire, Paris, Les
Belles Lettres “Iconoclastes” n0 27, 1997. – ROTHBARD M., Economic
Thought before Adam Smith, E. Elgard, Hants (U.K.) và Brookfield (USA),
1995, vol. I, p. 367-371 và 385-412. – SCHUMPETER J. History of Economic
Analysis, New York, Oxford University Press, 1954.
Jacques GARELLO
Giáo sư đại học Aix-Marseille 3
Nguyễn
Đôn Phước dịch
Nguồn: Dictionnaire des sciences
économiques, Claude Jessua, Christian Labrousse, Daniel Vitry (đồng chủ
biên), Paris, 2001, PUF.
