NHỮNG HOẠT ĐỘNG DỊCH CHUYỂN TRUNG TÂM: CHUYẾN DU HÀNH LỚN VỚI GISÈLE SAPIRO ĐẾN BERLIN - SAU KHI VÒNG QUA NEW DELHI
GISÈLE SAPIRO — Để nói với chúng ta về vai trò của Berlin trong lưu hành các ý tưởng và tác phẩm – và ảnh hưởng của thành phố này đối với chính các công trình của mình – nhà xã hội học Gisèle Sapiro đã muốn ghé qua một điểm dừng chân bất ngờ.
Chúng tôi dõi theo bà trong các hội chợ sách, các nhà xuất bản, các định chế học thuật ẩn sâu trong rừng, nơi người ta dùng bữa trưa bên bờ hồ, sau một hội thảo về nghiên cứu.
Một lộ trình trên toàn cầu luôn đưa chúng ta về Alexanderplatz.
Tác giả: Jean-Irénée Chareton, Pierre Ramond
Loạt bài Grand Tour của chúng tôi tiếp tục. Sau Nikos Aliagas về Missolonghi, Françoise Nyssen về Arles, Gérard Araud về Hydra, Édouard Louis về Athènes, Anne-Claire Coudray về Rio, Edoardo Nesi về Forte dei Marmi, Helen Thompson về Naples, Pierre Assouline về đảo Corse, Denis Crouzet và Élisabeth Crouzet-Pavan về Venise hay Carla Sozzani về Milan, Edwy Plenel về Martinique, Mazarine Mkitterrand Pingeot về La Charité-sur-Loire và Jean-Pierre Dupuy về California, Hélène Landemore về Islande, Jean-Christophe Rufin về Albanie, Bruno Patino về Strasbourg, Fabrice Arfi về Lyon, Gisèle Sapiro đưa chúng ta đến Berlin – nhưng cũng phần nào đến New Delhi, để tìm hiểu những nơi chốn của lĩnh vực văn học xuyên quốc gia, trong sự tiếp nối với tác phẩm mới nhất của bà. Một tác giả toàn cầu là gì? (Qu’est-ce qu’un auteur mondial?) (Nhà xuất nản Gallimard, 2024).
Trong khuôn khổ Chuyến Du hành lớn này đến Berlin, bà đã tha thiết muốn bắt đầu bằng cách nói với chúng tôi về… New Delhi. Tại sao – chúng ta sẽ trở lại vấn đề này, nhưng trước hết là: bà đã gặp Ấn Độ như thế nào?
![]() |
Gisèle Sapiro |
Cuộc viếng thăm Ấn Độ đầu tiên của tôi là vào năm 2004, nhân dịp hội thảo đầu tiên về Pierre Bourdieu ở Ấn Độ. Lúc đó tôi hoàn toàn không biết gì về văn hoá Ấn Độ, trừ một ít về kinh Vệ Đà mà tôi đã học trong triết học. Lúc đó tôi đã khám phá ra nền văn hoá vô cùng cổ xưa này, các truyền thống âm nhạc, vũ điệu. Mặc dù có những bất bình đẳng quá rõ ràng, một cảm giác yên bình vẫn ngự trị trong thành phố. Đó cũng là một thành phố không có trung tâm – Đây là một điều khá lạ.
Trong thời gian một tuần ở Ấn Độ, tôi đã đến hội chợ sách New Delhi và ngẫu nhiên tôi lấy ra một quyển sách từ một ngăn kệ sách – tất nhiên là bằng tiếng Anh - có một bài báo với tựa đề “Tại sao Hội chợ Delhi là một sỉ nhục quốc gia”. Bài báo giải thích rằng những nhà xuất bản đại diện tại hội chợ này chủ yếu là những tập đoàn lớn của Anh Quốc đến đây để bán văn chương của Ấn Độ cho người Ấn Độ, vì họ nắm quyền phát hành đối với phần lớn các nhà văn nổi tiếng nhất. Đó quả là trọng tâm của những mối quan tâm của tôi, vì tôi đã nghiên cứu sự lưu hành quốc tế các tác phẩm, những bất bình đẳng và bất đối xứng của sự lưu hành này.
Tôi đã trở lại Ấn Độ 15 ngày năm 2022, theo lời mời của Trung tâm các khoa học nhân văn (CSH) của Delhi, để trình bày một loạt diễn thuyết về sự lưu hành các ý tưởng, những bản dịch và văn chương thế giới. Annie Ernaux vừa nhận giải thưởng Nobel về văn chương và do đó đã có thêm bốn buổi diễn thuyết về sự kiện này. Thế là người ta yêu cầu tôi nói về Annie Ernaux bất kỳ nơi nào tôi đến: đã có một yêu cầu rất mạnh mẽ và nó đã dấy lên một sự quan tâm to lớn! Mọi người đều muốn đọc Ernaux, nhưng không có sách của bà. Phải hai hoặc ba tháng sau sách mới đến được.
Một số nhà xuất bản nhỏ của Ấn Độ lấy nhiều rủi ro để xuất bản và phổ biến một tiếng nói có tính phê phán chế độ hơn.
GISÈLE SAPIRO
Ngay cả sau khi tôi rời đi, một nhà báo Ấn Độ đã viết cho tôi rằng ông ấy đã có mặt tại nhà sách chính của New Delhi, đã nghe trong vòng nửa giờ ít nhất là bốn người yêu cầu về các tác phẩm của Annie Ernaux. Tuy nhiên, đã không thể tậu được sách vì sách của Annie Ernaux chỉ được xuất bản bằng tiếng Anh bởi hai nhà xuất bản nhỏ: Seven Stories từ những năm 1990 và gần đây hơn là Fitzcarraldo ở Anh Quốc. Mặc dù sau này sách được Penguin phát hành, các đầu sách của nhà xuất bản Seven Stories ít được phổ biến tại Ấn Độ, nơi này chủ yếu phân phối những quyển sách được phát hành rộng rãi.
Giai thoại này bộc lộ những chênh lệch trong lưu hành và sự phân cực của thị trường sách thế giới giữa một bên là chu trình phân phối lớn do các tập đoàn này kiểm soát, và bên kia là cái mà Pierre Bourdieu gọi là “cực sản xuất hạn chế” của xuất bản, ở đó các sách được lưu hành bởi các mạng lưới phi chính thức hơn, thông qua những mối quan hệ quen biết nhau, và sự đa dạng về ngôn ngữ và văn hoá rộng lớn hơn như tôi nêu ra trong các công trình của tôi.
Đó là một chỉ báo của tính ngoại vi kép của Ấn Độ: trên thị trường sách thế giới và trong phạm vi ngôn ngữ Anh, vốn có các trung tâm của họ ở Luân Đôn và New York.
Tất nhiên, tính chất phi tự do của chế độ làm mạnh thêm xu hướng này. Tôi đã có dịp thảo luận với nhiều nhà xuất bản và nhà báo trong thời gian tôi lưu lại Ấn Độ và việc kiểm soát ngôn luận là chặt chẽ. Đứng trước việc này, các tập đoàn lớn của Anh Quốc – họ chỉ quan tâm đến thu lợi –, đi theo hướng của kiểm duyệt. Trái lại, một số nhà xuất bản nhỏ của Ấn Độ lấy nhiều rủi ro để xuất bản và phổ biến một tiếng nói có tính phê phán chế độ hơn.
Ấn Độ chiếm vị trí như thế nào trong hệ sinh thái văn chương thế giới?
Tại Ấn Độ, bất bình đẳng không chỉ tồn tại giữa các nhà xuất bản, mà còn giữa các ngôn ngữ. Tiếng Anh chiếm một vị trí trung tâm, nhưng tại Ấn Độ người ta nói 234 thứ tiếng khác nhau trong đó có 22 ngôn ngữ chính thức. Thế nhưng văn chương Ấn Độ được lưu hành lại hầu như hoàn toàn bằng tiếng Anh, và do đó tất cả các ngôn ngữ khác bị loại ra khỏi thị trường dịch thuật và như vậy là bị loại khỏi phạm vi văn chương xuyên văn hoá – cho dù có 40 triệu dân dùng các ngôn ngữ này.
Chỉ có một nhà văn Ấn Độ đã đạt giải thưởng Nobel: đó là Rabindranath Tagore – nhà thơ viết bằng ngôn ngữ Bengali và tự dịch ra tiếng Anh. Ông đã được Hội các tác giả Anh Quốc (Society of Authors) tiến cử với Viện Hàn lâm Thuỵ Điển.
Ngày nay, quyền lực xuất bản nằm ở Luân Đôn, New York, Paris hoặc ở Frankfurt, Munich, Hambourg – nước Đức phi tập trung hơn – và từ nay là Berlin đã lại trở thành một trung tâm sau khi nước Đức thống nhất.
GISÈLE SAPIRO
Tuy nhiên, bước ngoặt của toàn cầu hoá đã tạo thuận lợi cho sự nổi lên của các nền văn chương ngoại vi. Đăng quang của Những đứa trẻ lúc nửa đêm (Les Enfants de Minuit) của Salman Rushdie năm 1981 do Booker Prize trao giải là một thời khắc mang tính quyết định. Sau này, năm 1997, Booker cũng đã trao giải thưởng cho Arundhati Roy.
Hiện tượng này không phải chỉ liên quan đến Ấn Độ: năm 1984, Wole Soyinka là nhà văn Phi châu đầu tiên, sống ở châu Phi (Nigeria) đã được giải thưởng Nobel.
Tuy vậy, không nên quên rằng những tác giả xuất thân từ các vùng ngoại vi và đạt được sự thừa nhận xuyên quốc gia đã có các tác phẩm được các nhà xuất bản Anh Quốc công bố. Đàng sau vẻ bề ngoài có sự đa dạng về địa lý và dân tộc của văn chương toàn cầu, không có đa dạng hoá ngôn ngữ cũng như đa dạng hoá các nhà xuất bản. Trái lại, trong thời đại toàn cầu hoá này, ta chứng kiến một sự tập trung chung quanh các tập đoàn xuất bản lớn, như Penguin và Bertelsmann (đã hợp nhất vào năm 2013). Do đó, ngày nay, quyền lực xuất bản nằm ở Luân Đôn, New York, Paris hoặc ở Frankfurt, Munich, Hambourg – nước Đức phi tập trung hơn – và từ nay là Berlin đã lại trở thành một trung tâm sau khi nước Đức thống nhất.
Tuy vậy - tình hình đang biến chuyển.
Lần đầu tiên, một nhà văn mà tác phẩm được dịch từ tiếng hindi – ngôn ngữ chính thức của New Delhi – đã đạt gỉải thưởng của Booker Prize năm 2022: Gitanjali Shree. Năm đó, chính một nhà văn nữ là Banu Mushtaq mà tác phẩm được dịch từ tiếng Kannada – một trong những ngôn ngữ của bang Karnataka – đã đạt giải thưởng. Ta đang chứng kiến một sự gia tăng mối quan tâm đến các ngôn ngữ này, vốn một thời nằm ngoài thị trường dịch thuật.
![]() |
Đó cũng là trường hợp của các ngôn ngữ châu Phi. Bạn có biết một tác giả nào viết bằng tiếng wolof? Một số người cố gắng chống lại xu hướng nặng nề này: gần đây Felwine Sarr và Boubacar Boris Diop đã thành lập một nhà xuất bản là Jimsaan, có trụ sở ở Dakar, để dịch các tác phẩm văn chương châu Phi qua tiếng Pháp và đặc biệt là từ tiếng wolof. Mặt khác, Jimsaan, và Philippe Rey, cùng xuất bản tác phẩm Hồi ức bí mật nhất của con người (La plus secrète mémoire des hommes) của Mbougar Sarr. Chính những hợp tác đồng xuất bản như thế sẽ giúp cho các tác giả của các ngôn ngữ vùng ngoại vi và những người trung gian địa phương xuất hiện trên diễn đàn quốc tế.
Trong trường hợp của Ấn Độ, có phải sự phát triển mạnh mẽ về mặt địa chính trị đồng hành với việc phát hành ngày càng gia tăng các văn bản trên thế giới?
Có một mối tương quan nhưng không có hệ thống.
Hãy nghĩ đến trường hợp của nước Mỹ vốn là một thuộc địa của nước Anh và đã để 200 năm sau khi giành độc lập để chiếm ưu thế trên thị trường sách thế giới. Ta thường quên việc này đã chậm trễ đến mức nào. Trước tiên đã phải chờ một thế kỷ để ngành xuất bản của Mỹ trở thành tự trị và một nền văn chương Mỹ riêng biệt được khẳng định. Rồi từ năm 1955 đến 1978, thời gian số sách được xuất bản ở Mỹ gia tăng gấp sáu lần – nghĩa là gấp đôi số sách ở Pháp và ở Đức –, ta quan sát thấy một sự đảo ngược các tương quan lực lượng về xuất bản giữa Mỹ và châu Âu.
Sự hiện diện trên trường quốc tế này cũng liên quan đến những thách thức của chiến tranh lạnh: nghệ thuật trừu tượng hiện đại đã biến thành công cụ của quyền lực mềm của Mỹ trong cuộc chiến chống lại Liên Xô khi nước này đẩy mạnh chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, ở Mỹ đã có những nhà sưu tập và bảo tàng nghệ thuật hiện đại như MoMa, nhưng đó vẫn còn là kết quả của những sáng kiến tư nhân, Nhà Nước liên bang chỉ thiết lập chính sách này sau chiến tranh.
Một số người lấy rủi ro, đặc biệt là một khi ở những nơi khác ngoài Ấn Độ. Được hội sách Berlin mời vào năm 2009, Arundhati Roy đã đọc một bài diễn văn có tính chất rất chính trị về sự thụt lùi của nền dân chủ.
GISÈLE SAPIRO
Ngày nay ta thấy Trung Quốc tăng cường sức mạnh về các phương diện địa chính trị và kinh tế, nhưng tương quan lực lượng chưa thay đổi trên phương diện ngôn ngữ: tiếng Anh vẫn thống trị. Tuy nhiên, về phương diện nghệ thuật, ta thấy có những nhà sưu tập lớn người Trung Quốc đã làm tăng giá trị của một số nghệ nhân Trung Quốc trên sàn đấu giá Christie hay Sotheby, nhưng việc này vẫn giới hạn ở trung tâm thương mại của thị trường mỹ thuật. Mặc dù có một truyền thống văn chương lớn và hoạt động sản xuất sách quan trọng, Trung Quốc vẫn ở bên lề trên thị trường dịch thuật.
Liệu chủ nghĩa phi tự do của chế độ có tác động đối với các trí thức ở Ấn Độ?
Trong những chế độ phi tự do, những quyền tự do căn bản bề ngoài có vẻ được tôn trọng. Ví dụ, ở Thổ Nhĩ kỳ, vẫn còn một sự tự do ngôn luận nhất định và thị trường sách không hoàn toàn bị kiểm duyệt, những quyển sách của nhà xã hội học và là nhà văn nữ Pinar Selek, sống lưu vong ở Pháp và bị chế độ Thổ Nhĩ Kỳ truy đuổi, vẫn tiếp tục được phát hành, nhưng sự kiểm soát các đại học đã được thắt chặt rất mạnh. Tại Ấn Độ, các đại học cũng cảm nhận được những áp lực của chính quyền mặc dù áp lực không lộ rõ; chúng được biểu hiện qua những đe doạ mơ hồ và không tỏ rõ ra như vậy.
Một số người lấy rủi ro, đặc biệt là một khi ở bên ngoài Ấn Độ. Arundhati Roy tận dụng vốn biểu tượng của mình và sự ủng hộ của các nhà xuất bản lớn để có những phát ngôn có tính rất phê phán đối với chính phủ Ấn Độ. Được lễ hội sách Berlin mời vào năm 2009, bà đã đọc một bài diễn văn có tính chất rất chính trị về sự thụt lùi của nền dân chủ.
Có phải sự xuất hiện của các lễ hội và các hội chợ lớn về văn chương ngoài khu vực phương Tây là một nhân tố mới nổi lên của các trung tâm mới về phổ biến và lưu hành văn chương?
![]() |
Những hội chợ này đã nhân lên gấp bội từ những năm 1980 – ví dụ ở Guadalajara, New Delhi, Ouagadougou – chắc rằng sẽ giúp hiển thị rõ hơn các nền văn chương ngoại vi, gắn kết các tác giả vào các mạng lưới xuyên quốc gia và làm cho họ hiện hữu. Tất nhiên, các nhà văn, nam cũng như nữ, được biết đến nhiều nhất có thể chọn các hội chợ mà họ tham dự: vậy là xuất hiện một hệ thống thứ bậc mang tính biểu tượng giữa các hội chợ cũng như giữa các lễ hội.
Tôi nêu ra trong quyển sách mới nhất của tôi, Một tác giả toàn cầu là gì? (Qu’est-ce qu’un auteur mondial?), rằng các lễ hội Anh ngữ lớn, vốn chiếm một vị trí thống trị, không phải là đa dạng nhất về phương diện ngôn ngữ và nguồn gốc địa lý của những tác giả được mời. Chính là các lễ hội quy mô trung bình, tổ chức tại châu Âu, mới là đa dạng và đặc biệt là lễ hội ở Berlin, nơi có một chương trình nghị sự đi ngược lại các xu hướng của thị trường sách.
Vai trò của các cá nhân – hơn cả các nhà xuất bản – vẫn là chủ yếu để làm nổi lên những tác giả mới của các vùng ngoại vi.
GISÈLE SAPIRO
Dù sao cũng nên đề cập đến các hội chợ ở châu Mỹ La tinh vốn gây ấn tượng rất mạnh. Có một số hội chợ kéo dài đến ba tuần! Khi đến hội chợ sách quốc tế Filbo ở Bogota, tôi nhớ đã thấy một gian hàng dành riêng cho Gabriel García Márquez, đại văn hào người Colombia, đạt giải Nobel văn chương (1982). Có một cột rất lớn các sách của Márquez. Và bỗng nhiên tôi thấy một tấm bảng đề “Random House” trên cột sách: Márquez được xuất bản bằng ngôn ngữ của ông và tại đất nước của ông bởi nhà xuất bản Anh ngữ Random House, một chi nhánh của tập đoàn Bertelsmann của Đức!
Cũng như vậy, lúc đầu lẽ ra Márquez phải được xuất bản tại Tây Ban Nha để đạt đến sự nổi tiếng trên trường quốc tế, theo nguyên tắc các nhà văn có gốc từ các vùng ngoại vi của một khu vực ngôn ngữ phải đi qua trung tâm để được gắn kết vào lĩnh vực văn chương xuyên quốc gia.
Đối với các nhà văn Mỹ La tinh cũng như Ấn Độ, đó còn là điều kiện đạt đến sự nổi tiếng thế giới, bất chấp một thị trường xuất bản vô cùng năng động ở Mỹ La tinh, nhất là từ khi có các nhà trí thức và nhà xuất bản lưu vong rời khỏi Tây Ban Nha dưới thời Franco. Trong vùng bán ngoại vi này dù sao cũng nổi lên các trung tâm: Mexico là một, Argentina là hai.
Trong hoàn cảnh này, và do tương quan lực lượng thường trực giữa trung tâm và ngoại vi – mặt khác một khung khái niệm được tạo thành ở Mỹ La tinh trong khuôn khổ các học thuyết về sự lệ thuộc – vai trò của các cá nhân vẫn còn thống trị để làm nổi lên các tác giả mới. Sự “bùng nổ” của Mỹ La tinh trong những năm 1960-1970 là phần lớn nhờ vào hoạt động và năng lượng của đại lý Tây Ban Nha Carmen Balcells. Tại Ấn Độ, một nhà xuất bản nhỏ như Seagull Books có ý định cạnh tranh với các tập đoàn lớn của Anh Quốc ngay chính trên lãnh thổ của họ, bằng cách dịch các tác phẩm bằng các ngôn ngữ của châu Âu – Ví dụ của Hélène Cixous, của Pascal Quignard, hay còn là của nhà văn Togo Kossi Efoui từ tiếng Pháp – nhưng cũng từ tiếng Ả Rập nữa.
Bà đã rất muốn nói đến những khó khăn của Ấn Độ để trở thành một trung tâm phổ biến văn chương từ một giai thoại mở đầu cuộc đối thoại này. Một thành phố khác từ lâu đã là một khu vực ngoại vi của thế giới văn chương toàn cầu trước khi trở thành một trung tâm. Một thành phố mà bà có một mối quan hệ đặc biệt – Berlin, điểm đến cuối cùng của chuyến du lành lớn khởi đầu từ Delhi. Người ta đến Berlin như thế nào?
![]() |
Quan hệ của tôi với các thành phố của nước Đức bắt đầu từ Fribourg-en-Brisgau.
Sau khi phát hành quyển sách đầu tiên của tôi, Cuộc chiến của các nhà văn (La guerre des écrivains), vào năm 1999, bàn về lĩnh vực văn chương của Pháp trong thời kỳ Đức chiếm đóng, trong khoảng chừng mươi năm tôi đã trình bày ở Fribourg-en-Brisgau một hội thảo kết hợp với Joseph Jurt về “văn chương và xã hội” tại Frankreich Zentrum, được khai trương năm 1989 bởi hội nghị nổi tiếng của Pierre Bourdieu về các điều kiện xã hội của sự lưu hành các ý tưởng trên trường quốc tế.
Vào kỷ nguyên toàn cầu hoá, chủ thuyết đa văn hoá đã xâm nhập vào Đức sớm hơn Pháp và việc lập chương trình văn hoá mà ta hưởng được trong các cuộc viếng thăm Berlin phản ánh một sự cởi mở lớn hơn.
GISÈLE SAPIRO
Sau đó tôi đã được mời đến nhiều hội thảo và hội nghị ở Berlin, Cologne, Bielefeld, Oldenburg, Munich, Constance, Bonn, Sarrebruck… Mối quan hệ của tôi với Berlin đã thay đổi khi tôi đã lưu lại dài ngày ở đây trong những năm 2018-2019, với tư cách là là cư dân ở Wissenschaftskolleg (Institute of Advanced Study), hay còn gọi là “Wiko”, nơi được xem là thiên đường của các nhà nghiên cứu.
Đâu là chỗ đứng của các cuộc lưu trú này trong các nghiên cứu của bà? Các cuộc lưu trú này đã có ảnh hưởng gì đối với cách nhìn của bà về sự lưu hành các ý tưởng trên trường quốc tế và văn chương toàn cầu?
Về phương diện các nghiên cứu của tôi, một năm ở Wissenchaftskolleg đã tạo điều kiện cho tôi thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn với những người đại diện văn chương và các nhà văn, và với giám đốc của lễ hội văn chương quốc tế Berlin.
Có một sự tương phản giữa một bên là sự tập trung trong hoạt động xuất bản đã kéo theo một sự giảm sút quan trọng các tác phẩm dịch thuật qua tiếng Đức, và mặt khác là một sự mở rộng đến chủ nghĩa đa văn hoá. Xuất bản văn chương đi theo các xu hướng của xuất bản Anh ngữ: sự nữ hoá là khá mới – cho đến năm 1990, chỉ có bốn phụ nữ đã được trao giải thưởng danh giá Buchner – và sự đa dạng hoá về dân tộc được thực hiện vì lợi ích của các nhóm dân tộc thiểu số và những người nhập cư. Do đó, năm 2022, giải thưởng Buchner đã được trao cho nhà văn nữ Đức gốc Thổ Nhĩ Kỳ Emine Sevgi Özdamar.
Lễ hội Berlin chứng kiến việc mở ra chủ trương đa văn hoá, đa dạng hơn về số tác giả khách mời so với các lễ hội Anh ngữ lớn, và thúc đẩy một chương trình nghị sự chính trị, cung cấp một diễn đàn công cộng thay thế khác cho các nhà văn như là những nhà trí thức dấn thân, lại thường là phụ nữ: ví dụ Arundhati Roy, người được giải thưởng Booker Prize năm 1997 cho tiểu thuyết đầu tiên của bà Thượng Đế của những điều nhỏ bé (Le Dieu des Petits Riens), bà dùng vốn biểu tượng của mình để phê phán chế độ, bà đã được mời phát biểu khai mạc năm 2009, như tôi đã đề cập ở trên.
Như vậy lễ hội này duy trì truyền thống của Đức là quan tâm đến chủ trương đa ngôn ngữ và dịch thuật, một truyền thống ra đời để phản ứng lại sự thống trị bao trùm của văn hoá Pháp. Lễ hội cũng chống lại quan niệm kỳ thị chủng tộc trong văn hoá của chủ nghĩa quốc xã, mà lĩnh vực văn chương đã thể hiện trong đại hội đầu tiên của các nhà văn tại Weimar do Goebbels khởi xướng năm1941.
Vào kỷ nguyên toàn cầu hoá, chủ thuyết đa văn hoá đã xâm nhập vào Đức sớm hơn Pháp và việc lập chương trình văn hoá mà ta hưởng được trong các cuộc viếng thăm Berlin phản ánh một sự cởi mở lớn hơn.
Đối với các nhà văn Đông Âu, các nhà xuất bản Đức vẫn là bệ phóng tiến ra quốc tế. Ngày nay, điều đó cũng diễn ra với các giải thưởng châu Âu.
GISÈLE SAPIRO
Mặc dù bà đã nhắc đến Berlin như là nơi dẫn nhập vào chủ thuyết đa văn hoá, trong tác phẩm Qu’est-ce qu’un auteur mondial? bà viết rằng thành phố này đã trở thành một trung tâm xuất bản chỉ sau khi thống nhất nước Đức. Những nhà xuất bản đã xuất bản nhiều sách đạt giải Nobel nhất là Fischer và Hanser, với trụ sở tương ứng là Frankfurt và Munich. Bà có quan sát diễn biến này không? Bà dành cho Berlin chỗ đứng nào trong việc lưu hành văn chương của Đông Âu tại châu Âu và quốc tế?
Thật vậy, Berlin đã lấy lại chỗ đứng trong xuất bản chỉ sau thống nhất nước Đức. Các nhà xuất bản như Suhrkamp đã được bố trí ở đó. Và, thực vậy, thành phố đã đóng một vai trò trong việc du nhập văn chương Đông Âu trên trường quốc tế, với một chương trình cụ thể hỗ trợ việc dịch thuật trong khuôn khổ của “Literarisches Colloquium Berlin” (Hội nghị văn chương Berlin). Đối với các nhà văn Đông Âu, các nhà xuất bản Đức vẫn là bệ phóng tiến ra quốc tế. Ngày nay, việc này cũng diễn ra qua các giải thưởng châu Âu.
Tôi đến Berlin lần đầu tiên năm 2000 và tôi còn nhớ một sự sôi động ngoài sức tưởng tượng sau thống nhất. Lúc đó Berlin là một thành phố với một sự năng động cuốn hút, với những cơ sở và hoạt động văn hoá rất phong phú, những không gian thân thiện, những quán bar hấp dẫn đối với giới trẻ, những mảng xanh rộng lớn, một tinh thần cởi mở và hiếu khách.
Một trong những thách đố của thành phố sau khi bức tường sụp đổ là dựa vào nghệ thuật đương đại, và đã thành công! Ngày nay, Berlin là thủ đô của nghệ thuật đương đại. Hamburger Bahnhof, một bảo tàng được xây dựng trong một nhà ga cũ, mở cửa năm 1996, là một trong nhưng nơi có giá trị hàng đầu. Cũng cần kể thêm Berlinische Galerie, KW Institute for Contemporary Art, và nơi thôi thích nhất, Gropius Bau, một bảo tàng cổ về nghệ thuật trang trí.
Rồi có âm nhạc. Đặc biệt Staatsoper là một nơi mơ ước. Vẻ đẹp của toà nhà được xây dựng vào thế kỷ XVIII trên đại lộ Unter den Linden, ngay giữa trung tâm của Berlin lịch sử, kết hợp với một kế hoạch chương trình với phẩm chất tuyệt vời. Thật là vô cùng sáng tạo, một sự chặt chẽ với yêu cầu rất cao. Ví dụ tôi đã tham dự buổi trình diễn vở opéra Incoronazione di Poppea của Monteverdi với sự dàn dựng khung cảnh tráng lệ của Eva-Maria Höckmayr. Ta hiếm khi thấy một dàn cảnh như vậy ở Metropolitan Museum of Art (MET) ở New York, ở đó thị hiếu bảo thủ hơn và các sản phẩm tuân thủ theo những lựa chọn của công chúng thuê bao.
Tôi chưa bao giờ đi xem opéra nhiều như năm tôi sống ở Berlin. Còn có nhà hát Philharmonie, ở đó tôi đã được nghe Written on skin, vở opéra của của nhà soạn nhạc đương đại lừng danh người Anh George Benjamin, lúc đó ông sống ở Berlin. Ngày nay, có lẽ cơ sở và hoạt động văn hoá này còn dễ tiếp cận hơn cả Paris.
Từ năm 2015 đến 2016, nước Đức đã tiếp nhận hơn một triệu người nhập cư, điều này đã làm phong phú thêm tính đa văn hoá. Ví dụ, các quán ăn Syria đã mở cửa ở Berlin, chúng tôi đã đến ăn tối ở đó.
Sự mở cửa ra thế giới và xu hướng đổi mới này tiếp diễn và sâu hơn, bất chấp một vài tranh cãi có tính chất chính trị và trong tranh luận công cộng. Khi tôi ở Berlin năm 2018, và tôi lui tới Haus der Kulturen der Welt (Nhà các nền văn hoá thế giới), người ta thảo luận rất nhiều về việc hoàn trả các tác phẩm văn hoá đã bị cướp phá. Nước Đức vừa hoàn trả chín vật phẩm tuỳ táng cho Alaska. Việc phục dựng lâu đài Berlin – đã bị phá huỷ để xây dựng Cung điện Nhân dân vào thời Cộng Hoà Dân chủ Đức – với mục đích tiếp nhận các bộ sưu tập dân tộc học đã gây ra tranh luận. Các chuyên gia đã bị chia rẽ - và luôn luôn như vậy- giữa một văn hoá bảo thủ hơn, có phần duy mỹ, tự nhận là ủng hộ một chủ nghĩa phổ quát trừu tượng đồng thời muốn nắm giữ các tác phẩm với những người bênh vực cho việc hoàn trả.
Đồng thời, công việc dịch chuyển trung tâm địa văn hoá đã được tiến hành: ví dụ người ta có thể xem trên đảo các bảo tàng, một cuộc triển lãm tạo sự đối thoại giữa các tác phẩm cổ điển của châu Âu và các tác phẩm ngoài châu Âu trong cùng một thời kỳ. Điều đó đã gây ngỡ ngàng và rất phong phú.
Từ năm 2015 đến 2016, nước Đức đã tiếp nhận hơn một triệu người nhập cư, điều này đã làm phong phú thêm tính đa văn hoá.
GISÈLE SAPIRO
Có những nơi nào khác ở Berlin có thể là hiện thân của sự mở ra thế giới này?
Hai không gian đặc biệt quan trọng dưới mắt tôi. Haus der Kulturen der Welt (“Nhà các nền văn hoá thế giới”), nơi tổ chức các hội nghị, các cuộc tranh luận, triển lãm, hoà nhạc. Nhờ một kế hoạch chương trình tuyệt vời, mời các nghệ sĩ trên toàn thế giới, đặc biệt là các nghệ sĩ từ phương Nam, nơi này giúp giải thiêng nền văn hoá bác học bằng cách làm cho nó dễ tiếp cận và đa dạng hoá.
Tôi cũng đã đánh giá cao việc lập chương trình của Berlinale, là liên hoan phim Berlin, nơi ta có thể xem những phim của các đạo diễn châu Phi trong số các phim khác. Năm ngoái, nữ đạo diễn người Pháp gốc Sénégal Mati Diop đã nhận giải Gấu Vàng cho phim Dahomey, phim rất đẹp về quá trình hoàn trả (hoàn trả các tác phẩm nghệ thuật bị cướp phá từ vương quốc Dahomey (nay là Benin) trong thời kỳ thuộc địa - ND), một chủ đề mà tôi hết sức quan tâm.
Điều gì làm cho Wissenschaftskolleg trở thành một nơi mơ ước? Điều gì làm cho nơi này trở nên dễ chịu, đáng yêu đến thế? Ở đó bà đã kết nối các mối quan hệ gì về trí thức và nghệ thuật?
Wissenschaftskolleg nằm trong một biệt thự rất đẹp gần rừng Grunewald, ở phía tây thành phố. Nó nằm ven bờ một hồ nhỏ là Halensee, nơi người ta đến tắm vào mùa đẹp trời. Đó là một trong những viện nghiên cứu chuyên sâu nổi tiếng nhất, và khác với viện Princeton lớn hơn, là viện đã tạo được một không khí gần như gia đình.
Những điều kiện làm việc ở đó thật tuyệt vời. Có một hội thảo hàng tuần, tuần tự từng người trình bày dự án nghiên cứu của mình và với dự án đó nhà nghiên cứu đã được tiếp nhận lưu trú ở nơi này. Bạn được theo học tiếng Đức và được cung cấp bữa ăn trưa mỗi ngày và bữa tối vào ngày thứ năm. Có mặt cùng với các đồng nghiệp vào bữa ăn trưa là bắt buộc nhằm tạo thuận lợi cho các giao lưu và thi đua lẫn nhau. Tôi thừa nhận là đã hơi ngại sự bắt buộc này vì tôi thích bảo toàn thời gian của tôi cho công việc. Cuối cùng, bữa ăn trưa ở Wiko đã trở thành một thời điểm mà tôi đã chờ đợi với một sự nóng lòng khó kiềm chế.
Cần nói rằng nơi đó thật vui vẻ: một không gian thân thiện và một sân thượng, người ta có thể vừa dùng bữa vừa nhìn ngắm hồ nước. Thức ăn, được một bà quản lý người Liban giám sát, lành mạnh và khá tinh tế, các loại rượu được lựa chọn kỹ. Sự sắp xếp các bàn đã được thay đổi. Trong quá khứ, tất cả ngồi chung một bàn, giám đốc chủ trì với các nam giới ở bên cạnh và các bà vợ ở cuối bàn. Ngày nay, tất cả được tổ chức chung quanh những bàn nhỏ cho sáu người, cho mọi ngành và cho mọi người. Ở đó, ta thường gặp những người lưu trú cũ đến thăm, hay những người tham dự các hội thảo được tổ chức tại Wiko.
Hai phần ba những người lưu trú tại Wiko là các nhà nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn, và một phần ba là các nhà sinh học. Có thêm một vài nghệ sĩ và nhà văn: năm đó có nữ tác giả người Kenya Yvonne Adhiambo Owuor, nhà văn người Hungary György Dragomán, nhà văn viết tiểu luận người Syria Yassin al-Haj Saleh và nhà soạn nhạc Beat Furrer, người Áo (nói tiếng Đức) gốc Thuỵ Sĩ. Cơ cấu này tạo thuận lợi cho sự giao lưu giữa các ngành khác nhau.
Wissenschaftskolleg nằm trong một biệt thự rất đẹp gần rừng Grunewald, ở phía tây thành phố.
GISÈLE SAPIRO
Ví dụ ở đó có một hội thảo không bắt buộc, mỗi tháng một lần, người ta cố gắng tạo đối thoại giữa các khoa học xã hội và nhân văn với các khoa học tự nhiên. Lần gặp gỡ đầu tiên bàn về Darwin. Lúc đó tôi đã gợi ý cho lần hội thảo thứ hai là mỗi người trong chúng tôi cho biết khái niệm tiến hoá được sử dụng – hay không được sử dụng – như thế nào trong ngành của mình. Mọi người đã giao cho tôi tổ chức. Về phần mình, tôi đã giải thích những dè dặt của ngành xã hội học của tôi đối với khái niệm tiến hoá vốn có một hàm ý quá tuyến tính, thậm chí là có tính mục đích luận, nếu ta nghĩ đến các khái niệm về tiến hoá của thế kỷ XIX. Thay vào đó, các nhà xã hội học nói về “thay đổi” hay “biến đổi” đối với những người theo thuyết cấu trúc mạnh nhất trong chúng tôi, hoặc dùng từ “các tiến hoá” ở số nhiều. Chúng tôi đã có những cuộc thảo luận vô cùng hăng say.
Chúng tôi cũng đã lập ra các nhóm làm việc về nghệ thuật và văn chương. Chúng tôi đã cùng nhau đọc các tác phẩm và sau đó bàn về các tác phẩm này tại buổi ăn tối. Ngôn ngữ làm việc là tiếng Anh, nhưng có rất nhiều người nói tiếng Đức. Ngày thứ tư trong tuần có một bàn tiếng Đức mà người ta có thể chọn ngồi; trong quá khứ cũng có một bàn tiếng Pháp nhưng nó đã không còn. Chúng tôi đã lập lại bàn tiếng Pháp trong thời gian lưu trú của tôi, cho dù những người nói tiếng Pháp không nhiều, nhưng những người Đức và người Áo lưu trú ở đó nói tiếng Pháp rất giỏi.
Trong số những buổi gặp gỡ quan trọng mà tôi đã có ở đó, có buổi gặp Beat Furrer, một trong những nhà soạn nhạc lớn đương đại. Tôi đã có may mắn tham dự các buổi tập dượt vở opéra Violetter Schnee [Tuyết màu tím] của ông tại Staastoper, tham dự buổi công diễn đầu tiên của tác phẩm danh tiếng toàn cầu, cũng như tham dự buổi trình diễn cuối cùng mà chính cá nhân Beat đã điều khiển. Quả là một trải nghiệm tuyệt vời. Tôi cũng đã tham dự các buổi tập dượt của Beat với nhóm tứ tấu Diotima, họ đã đến Wiko để chuẩn bị một buổi hoà nhạc.
Hơn nữa, mối quan hệ bạn bè với Beat vẫn tiếp tục. Năm 2021, ông đã đến Paris với tư cách là nhà soạn nhạc khách mời của liên hoan âm nhạc Ensemble, và ông đã đến soạn nhạc ở nhà tôi, vì phòng của ông ở khách sạn không có đủ chỗ. Ông còn tham gia buổi phỏng vấn của đài phát thanh France Musique từ phòng khách nhà tôi, và tôi đã bất ngờ được mời tham gia! Tôi cũng đã được mời đối thoại với ông cho phiên kết thúc buổi hoà nhạc kỷ niệm sinh nhật 70 tuổi của ông tại thành phố Graz nước Áo. Tôi sắp công bố một quyển sách về ông tại nhà xuất bản Le Nid de Pie, nơi tôi đang chủ biên một bộ sách mang tên “Phòng thí nghiệm của sáng tạo” trong đó tôi mời các nghệ sĩ nói về công việc của họ.
Mối quan hệ của bà với lịch sử của thành phố là như thế nào?
Tất nhiên Berlin là một thành phố đầy ắp lich sử: việc tôi đã sống ở đó một năm không phải là điều hiển nhiên.
Wissenschaftskolleg toạ lạc ở Grunewald. Từ nhà ga S-Bahn đã xuất phát những đoàn xe đi đến các trại tập trung ngay từ tháng 10 năm 1941. Ta thấy số người bị bắt đi tù ở mỗi thời điểm ở địa điểm của đài tưởng niệm mà công ty đường sắt Đức Deutsche Bahn đã xây dựng đồng thời từ chối trả tiền đền bù. Trong khu phố, có nhiều nhà đã là nơi cư trú của những trí thức, nhà xuất bản và nhà báo người Do Thái đã bị lưu đày. Cũng khá gần nơi này là Wannsee, nơi vào tháng 1 năm 1942 đã diễn ra hội nghị nổi tiếng một cách buồn bã về quyết định hình thành giải pháp cuối cùng [ bắt tập trung và tiêu diệt người Do Thái trên đất Đức - ND -].
Hồi ức về chiến tranh thế giới lần thứ hai và nạn diệt chủng Holocaust (Shoah) hiện diện khắp mọi nơi.
Ví dụ, khi tôi ở đó, người ta đã phát hiện là Emil Nolde – biểu tượng của nghệ thuật “thoái hoá”[*] mà Angela Markel từng có một bức tranh trong văn phòng của bà – đã tham gia đảng Quốc Xã và đã cố gắng làm cho Hitler và chính phủ của Hitler công nhận. Thế là ông đã thay đổi phong cách, và đã thay các mô típ đạo Thiên Chúa bằng các mô típ viking và Bắc Âu để làm hài lòng chế độ Quốc Xã- nhưng một cách vô ích.
Hơn nữa, tôi đã sử dụng ví dụ này trong quyển sách của tôi Peut-on dissocier l’œuvre de l’artiste? (Có thể tách biệt tác phẩm với nghệ sĩ được không?) để xem xét lại ý tưởng về sự nhất quán giữa một tác phẩm và phong cách của một tác giả.
Phát hiện này đã gây nên một sự bối rối lớn, đến nỗi cựu thủ tướng Đức Angela Merkel phải tháo gỡ bức tranh này khỏi văn phòng của bà. Ý tưởng thực hiện một cuộc triển lãm là bằng chứng của một phương pháp thực hành sư phạm và phản tư cần được hoan nghênh. Như tôi gợi ý trong quyển sách này, tốt hơn nên làm một công việc giải thích về lịch sử chứ không phải là xoá đi.
Tất nhiên Berlin là một thành phố đầy ắp lich sử: việc tôi đã sống ở đó một năm không phải là điều hiển nhiên.
GISÈLE SAPIRO
Ký ức về sự chia cắt thành phố có còn một ảnh hưởng quan trọng đối với sự phân chia lãnh thổ của Berlin không?
Đúng, hoàn toàn như vậy: ta nhận biết khi ta đi qua ranh giới.
Công trình ký ức về lịch sử của Quốc Xã quả là sắc sảo, nhưng về thời kỳ chia cắt và thống nhất nước Đức thì không sắc sảo bằng. Ví dụ, tôi nhận thấy trưng bày của Bảo tàng điện ảnh về công nghệ điện ảnh của Đông Đức là khá hài hước, thậm chí là trịch thượng. Cho dù dưới sự kiểm soát ngặt nghèo của Stasi (Bộ An ninh quốc gia của Cộng hoà Dân chủ Đức - ND), vẫn có những truyền thống nghệ thuật đa dạng ở Đông Berlin. Về phương diện này còn nhiều việc cần làm. Cũng gần tương tự như vậy, về phương diện lịch sử đối với bảo tàng Checkpoint Charlie ở Berlin.
Cũng không phải là ngẫu nhiên mà phe cực hữu bành trướng ngay chính ở Đông Đức. Tôi nghĩ điều đó có dính líu một phần quan trọng đến cách thực hiện thống nhất nước Đức gây thiệt thòi cho Đông Đức và cho những hứa hẹn về thịnh vượng và giải phóng đã không được thị trường thực hiện – thay vào đó là Đông Đức phải chịu cảnh khắc khổ, chủ nghĩa tân tự do và thất nghiệp. Trong lĩnh vực trí thức và văn hoá, Tây Đức đã chiếm giữ các vị trí – đáng chú ý là ở đại học, nơi các giáo sư (Đông Đức - ND) đã bị sa thải.
Bà sẽ định nghĩa hình mẫu của người trí thức Đức như thế nào so với hình mẫu của Pháp? Có phải giới đại học Đức có xu hướng tham gia vào các cuộc tranh luận công cộng nhiều hơn?
Tất cả tuỳ thuộc vào hình thức tham gia. Ở Đức trước đây không có truyền thống trí thức phê phán tương tự như ở Pháp. Các giáo sư đại học là những trí thức đáng kính và các nhà văn làm nghệ thuật vì nghệ thuật – tất nhiên là trừ Bertolt Brecht, người đã đổi mới nghệ thuật sân khấu và những người khác. Có một sự phân biệt giữa trường văn chương và trường học thuật lớn hơn ở Pháp. Tại Pháp, lúc có vụ việc Dreyfus, sự huy động chính trị toàn bộ các nhà văn, giới đại học và luật học để bảo vệ sự vô tội của ông có thể được phân tích như là một phản ứng đối với sự chuyên nghiệp hoá trường chính trị trong nền Cộng hoà đại nghị, và họ cảm thấy bị loại trừ - trong khi đó tại Ý vào cùng thời kỳ, một người có thể cùng lúc là nhà văn, giáo sư và chính trị gia.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, ta quan sát thấy sự chuyển giao hình mẫu văn chương dấn thân theo Sartre tại Đức với Nhóm 47[**], nhóm này suy nghĩ về tai hoạ mà nước Đức đã gây ra – chiến tranh, diệt chủng – đồng thời cố gắng phát triển những hoạt động văn chương mang tính dấn thân hơn. Trong số họ có Heinrich Böll, đã nhận giải Nobel năm 1972, và Günter Grass nhận giải Nobel năm 1999.
Năm đó, Grass và Bourdieu đã chấp nhận đối thoại trên truyền hình, và cuộc đối thoại này đã nêu ra cách mà mỗi truyền thống đã chịu dấu ấn của truyền thống khác: Grass là hiện thân của gương mặt nhà văn dấn thân thừa hưởng từ Sartre, và Bourdieu lại thừa hưởng của truyền thống giáo sư kỳ cựu sở hữu một vốn biểu tượng mạnh mẽ, chính truyền thống giáo sư này lại được nuôi dưỡng một cách sâu đậm bởi tư tưởng Đức (Kant, Husserl, Heidegger, Weber…).
Cũng có những gương mặt bị tranh cãi nhiều hơn, như Peter Handke. Ông ấy không phải là người Đức, mà là người Áo, và như thế là thấm nhuần sâu sắc một truyền thống khác – mang màu sắc chính trị hơn nhiều – nhưng ông hành động trong bối cảnh của Đức – tác phẩm của ông được xuất bản bởi Suhrkam là nhà xuất bản lớn của Đức. Tôi đã dành một chương trong quyển sách Peut-on dissocier l’œuvre de l’auteur? cho cuộc tranh luận do giải thưởng Nobel của ông gây ra và do sự dấn thân ủng hộ Serbia – thực tế là ủng hộ Nam Tư, và sự dấn thân này còn phức tạp hơn cả những gì được bàn về nó.
Handke tự nhận là thuộc về một truyền thống chống lại văn chương dấn thân, gần hơn với tiểu thuyết mới và nghệ thuật vị nghệ thuật. Ông muốn phát biểu của ông được xem là văn chương, nhưng ông đã thất bại khi dựa vào văn chương để gợi ra “cuộc du hành mùa đông của ông đến các sông Danube, Sava, Morava và Drina”, theo nhan đề của tiểu luận của ông, và để nói, hoặc thiên về không nói, về cuộc thảm sát Srebrenica và những sự kiện của chiến tranh.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, ta quan sát thấy sự chuyển giao hình mẫu văn chương dấn thân theo Sartre tại Đức với Nhóm 47.
GISÈLE SAPIRO
Trong những bài viết khác nhau của bà và những bài tường thuật mà bà đã viết trong thời gian lưu trú tại Wissenschaftskolleg, bà thường nêu lên vấn đề ngôn ngữ Đức. Bà nói là đã học tiếng Đức ở trường trung học, rồi ở đại học, ở Tel Aviv và cuối cùng là trong thời gian bà lưu trú tại Berlin, bà nói là nơi mà bà đã đọc lại phê phán thứ ba của Kant [Phê phán năng lực phán đoán - ND] – vốn không phải là dễ đọc. Bà giữ mối quan hệ như thế nào với tiếng Đức?
Việc chọn tiếng Đức chắc chắn có liên quan với thứ bậc biểu tượng của các ngôn ngữ. Một hôm tôi đã nói về vấn đề đó với Abram de Swaan và nói với ông ấy rằng đó không những liên quan đến tính trung tâm của các ngôn ngữ được dùng như ngôn ngữ thứ hai mà còn là vốn biểu tượng của chúng. Khi còn ở trường trung học Carnot tôi đã phải chọn một ngoại ngữ thứ hai, tôi đã không ngần ngại chọn tiếng Đức. Điều đó với tôi dường như là hiển nhiên, bất chấp nó có thể liên luỵ đến một gia đình Do Thái như gia đình của tôi. Lựa chọn này cũng không thành vấn đề đối với cha mẹ tôi. Dưới mắt họ, đó là một ngôn ngữ văn hoá thứ hai, sau tiếng Pháp, ngay cả khi họ không thông thạo ngôn ngữ này.
Khi chúng tôi di cư đến Israël, tôi đã phải ngưng học tiếng Đức. Ở đó, lúc mười ba tuổi, tôi phải học một ngôn ngữ mới là tiếng hébreu, tôi đã chọn ngôn ngữ thứ hai là tiếng Pháp sau tiếng Anh, thay vì chọn tiếng Đức hay tiếng Ả Rập. Ngày nay tôi tiếc cho hai ngôn ngữ này.
Sau này, khi tôi bắt đầu học văn học so sánh tại đại học Tel Aviv, phải chọn một ngoại ngữ thứ hai sau tiếng Anh. Tất nhiên tôi đã chọn lại tiếng Đức. Tôi đã rất muốn học lại tiếng Đức đến mức tôi đã theo một lớp học thêm, với một chị bạn, để có thể đọc Kafka – vốn là một trong những tác giả thần tượng của tuổi trẻ – các văn bản của Brecht và Hofmannsthal.
Với việc trở lại Pháp, luận án, xã hội học, cuối cùng tôi đã bỏ tiếng Đức, cho dù đôi lúc tôi đã tự nhủ, khi đến Fribourg, là tôi phải theo học một lớp tập trung cấp tốc. Và tôi đã quên rất nhiều. Khi tôi đề nghị dự án tại Wissenschaftskolleg, có một phần về nước Đức và sự lưu hành trong lịch sử của khái niệm vô tư, khách quan, tôi đã thực sự không nghĩ là sẽ học lại tiếng Đức. Tôi tự nhủ rằng các bản dịch là đủ, trong chừng mực tôi không làm việc trực tiếp trên các văn bản văn chương tiếng Đức.
Thế nhưng Wiko đã tạo một cơ hội là có thể đến sớm hơn một tháng,vào tháng tám để theo học một lớp tập trung tiếng Đức. Tôi tự nhủ có lẽ đây là cơ may cuối cùng của tôi để học lại tiếng Đức. Và tôi đã nắm lấy cơ may đó. Đã rất khó khăn, và tôi vẫn không thành thạo tiếng Đức. Và, lúc đầu, tôi còn không biết rõ tại sao tôi muốn học lại tiếng Đức. Khi giáo sư hỏi đâu là động lực của chúng tôi, tôi đã trả lời một cách hầu như ngẫu nhiên rằng việc học có thể sẽ giúp tôi đọc các văn bản của Kant. Ngày hôm sau, quyển sách Was ist Aufklärung? (Khai minh là gì) được mang đến, và chúng tôi đã cùng nhau đọc nó.
Đó là một trải nghiệm tuyệt vời. Tôi biết rằng nói ra điều này thật tầm thường, nhưng ta không đọc cùng một văn bản dịch và văn bản gốc. Ngoài ra, văn bản này của Kant là một thời khắc thay đổi trong lịch sử triết học: đó là lúc tư tưởng triết học bắt đầu được viết bằng tiếng Đức. Cho đến lúc bấy giờ, triết học chủ yếu được viết bằng tiếng La tinh, một ít bằng tiếng Pháp từ thời Descartes. Vả lại, ta cũng biết những điều “không thể dịch được” trong triết học.
Song song đó, tôi đã đọc – còn nhiều khó khăn hơn nữa – diễn văn nổi tiếng của Max Weber, Politik als Beruf (Chính trị là một thiên chức). Đáng ngạc nhiên là bài này khó hơn Kant. Nhưng đọc Weber – một trong những nhà xã học mà tôi yêu thích – bằng tiếng Đức đã là một trải nghiện không kém phần nổi bật.
Việc chọn tiếng Đức chắc chắn có liên quan với thứ bậc biểu tượng của các ngôn ngữ.
GISÈLE SAPIRO
Bà sẽ khuyến nghị quyển tiểu thuyết nào về Berlin?
Berlin-Alexanderplatz của Alfred Döblin.
Đó là câu chuyện của một người tù được phóng thích muốn vào tù trở lại một cách vô vọng.
Quyển truyện đưa chúng ta đi qua những ngõ ngách của Berlin những năm 1920 bằng métro, xe buýt, những cuộc đi bộ dạo chơi, và đưa chúng ta thâm nhập vào những nơi nghèo khó, những nơi phi pháp, đáng ngờ trong bối cảnh bùng lên của đảng quốc xã.
Döblin là một bác sĩ và là nhà văn Do Thái, ông đã sưu tầm về đời sống hàng ngày của Berlin cho báo chí. Sau khi Hitler lên nắm quyền, ông đã tỵ nạn ở Pháp và có được quốc tịch Pháp. Tiểu thuyết của ông đã được dịch và được Gallimard xuất bản năm 1933, nhưng văn phong theo kiểu James Joyce của ông đã được làm dịu bớt.
Tiểu thuyết này thuộc loại những tiểu thuyết hiếm hoi được dịch lại: bản dịch mới của Olivier Le Lay trả lại văn phong rất đổi mới đối với thời đó. Cũng đã có những kịch bản điện ảnh của tác phẩm tuyệt vời này, với loạt phim truyền hình nổi tiếng của Fassbinder, và gần đây là với đạo diễn người Afghanistan Burhan Qurbani, ông đã chọn một người nhập cư châu Phi làm nhân vật chính, do đó cung cấp một phiên bản rất thời sự của quyển tiểu thuyết.
Người dịch: Thái Thị Ngoc Dư
Nguồn: “Exercices de décentrement: Grand Tour avec Gisèle Sapiro à Berlin – et Grand Détour par New Delhi”, Le Grand continent, 13.8.2025.
Chú
thích: [*]
là thuật ngữ tiếng Đức Entartete Kunst mà Đức Quốc xã dưới thời Adolf Hitler đã sử dụng để miêu tả các tác phẩm nghệ thuật hiện đại mà họ không ưa, đặc biệt là trường phái biểu hiện (Expressionism). Chính quyền Quốc xã đã tịch thu các tác phẩm này khỏi bảo tàng, tổ chức triển lãm nghệ thuật “thoái hóa” để chế giễu, và cấm các nghệ sĩ bị gán nhãn này biểu diễn hoặc giảng dạy - theo Google (ND) [**]
Tiếng Đức là Gruppe 47, là một nhóm nhà văn nói tiếng Đức được thành lập năm 1947 và hoạt động cho đến năm 1967. Nhóm đã có một tầm quan trọng to lớn đối với sự đổi mới văn chương Đức sau chiến tranh. (Theo Google - ND)