30.9.24

Tại sao Trung Quốc muốn hiện diện nhiều hơn ở Châu Phi – chiến lược đằng sau các thỏa thuận tài chính của nước này

TẠI SAO TRUNG QUỐC MUỐN HIỆN DIỆN NHIỀU HƠN Ở CHÂU PHI – CHIẾN LƯỢC ĐẰNG SAU CÁC THỎA THUẬN TÀI CHÍNH CỦA NƯỚC NÀY

Tập Cận Bình phát biểu khai mạc tại Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn hợp tác Trung Quốc-châu Phi năm 2024. Andres Martinez Casares/EPA

Mối quan hệ giữa Trung Quốc và châu Phi sẽ ngày càng sâu sắc hơn. Tại hội nghị thượng đỉnh ở Bắc Kinh vào đầu tháng 9, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã cam kết cung cấp 51 tỷ đô la Mỹ (khoảng 1,25 triệu tỷ VND) tiền vay, đầu tư và viện trợ cho châu lục này trong ba năm tới, cũng như nâng cấp quan hệ ngoại giao.

Sự gắn kết chặt chẽ của Bắc Kinh với châu Phi không mới. Kể từ năm 1950, đích đến của chuyến công du nước ngoài đầu tiên trong năm của các bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc hầu như luôn là một hoặc nhiều quốc gia châu Phi. Nhưng các cam kết của Tập Cận Bình chắc chắn vẫn gây lo ngại ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác, những quốc gia đang cạnh tranh với Trung Quốc để giành ảnh hưởng toàn cầu.

Các cam kết này cũng có thể khơi lại nỗi sợ Trung Quốc sẽ dùng ngoại giao bẫy nợ để đẩy các nước châu Phi vào tình trạng vỡ nợ và do đó giành được quyền chi phối các quốc gia này. Sức mạnh của lời đồn đãi này lớn đến mức tổng thống Nam Phi, Cyril Ramaphosa, cảm thấy buộc phải phủ nhận tại hội nghị thượng đỉnh.

Print Friendly and PDF

28.9.24

Việt Nam: cuộc trường chinh tiến tới sự thịnh vượng

VIỆT NAM: CUỘC TRƯỜNG CHINH TIẾN TỚI SỰ THỊNH VƯỢNG

Hubert Testard

TP. Hồ Chí Minh năm 2019. (Nguồn: Wikimedia Commons)

Hà Nội đã đặt mục tiêu gia nhập câu lạc bộ các nước phát triển vào năm 2045. Một dự án đầy tham vọng và đầy cạm bẫy, bởi Việt Nam không phải là Trung Quốc. Việt Nam đang bắt đầu già đi, bối cảnh quốc tế ít thuận lợi hơn, sự tàn phá của biến đổi khí hậu và ô nhiễm đang đe dọa sự bền vững của tăng trưởng, và Đảng Cộng sản vẫn không thay đổi.

Bị tàn phá bởi bốn thập kỷ chiến tranh, năm 1989, Việt Nam là quốc gia nghèo nhất trong 6 nước ASEAN 6. Trong vòng 35 năm, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng gấp 10 lần (theo số liệu hiện tại) và Việt Nam hiện cùng với Philippines là một trong hai quốc gia năng động nhất ở Đông Nam Á. Trên bình diện quốc tế, Việt Nam được hưởng lợi phần lớn từ chiến lược tái triển khai bên ngoài Trung Quốc của các công ty đa quốc gia lớn và chiếm một vị trí đặc biệt trong việc tổ chức lại chuỗi giá trị ở Châu Á. Việc quản lý đại dịch của Việt Nam thực dụng hơn Bắc Kinh, đã cho phép nền kinh tế hồi sinh từ năm 2022 trong khi nền kinh tế Trung Quốc đã phải hứng chịu cú sốc thứ hai.

Tuy nhiên, triển vọng bắt kịp của nền kinh tế Việt Nam sẽ vẫn không chắc chắn và phức tạp. Có rất nhiều trở ngại phải vượt qua để đạt được sự thịnh vượng.

Print Friendly and PDF

26.9.24

Văn học di dân Mỹ Việt viết bằng tiếng Anh nhìn từ phương diện căn tính và trường hợp Viet Thanh Nguyen

Tham luận tại hội thảo PCAH2024 (Paris, 6-2024)

VĂN HỌC DI DÂN MỸ VIỆT VIẾT BẰNG TIẾNG ANH

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN CĂN TÍNH

VÀ TRƯỜNG HỢP VIET THANH NGUYEN

Nguyễn Hồng AnhPhan Thu Vân

Lời toà soạn: Diễn Đàn xin giới thiệu với độc giả bài tham luận của hai tác giả (Trường Đại học Sư phạm TP.HCM) tại Hội nghị Paris về Nghệ thuật & Khoa học nhân văn (Paris Conference on Arts & Humanities/PCAH2024), tháng 6-2024. Đây là nguyên tác tiếng Việt. Bản tiếng Anh vừa được công bố trong Kỷ yếu Hội nghị (vì hạn chế về thời gian, có những đoạn lược bớt so với bản tiếng Việt).

Tóm tắt

Viet Thanh Nguyen (1971-)

Bài viết kế thừa quan điểm của một số nhà nghiên cứu như Kevin Kenny, Isabelle Thuy Pelaud, Michelle Janette, Viet Thanh Nguyen để phân tích sự phát triển của dòng văn học di dân Mỹ Việt viết bằng tiếng Anh dựa theo những đặc trưng căn tính trong sáng tác. Thứ nhất, từ thế hệ 1 (những nhà văn đầu tiên đến Mỹ chủ yếu viết bằng tiếng Việt) đến thế hệ 1.5 và 2 (những nhà văn đến Mỹ từ nhỏ hay sinh ra tại Mỹ, hầu hết sáng tác bằng tiếng Anh), các tác phẩm đi từ việc khắc hoạ căn tính cộng đồng đến căn tính cá nhân. Thứ hai, dù ở thế hệ nào thì căn tính chấn thương vẫn là đặc trưng của văn học di dân. Thứ ba, căn tính lai ghép trở thành diễn ngôn phản kháng lại định kiến về chủng tộc của Mỹ. Thuộc thế hệ nhà văn di dân 1.5, Viet Thanh Nguyen có thể xem là người thành danh nhất tại Mỹ cho đến nay, qua giải thưởng Pulitzer 2016. Bài viết này cũng xem xét trường hợp Viet Thanh Nguyen trong dòng chảy của văn học di dân Mỹ Việt viết bằng tiếng Anh để cho thấy đóng góp về tư tưởng của ông, ở hai khía cạnh: Thứ nhất, nhà văn định nghĩa lại căn tính sắc tộc và chủ nghĩa dân tộc của cộng đồng di dân Việt; thứ hai, nhà văn cung cấp quan niệm mới về đề tài chiến tranh trong văn học. Kết quả nghiên cứu đạt được là, bài viết góp phần định vị vai trò và tiếng nói của dòng văn học di dân Việt Nam tại Mỹ so với văn học thế giới; và sau đó, khẳng định Viet Thanh Nguyen đã đặt một dấu mốc phát triển cho dòng văn học thiểu số này nói chung và cho mảng đề tài về chiến tranh Việt Nam nói riêng trong lịch sử văn học thế giới.

Từ khóa: văn học di dân Việt Nam, Viet Thanh Nguyen, căn tính.

Print Friendly and PDF

24.9.24

AI đã hack hệ điều hành của nền văn minh nhân loại? Yuval Noah Harari lên tiếng cảnh báo

A.I. ĐÃ HACK HỆ ĐIỀU HÀNH CỦA NỀN VĂN MINH NHÂN LOẠI? YUVAL NOAH HARARI LÊN TIẾNG CẢNH BÁO

TechSolution/Shutterstock

Tương tự như các mô hình trí tuệ nhân tạo (AI) được huấn luyện trên các tập dữ liệu khổng lồ để học và dự đoán, Sapiens: Lược sử loài người và Homo Deus: Lược sử tương lai đã luyện cho chúng ta biết mong đợi những ý tưởng đột phá từ nhà sử học có các tác phẩm bán chạy nhất Yuval Noah Harari.

Cuốn sách mới nhất của ông, Nexus: A Brief History of Information Networks from the Stone Age to AI, là khám phá toàn diện về lịch sử và tương lai các mạng lưới của con người. Harari dựa trên nhiều ví dụ lịch sử và đương đại để minh họa cách thông tin đã và đang định hình xã hội loài người.


Bài đánh giá: Nexus: Lược sử mạng thông tin từ thời kỳ đồ đá đến AI – Yuval Noah Harari (Fern Press)


Kế thừa nền tảng đã được xây dựng trong "Sapiens", nơi Harari khám phá cuộc cách mạng nhận thức mang lại cho con người khả năng độc đáo trong việc tạo ra những huyền thoại và chuyện kể, Nexus chuyển trọng tâm sang cách những câu chuyện này được truyền tải, duy trì và biến đổi thông qua các mạng lưới thông tin.

Trọng tâm của cuốn sách mới này là lập luận của Harari rằng AI đại diện cho một lực lượng cấp tiến mới trong sự phát triển của nền văn minh nhân loại, một chủ đề mà ông từng khai thác trong một bài báo năm 2023 về khả năng thao túng ngôn ngữ, văn hóa và xã hội của AI. Bài báo, cảnh báo rằng AI đã "hack hệ điều hành của nền văn minh nhân loại", mang đến lăng kính quan trọng để xem xét Nexus.

Cuốn sách bao quát dòng lịch sử rộng lớn, từ sự xuất hiện của Homo sapiens và tương tác của họ với người Neanderthal cho đến sự ra đời của Neuralink (một thiết bị cấy ghép cho phép người dùng giao tiếp với máy tính chỉ bằng suy nghĩ) và những tác động có thể có của AI đối với tương lai của nền văn minh nhân loại.

Harari dẫn dắt độc giả qua hành trình xuyên suốt nhiều thiên niên kỷ, và khả năng duy trì một lý lẽ nhất quán về tính trung tâm của mạng lưới thông tin là một trong những điểm mạnh tốt nhất của cuốn sách. Những mối liên hệ mà ông vạch ra giữa lịch sử cổ đại và công nghệ hiện đại thách thức người đọc phải suy nghĩ lại về cách họ hiểu về cả quá khứ và hiện tại.

Print Friendly and PDF

22.9.24

Một nửa ổ bánh mì và một quyển sách

TÀI LIỆU LƯU TRỮ VÀ DIỄN VĂN /1/2019

mỘT NỬA Ổ BÁNH MÌ VÀ MỘT QUYỂN SÁCH

Một văn bản của Federico Garcia Lorca

Tác giả: FÉLIX LANDRY

Tượng của Federico García Lorca trên quãng trường Sainte-Anne, Madrid | Wikimedia Commons

FÉLIX LANDRY – Trong bài diễn văn Federico García Lorca đọc nhân dịp khánh thành thư viện của ngôi làng nơi ông sinh ra, Fuente Vaqueros (tỉnh Grenade), vào tháng 9 năm 1931, nhà thơ vùng Andalousie khẳng định tầm quan trọng hàng đầu của văn hoá – trong nghĩa phổ quát – cao hơn các yêu cầu về kinh tế xã hội, và sự cần thiết cháy bỏng cần phổ biến qua việc đọc cho mọi người và ở khắp nơi. Nhắc lại những chân lý cơ bản, khuyến khích đọc mãi mãi, theo dòng của một bài phát biểu trong một hoàn cảnh nhất định, tất nhiên, một bài phát biểu phong phú nhưng khẳng định rõ ràng trước vài năm rằng khi giết một người, ta không giết được tinh thần của người ấy.

Để phụ theo bài này, ngoài một vài bình luận ngắn của một người chuyên về ngôn ngữ Tây Ban Nha đã bị trục xuất, chúng tôi mạn phép nêu ra vài gợi ý cho việc đọc, nằm giữa sự uyên bác tiếp thêm sinh lực và những tham chiếu chính thống, nghĩa là với một tinh thần chiết trung theo chúng tôi là phù hợp với tinh thần của phát biểu của nhà thơ Lorca.

FEDERICO GARCIA LORCA - Cùng đồng bào Andalousie và bằng hữu thân mến[1],

Trước tiên, tôi phải nói với các bạn rằng tôi không nói: tôi đọc. Và sở dĩ tôi không diễn thuyết, vì xảy ra với tôi điều tương tự như với Galdós và với tất cả các nhà văn, nhà thơ nói chung: chúng tôi quen nói các sự việc một cách ngắn gọn và với sự chính xác, nhưng tôi có cảm tưởng nghệ thuật hùng biện là một thể loại trình bày những ý tưởng bị pha loãng đến độ chỉ còn lại một thứ âm nhạc dễ chịu. Phần còn lại, gió đã cuốn đi. Tôi luôn luôn đọc những tham luận của tôi, điều này đòi hỏi nhiều công phu hơn là nói, nhưng rốt cuộc bài phát biểu sẽ lâu bền hơn, vì bài viết vẫn nằm đó, và còn vững chắc hơn vì nó có thể phục vụ cho sự sáng tạo của những người nghe tôi không rõ hay không có mặt ở đây.

Benito Pérez Galdós (1843-1920), tiểu thuyết gia hiện thực, ngay trung tâm của sáng tạo văn học Tây Ban Nha thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX với tác phẩm Episodios nacionales. Đôi khi được so sánh với Dickens, ông được tôn vinh chủ yếu vì đã mô tả một cách chân thực Tây Ban Nha bình dân thời của ông và ghi lại một cách trung thành những lời nói của ông.

Print Friendly and PDF

20.9.24

Chủ nghĩa toàn cầu của kinh tế học quốc gia: Friedrich List trong một sự phản chiếu của Nhật Bản

CHỦ NGHĨA TOÀN CẦU CỦA KINH TẾ HỌC QUỐC GIA: FRIEDRICH LIST TRONG MỘT SỰ PHẢN CHIẾU CỦA NHẬT BẢN

Mark Metzler

Friedrich List (1789-1846)

Hơn 23 năm trôi qua kể từ lần đầu tiên tôi có những nghi ngờ về sự thật của lý thuyết kinh tế chính trị thịnh hành … Tôi đã nhận thức được rằng lý thuyết này chỉ thấy tất cả nhân loại, hoặc các cá nhân đơn lẻ, chứ không thấy những quốc gia … Nói tóm lại, tôi đã tình cờ tìm ra sự phân biệt giữa nền kinh tế chính trị toàn cầu và nền kinh tế chính trị. – Trích Friedrich List, Lời nói đầu của cuốn Hệ thống Kinh tế Chính trị Quốc gia |The National System of Political Economy|, xuất bản năm 1841.

Từ 300 hay 350 năm trước, chủ nghĩa trọng kim loại quý hiếm |bullionism| là kỹ thuật kinh tế tiên tiến nhất của thời đại lúc bấy giờ, [và] việc sở hữu một khối lượng khổng lồ vàng và bạc là nguồn gốc sự giàu có và sức mạnh của quốc gia [fukoku kyōhei] … Sau đó khoảng 150 năm trước nhà kinh tế học vĩ đại Adam Smith (1723-1790) xuất hiện, người đã tuyên bố rằng sự giàu có quốc gia quan trọng hơn vàng và bạc, [giải thích] rằng vàng và bạc mà Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha thu được từ Mexico và Nam Mỹ đã được chuyển hết sang Anh và những nước khác để chi trả cho các sản phẩm … Rồi chỉ 50 năm sau đó đã xuất hiện một nhà kinh tế học người mà phải được gọi là Adam Smith của nước Đức, Friedrich List (1789-1846). Ông đã tuyên bố rằng hơn cả sự giàu có quốc gia, một sức mạnh sản xuất |productive power| của con người mới là cốt yếu … Nhưng tôi không nghĩ những quan điểm của hai nhà kinh tế học vĩ đại này, List và Smith, nhất thiết phải mâu thuẫn nhau: List đã bổ sung những điểm còn thiếu ở Smith. Một người đã khẳng định học thuyết về mậu dịch tự do còn một người [đã khẳng định] học thuyết về chủ nghĩa bảo hộ, nhưng chúng ta có thể nghĩ rằng đây chỉ là một vấn đề mỗi người đang khẳng định lý thuyết phù hợp nhất với những hoàn cảnh quốc gia trái ngược nhau của Anh và Đức vào thời đại của họ. – Takahashi Korekiyo [高橋 是清 – (1854-1936)] nhận xét vào năm 1925, ngay sau sự rút lui của ông khỏi vai trò Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp đầu tiên của Nhật Bản.[1]

Takahashi Korekiyo (1854-1936)

Sứ mệnh chính trị của Friedrich List (1789–1846) là xây dựng một nền kinh tế quốc gia độc lập, công nghiệp hóa ở Đức, và ông được xem là một trong những người kiến tạo nên sự thống nhất kinh tế của Đức. Sứ mệnh trí tuệ của ông là tạo ra một sự thay thế, “hệ thống quốc gia” để ngăn chặn kinh tế học “chính trị toàn cầu” theo chủ nghĩa phổ quát của trường phái Smithian. Takahashi Korekiyo (1854–1936) là một chính khách hơn là một nhà lý luận, và nổi tiếng nhất với việc dẫn dắt Nhật Bản sớm phục hồi từ cuộc Đại Suy thoái sau năm 1932. Sứ mệnh của Takahashi cũng tương tự như vậy là xây dựng một nền kinh tế quốc gia độc lập, công nghiệp hóa, và ông là người định khung |framer| chính cho cái mà sau này được gọi là “mô hình” phát triển “của Nhật Bản”. Mặc dù đã 6 năm ở Mỹ và có quốc tịch Hoa Kỳ, nhưng cho đến gần đây hầu như List vẫn bị lãng quên trong thế giới nói tiếng Anh. Takahashi, người cũng đã học tiếng Anh ở Mỹ, vẫn chưa được biết đến rộng rãi bên ngoài quê hương ông. Nhưng người ta có thể dùng hai người theo chủ nghĩa dân tộc kinh tế này để đưa ra một mô tả có tính “rời khỏi-trung tâm” của quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện đại vốn làm đảo ngược các định nghĩa hiện đang chiếm ưu thế về chuẩn mực phổ quát và chủ nghĩa biệt lệ có tính cục bộ |local exceptionalism|.

Print Friendly and PDF

18.9.24

Pierre Bourdieu là ai?

PIERRE BOURDIEU LÀ AI?

Nhà xã hội học nổi tiếng thế giới, Pierre Bourdieu (1930-2002) đã phát triển một lý thuyết về thống trị và tái sản sinh xã hội dựa trên các khái niệm “tập tính”, “vốn” (kinh tế, văn hóa, xã hội), “trường” và “bạo lực biểu tượng”. Những suy tưởng lý thuyết của ông dựa trên nghiên cứu thực nghiệm về giáo dục, văn hóa, tôn giáo, giai tầng xã hội, giới tính, chính trị và kinh tế.

Từ triết học đến nhân học: lý thuyết về thực tiễn và khái niệm tập tính

Quỹ đạo xã hội của Pierre Bourdieu được đánh dấu bằng khả năng thăng tiến nhờ Trường học, xếp ông vào loại “kẻ đào tẩu” giai cấp, những “người nhận được phép lạ” như ông gọi họ. Sinh ngày 1 tháng 8 năm 1930 tại Pháp, tại Denguin (Pyrénées-Atlantiques), cha là tá điền, người phát thư rồi người phát thư-thu tiền, và mẹ là nhân viên bưu điện, ông học trung học tại trường trung học Pau, rồi tại trường trung học Louis-le-Grand ở Paris trước khi vào học, năm 1951, Trường Sư Phạm Cao Cấp/École Normale Supérieure trên phố Ulm. Đỗ kỳ thi tuyển thạc sĩ (agrégation) triết học năm 1954, ông được b nhiệm làm giáo sư tại trường trung học Moulins. Bị gọi nhập ngũ đi Algérie vào năm sau, giữa cuộc chiến tranh giành độc lập, ông bắt đầu nghiên cứu về xã hội Algérie, nằm giữa Đông Phương Luận và dân tộc học. Nghiên cứu này dẫn đến cuốn Xã hội học về Algérie/Sociologie de l’Algérie trong tủ sách “Que sais-je?”, xuất bản vào năm 1958, năm ông được bổ nhiệm phụ tá cho giảng viên trường Đại học Alger.

Print Friendly and PDF

16.9.24

Câu lạc bộ Paris và sự miễn trừ nợ quốc tế

Cập nhật ngày 29 tháng 1 năm 2008

CÂU LẠC BỘ PARIS VÀ SỰ MIỄN TRỪ NỢ QUỐC TẾ

Martin A. Weiss

Nhà Phân tích trong tổ chức Thương mại và Tài chính Quốc tế (ITF)

Bộ phận Các Vấn đề Đối ngoại, Quốc phòng và Thương mại

Tóm tắt

Câu lạc bộ Paris là một nhóm tự nguyện, phi chính thức gồm các quốc gia chủ nợ gặp nhau khoảng 10 lần mỗi năm để cung cấp các khoản miễn trừ nợ cho các nước đang phát triển. Các thành viên của Câu lạc bộ Paris đồng ý đàm phán lại và/hoặc giảm nợ chính thức cho họ trên cơ sở từng-trường-hợp-cụ-thể. Hoa Kỳ là một thành viên chủ chốt và Quốc hội có vai trò tích cực trong cả hoạt động của Câu lạc bộ Paris lẫn chính sách của Hoa Kỳ về sự miễn trừ nợ nói chung. Đạo luật Cải cách Tín dụng Liên bang năm 1990 quy định rằng Quốc hội [Hoa Kỳ] phải tham gia vào bất kỳ khoản miễn trừ nợ chính thức nào của nước ngoài và được thông báo về bất kỳ khoản giảm nợ và đàm phán lại khoản nợ nào. Báo cáo này sẽ được cập nhật khi các sự kiện yêu cầu.

Câu lạc bộ Paris là diễn đàn lớn nơi các nước chủ nợ đàm phán lại các khoản nợ của khu vực chính thức. Các khoản nợ của khu vực chính thức là những khoản đã do các chính phủ chủ nợ phát hành, bảo đảm hoặc bảo lãnh. Một ‘phương thức xử lý nợ’ |treatment| của Câu lạc bộ Paris đề cập tới việc giảm và/hoặc đàm phán lại các khoản nợ Câu lạc bộ Paris của một nước đang phát triển. Câu lạc bộ Paris bao gồm Hoa Kỳ và 18 thành viên thường trực khác, các chính phủ chủ nợ quốc tế lớn. Bên cạnh Hoa Kỳ, các thành viên thường trực bao gồm Áo, Úc, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Ireland, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Na Uy, Nga, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Các chủ nợ khác được phép tham gia vào những cuộc đàm phán trên một cơ sở đặc biệt.

Ngược lại, Câu lạc bộ London, một nhóm song song, phi chính thức của các công ty tư nhân, gặp nhau ở London để đàm phán lại các khoản nợ ngân hàng thương mại. Không giống như Câu lạc bộ Paris, Câu lạc bộ London không có tư cách thành viên thường trực. Theo yêu cầu của quốc gia con nợ, một cuộc họp của Câu lạc bộ London gồm các chủ nợ của quốc gia đó có thể được thành lập, và Câu lạc bộ này sau đó bị giải thể sau khi quá trình tái cơ cấu hoàn tất.

Print Friendly and PDF

14.9.24

Tại sao Trung Quốc có thể gây bất ngờ cho thế giới khi trở thành quốc gia đầu tiên áp dụng thu nhập cơ bản phổ quát

TẠI SAO TRUNG QUỐC CÓ THỂ GÂY BẤT NGỜ CHO THẾ GIỚI KHI TRỞ THÀNH QUỐC GIA ĐẦU TIÊN ÁP DỤNG THU NHẬP CƠ BẢN PHỔ QUÁT

Ảnh: Hyunwon Jang/Unsplash

Khái niệm thu nhập cơ bản phổ quát (hoặc Universal Basic Income – UBI) – một khoản thanh toán bằng tiền mặt được cung cấp thường xuyên và được phân phối vô điều kiện cho tất cả các cá nhân trong một cộng đồng xác định – quá khứ dài dòng và tương lai còn bỏ ngỏ. Với tư cách là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về chủ đề này với hơn mười năm kinh nghiệm giáo dục mọi người về , một câu hỏi mà tôi thường xuyên nhận được là tôi nghĩ UBI sẽ có ở đâu trước tiên. Dù đã có hàng trăm năm thảo luận, và bang Alaska là một trong những nơi duy nhất triển khai UBI trên quy mô lớn từ trước tới nay, quốc gia nào sẽ ngừng liên thiên mà cứ làm thôi? Chà, một số quốc gia chắc chắn đã tiến gần tới đó hơn những quốc gia khác, và ý tưởng này hẳn là được chuộng hơn ở một số quốc gia so với các quốc gia khác, nhưng có một câu trả lời hoàn toàn khả dĩ thậm chí còn có xu hướng bị phớt lờ Trung Quốc.

Đầu tiên, mặc dù tôi là một người rất tin tưởng vào nền dân chủ tự do và luôn lo ngại về sự trỗi dậy của chủ nghĩa độc tài trên toàn thế giới, tôi vẫn phải thừa nhận rằng nền dân chủ có xu hướng đòi hỏi sự ủng hộ của người dân để ban hành chính sách. Một quốc gia như Hoa Kỳ muốn ban hành UBI cần có tỷ lệ cử tri ủng hộ đủ lớn, sự đồng thuận đủ cao trong Quốc hội, và tổng thống sẵn sàng ký ban hành luật. Để một quốc gia như Trung Quốc ban hành UBI, chỉ cần ban lãnh đạo tối cao của một đảng ra quyết định, và nếu trước kia cần đến vài người đồng thuận với quyết định này thì giờ đây Trung Quốc chỉ cần một người duy nhất – Tập Cận Bình.

Print Friendly and PDF

12.9.24

Bạn có nói tiếng Ấn Độ không?

Ghi chép

BẠN CÓ NÓI TIẾNG ẤN ĐỘ KHÔNG?

Tác giả: Patrick de Jacquelot

Chi tiết của bìa sách “Les Indiens et leurs langues, ce que parler quatre ou cinq langues veut dire” - Người Ấn Độ và các ngôn ngữ của họ, nói bốn hoặc năm thứ tiếng có nghĩa là gì - Tác giả: Olivier Da Lage, BiblioMonde Éditions. (Crédit: DR)

Trong quyển sách Les Indiens et leurs langues, Olivier Da Lage mô tả sự gia tăng nhanh chóng không thể tưởng tượng nỗi của các ngôn ngữ là đặc trưng của đất nước đông dân nhất hành tinh và gợi ra một vài hệ luỵ.

Vậy là bạn nói tiếng Ấn Độ? Câu hỏi này, những người phương Tây đã từng sống ở Ấn Độ nghe những người đồng hương hỏi hoài khi họ trở về nước. Một câu hỏi biểu thị một sự thiếu hiểu biết rất phổ biến ở đất nước chúng ta về một đặc điểm quan trọng của Ấn Độ: không tồn tại một ngôn ngữ Ấn Độ phổ quát tương đương với tiếng Pháp, tiếng Đức hay tiếng Anh ở Pháp, Đức hay ở Vương Quốc Anh. Trái lại khác biệt nổi bật của Ấn Độ là nước này có một sự gia tăng không thể tưởng tượng những ngôn ngữ khác nhau tuỳ theo vùng, nhóm xã hội hay cấp độ giao tiếp. Đối với một người Ấn Độ, thật là bình thường khi họ không ngừng chuyển dịch giữa bốn ngôn ngữ tuỳ theo họ nói với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong công việc hay người bán hàng rong đường phố…

Olivier Da Lage (1957-)

Đó là tất cả nét hấp dẫn của quyển sách Les Indiens et leurs langues - Người Ấn Độ và các ngôn ngữ của họ - do nhà báo và là nhà nghiên cứu Olivier Da Lage viết (ngoài ra ông là tác giả của tiểu luận rất thú vị L’Inde, un géant fragile - Ấn Độ, một gã khổng lồ mỏng manh - là đắm mình trong vũ trụ các ngôn ngữ Ấn Độ. “Vũ trụ”, từ này không ngoa chút nào. Như tác giả đã nhấn mạnh, danh sách 22 ngôn ngữ chính thức chỉ lướt qua bề mặt của vấn đề. Cuộc tổng điều tra mới đây đã liệt kê 19.569 ngôn ngữ được nói trong nước. Tất nhiên, một số lớn những ngôn ngữ này bao gồm các phương ngữ, một cách tiếp cận phân tích làm giảm khá nhiều số lượng ngôn ngữ trong khoảng từ 500 đến 1.300. Hơn nữa, tình trạng không thể đạt đến một ước lượng chính xác hơn số ngôn ngữ thực sự được nói tại Ấn Độ tạo ra một ý tưởng về sự phức tạp của vấn đề!

Print Friendly and PDF

10.9.24

Giới thiệu sách VIỆT NAM – HÔM NAY và NGÀY MAI

VIỆT NAM – HÔM NAY và NGÀY MAI

Chủ biên:

Trần Văn Thọ & Nguyễn Xuân Xanh

Sau một năm lao động tích cực, chúng tôi hết sức vui mừng được giới thiệu với bạn đọc quyển sách mới ra mắt: VIỆT NAM – HÔM NAY và NGÀY MAI, một công trình biên soạn tập thể của 22 học giả, nhà nghiên cứu, công nghệ, giáo dục Việt Nam trong và ngoài nước, với tâm tư nóng bỏng muốn góp phần vào quá trình đổi mới đất nước:

Hồ Tú Bảo – Huỳnh Thế Du – Giáp Văn Dương – Kim Hạnh – Nguyễn Thị Hậu – Vũ Ngọc Hoàng – Trần Quốc Hùng – Phạm Chi Lan – Trương Trọng Nghĩa – Nguyên Ngọc – Nguyễn Quang Ngọc – Huỳnh Như Phương – Trần Đức Anh Sơn – Huỳnh Bửu Sơn – Đặng Kim Sơn – Trần Hữu Phúc Tiến – Trần Văn Thọ – Phạm Duy Thoại – Nguyễn Trung – Nguyễn Tùng -Trần Ngọc Vương – Nguyễn Xuân Xanh

Quách Thu Nguyệt phụ trách phần biên tập và xuất bản.

Xuất bản: Ban Tu thư Đại học Hoa Sen và Nhà xuất bản Đà Nẵng

Đây là một tác phẩm phân tích, tổng hợp, nhìn về quá khứ, hiện tại, để phóng chiếu tương lai, chạm đến những vấn đề lịch sử, tư tưởng, kinh tế, phát triển, giáo dục, y tế và khai sáng, trong bối cảnh rất phức tạp của thế giới. Người Việt Nam đang đứng trước nhu cầu ngày càng bức thiết phải thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện và hiệu quả để “lột xác” và bắt kịp thế giới. Chúng ta đang ở vào thời kỳ “giông bão và thôi thúc”, cần có những nhận định và bước đi tương xứng.

Dưới đây là những dòng chữ đầu tiên đọc được khi cầm lên quyển sách:

Những người trí thức dấn thân xã hội phải chấp nhận thực trạng như họ đang sống, và tìm cách định hình nó theo những mục tiêu xã hội tích cực, chứ không đứng cô lập bên lề tự cho mình là đúng.

JOHN DEWEY

Việt Nam đang đứng trước một thập niên mới, đánh dấu bởi nhiều sự kiện quan trọng: Covid-19 với nhiều hệ quả to lớn lên toàn thế giới, kỷ niệm 75 năm Quốc khánh, 45 năm hòa bình và thống nhất đất nước, Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Người Việt Nam cũng đang có “giấc mơ hóa rồng”, muốn tạo ra được những sản phẩm công nghệ, công nghiệp đẳng cấp trên thị trường thế giới, có những tập đoàn công nghiệp mạnh, để có thể nâng cấp nhanh chóng nền kinh tế lên tầm mức thế giới. Vâng, người Việt Nam thấy cần thay đổi cả vận mệnh lịch sử của mình, như các dân tộc xung quanh từng làm.

Đổi mới cho nên là mệnh lệnh của thời đại, từ quản lý hành chính, cơ chế tuyển chọn lãnh đạo, đào tạo nhân tài, đến giáo dục, nhất là giáo dục đại học, và hoạt động của doanh nghiệp.

Nhà nước cũng cần phải có tính chất đổi mới sáng tạo để dẫn dắt, “kiến tạo và phát triển”, khuyến khích động não, từ bỏ những lề lối cũ. Einstein cũng từng nói, chúng ta không thể giải quyết những vấn đề phát sinh bằng những tư duy cũ đã sản sinh ra chúng.

Quyển sách này là sự hội tụ của nhiều trí thức, học giả, nhà nghiên cứu từ nhiều lãnh vực khác nhau nhằm đáp lời cho một sự đổi mới sáng tạo trước những thử thách mới thời đại đặt ra.

Cuốn sách này gồm 4 phần, bao gồm gần hết các mặt của đất nước Việt Nam hiện nay. Hầu hết các bài viết phân tích từ góc nhìn những vấn đề hôm nay và gợi ý, phát ra thông điệp cải cách hoặc kiến tạo để Việt Nam có ngày mai thịnh vượng, tươi đẹp.

Đổi mới sáng tạo là mệnh lệnh của thời đại. Trong tinh thần đó, một số trí thức trong và ngoài nước đã tập hợp lại những suy nghĩ của mình về những chủ đề như kinh tế, lịch sử, văn hóa, tư tưởng, thể chế, giáo dục, khoa học, công nghệ và y tế. Như một nhà lãnh đạo châu Á từng nói, “Lịch sử luôn cho thấy những quốc gia được dẫn dắt bởi những trí thức năng động, tham vọng và nhiệt tình sẽ phát triển nhanh hơn những quốc gia không có.” Chúng tôi muốn chia sẻ trách nhiệm đó. Đây cũng là món quà tinh thần tặng GS Cao Huy Thuần như một sự tri ân cho những đóng góp văn hóa hơn nửa thế kỷ qua của ông.

Và những lời từ trái tim của một người bạn lâu năm dấn thân và nhiệt huyết:

Sáng kiến quyển sách này quả thật bất ngờ với tôi. Một phần thưởng mà tôi không hề dám nghĩ đến. Lòng tôi tràn ngập sự biết ơn đối với tình cảm của các anh chị đã có sáng kiến cũng như đối với các anh chị đã đồng lòng hưởng ứng. Thực sự, tôi tự thấy mình bé nhỏ trước vinh dự quá lớn mà các anh chị đã dành cho tôi.

Nhưng, vượt qua xúc động đầu tiên, tôi nghĩ lại: quyển sách này đâu phải chỉ để thực hiện những tình cảm cá nhân giữa chúng ta với nhau? Chúng ta, những người trí thức ở bốn phương, gắn bó với nhau, vượt không gian và thời gian, trên hết còn vì tình cảm chung đối với quê hương đất nước. Bởi vậy, tôi xin được xem vinh dự này không phải chỉ là vinh dự cá nhân mà là vinh dự chung. Vinh dự được là người trí thức trước sóng gió của thời cuộc.

CAO HUY THUẦN

Print Friendly and PDF

9.9.24

Đằng sau vụ kiện “chất Da Cam”, cuộc đấu tranh của những người trẻ gốc Á

ĐẰNG SAU VỤ KIỆN CHẤT DA CAM, CUỘC ĐẤU TRANH CỦA NHỮNG NGƯỜI TRẺ GỐC Á

Juliette Guéron-Gabrielle

Mít tinh ở Paris, Quảng trường République, để ủng hộ bà Trần Tố Nga trong phiên tòa xét xử Monsanto vào ngày 4 tháng 5 năm 2024. SEVGI/SIPA

Giải mã. Ngày thứ năm 22/8 Toà phúc thẩm Paris sẽ công bố phán quyết trong vụ án dai dẳng về sử dụng độc tố dioxin trong chiến tranh Việt Nam, trong bối cảnh này nhóm Vietnam Dioxine đi đầu trong cuộc đấu tranh pháp lý và là không gian thảo luận về sinh thái học giải thực (écologie décoloniale).

“Đây là một hội mang lại nhiều điều tốt đẹp cho các thành viên”, Léa Lo Van nhấn mạnh, cô là một thành viên trẻ của Vietnam Dioxine đấu tranh để đòi đền bù cho các nạn nhân chất Da Cam trong chiến tranh Việt Nam. Từ mười năm nay, nhóm đồng hành với bà Trần Tố Nga, người Việt 83 tuổi, sống ở Evry, chiến đấu chống lại Monsanto-Bayer và 13 công ti hoá dầu khác. Luận điểm của vụ kiện nhắm các công ti này là họ đã cung cấp cho quân đội Mỹ một sản phẩm, chất Da Cam, độc hại hơn rất nhiều so với yêu cầu đặt hàng.

Ngày nay mọi chuyện đã rõ: chất Da Cam đã làm hơn 3 triệu người Việt chết sớm, bị ung thư hay có dị tật do bị phơi nhiễm. Độc tố dioxin trong chất khai quang là một phân tử đặc biệt ổn định, tồn tại lâu dài trong môi sinh và di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Print Friendly and PDF