29.1.25
28.1.25
Ba lý do để đừng trở thành một người theo phái Khắc kỷ (mà thay vào đó hãy thử trở thành một người theo Nietzsche)
BA LÝ DO ĐỂ ĐỪNG TRỞ THÀNH MỘT NGƯỜI THEO PHÁI KHẮC KỶ (MÀ THAY VÀO ĐÓ HÃY THỬ TRỞ THÀNH MỘT NGƯỜI THEO NIETZSCHE)
Đối với một nền triết học cổ đại, chủ nghĩa Khắc kỷ đang đơm bông kết trái vào năm 2023. Những trích dẫn từ triết gia phái Khắc kỷ và hoàng đế La Mã Marcus Aurelius xuất hiện các thông tin trên mạng xã hội Instagram của tôi; bạn có thể tìm thấy lời khuyên chuyên sâu từ các nhà tư tưởng Khắc kỷ hiện đại về thuật lãnh đạo, các mối quan hệ và, gần như, về bất kỳ điều gì.
Thật khó để tưởng tượng về Zeno, triết gia thành Athens, [một trong những - ND] tổ sư khai sinh phái Khắc kỷ, hoặc những đồng nghiệp Khắc kỷ người La Mã nhưng khác thời là Seneca, Marcus Aurelius và Epictetus lại tồn tại ở thế giới ngày nay. Tuy nhiên, họ vẫn ở đây, được trích dẫn và được tranh luận ở mọi ngóc ngách [trong đời sống xã hội].
Điều này một phần là vì các tác giả quốc tế như Ryan Holiday, Massimo Pigliucci và Brigid Delaney ở Úc. Mỗi tác giả này đều có cách tiếp cận của riêng họ về chủ nghĩa Khắc kỷ. Holiday, cựu giám đốc tiếp thị của hãng American Apparel, tập trung vào 4 phẩm hạnh của Khắc kỷ: can đảm, tiết chế (hay tiết độ), công chính và khôn tuệ. Pigliucci, một học giả ở New York, quan tâm tới những cách thực hành của phái Khắc kỷ. Ký giả Delaney, tác giả cuốn Các lý do để đừng lo lắng: làm sao trở thành người theo phái Khắc kỷ trong những thời hỗn độn |Reasons not to worry: how to be stoic in chaotic times|, đang tìm kiếm một khuôn khổ để điều hướng cuộc sống.
26.1.25
Durkheim Émile David, (1858-1914)
Durkheim Émile David, (1858-1914)
Cuộc đời và sự nghiệp
![]() |
Emile Durkheim (1858-1917) |
Durkheim là nhà xã hội học đầu tiên, theo nghĩa ông là người đầu tiên tự nhận mình là nhà xã hội học và như là người sáng lập một bộ môn mới. Như vậy vị trí của ông là độc đáo so với những tác giả khác cùng thế hệ ngày nay được xem là những nhà sáng lập bộ môn, M. Weber, V. Pareto hay F. Simmel. Ông cũng là nhà xã hội học đầu tiên vì dự án của ông đặt nền móng cho một môn học mới ở đại học và cho một khoa học mới. Xã hội học phải tồn tại cả về mặt nhận thức lẫn về mặt thể chế.
Tiểu sử
Durkheim sinh ở Épinal, là con và cháu của hai pháp sư Do thái. Đây là một gia đình quan tâm đến sự hòa nhập, như được minh chứng bằng việc chọn cho con cái những cái tên thông dụng không có nguồn gốc Hê-brơ: người anh cả của Émile là Félix, và hai người chị là Céline và Rosine; người chị thứ hai sẽ là mẹ của M. Mauss, cộng tác viên tương lai, mà trên một số mặt là người con nuôi của Durkheim. Trái với một truyền thuyết dai dẳng, Émile lúc trẻ chưa từng hay có dự định là pháp sư Do thái.
24.1.25
AI có thể giải cứu hành tinh này chăng?
A.I. CÓ THỂ GIẢI CỨU HÀNH TINH NÀY CHĂNG? LỖ HỔNG TRONG NHỮNG BẰNG CHỨNG HIỆN CÓ
![]() |
Trí tuệ nhân tạo phụ thuộc vào các trung tâm dữ liệu khổng lồ có thể tiêu tốn rất nhiều năng lượng. IM Imagery/Shutterstock |
Những người ủng hộ lạc quan về trí tuệ nhân tạo (AI) nói rằng công nghệ tốn kém
về mặt môi trường này
sẽ dần trở nên bền vững hơn
theo thời gian. Chúng ta có thể sử dụng
AI hiệu quả hơn và
khám phá các thiết
kế ít tốn năng lượng hơn lấy cảm
hứng từ bộ não con người. Ta có thể xây dựng các
trung tâm dữ liệu bền vững hơn, sử dụng gỗ hoặc bê tông
và thép ít phát thải carbon. Nhiệt từ các trung tâm dữ liệu thì có thể sưởi ấm
các ngôi nhà trong khu vực lân cận.
Tất nhiên, nếu các hệ thống AI được sử dụng tràn lan (kể cả ở những
nơi không thực sự cần thiết), sự khuếch trương này có
thể lấn át bất kỳ lợi ích tiềm
năng nào về hiệu quả. Nhưng gần đây, tôi
nghe về một lập luận khác: rằng bản thân AI đang giải
quyết vấn đề biến đổi khí hậu. AI có thể giúp mô hình hóa các vụ cháy rừng, tối ưu hóa mức tiêu thụ năng
lượng để bình ổn lưới điện, đẩy
nhanh quá trình phát triển các vật liệu phát thải carbon thấp và nhiều hơn thế nữa.
Nhóm nghiên cứu của tôi gần đây đã công bố một báo cáo đào sâu vào những tuyên bố này – và tìm thấy một số thứ đáng lo ngại.
22.1.25
Giải thưởng của Ngân hàng Thụy Điển dạy chúng ta điều gì về kinh tế?
GIẢI THƯỞNG CỦA NGÂN HÀNG THỤY ĐIỂN DẠY CHÚNG TA ĐIỀU GÌ VỀ KINH TẾ?
Tác giả: Robert Boyer
Giải thưởng của Ngân hàng Thụy Điển về kinh
tế học năm 2024 khuyến khích chúng ta nhận thức về địa lý của nghiên cứu kinh tế
học và xem xét quá trình phát triển trong hai mươi năm qua của các lựa chọn của
ủy ban Thụy Điển.
Sau khi từ bỏ lý thuyết lớn mà sáng kiến này hướng tới vào năm thành lập 1969, kể từ năm
2000, giải thưởng này đã chứng tỏ mong muốn khen thưởng các nhà nghiên cứu giải
quyết các vấn đề của thời đại chứ không chỉ những ai tạo ra các công cụ mới hoặc
phát hiện hoặc đề xuất các cơ chế phối hợp mới.
Liệu việc trao giải thưởng năm nay cho ba
nhà kinh tế đã chứng minh được tầm quan trọng của chính trị trong quá trình
hình thành các thể chế thúc đẩy thịnh
vượng và tăng trưởng có đánh dấu sự trở lại của kinh tế học thể chế, có tính lịch
sử và so sánh hay không?
Các
trường đại học Hoa Kỳ và tính hỗn hợp của những người đoạt giải

Ba người đoạt giải Nobel năm 2024 xuất thân từ những quốc gia khác nhau, nhưng tất cả đều là giáo sư tại các trường đại học danh tiếng nhất ở Bắc Mỹ. Daron Acemoglu, người gốc Thổ Nhĩ Kỳ-Armenia, là nhân vật trung tâm vì ông đã hợp tác lần lượt với James Robinson, một người Anh, đồng tác giả của một cuốn sách thành công Power and Progress (2013) và với Simon Johnson, một người Anh khác đã nhập tịch Mỹ cho cuốn Why nations fail? The origine of power, prosperity and poverty (2023).
Do đó, giải thưởng này không hoàn toàn là bất ngờ, xét đến vô số đóng góp quan trọng của Daron Acemoglu, mà còn là thực tế rằng, từ năm 2000 đến năm 2024, các nhà nghiên cứu từ các trường đại học Hoa Kỳ đã giành giải thưởng này 38 lần, Pháp 2 lần, Anh 1 lần và Na Uy 1 lần. Khoảng 83% giải thưởng được trao cho các trường đại học như MIT, Chicago và Harvard, điều này nhấn mạnh xu hướng chung được quan sát thấy từ năm 1969 đến năm 1999, khi tỷ lệ này chỉ là 73%. Có hai cách giải thích đối lập có thể giải thích sự tập trung cực độ này.
20.1.25
Cây bút triệt để nhất của nữ quyền? Phát hiện lại Andrea Dworkin
CÂY BÚT TRIỆT ĐỂ NHẤT CỦA NỮ QUYỀN? PHÁT HIỆN LẠI ANDREA DWORKIN
Tác giả: Loup Belliard
Nghiên cứu sinh tiến sĩ về văn học thế kỷ XIX và về giới
Đại học Grenoble Alpes (UGA)
![]() |
Andrea Dworkin năm 1981, phát biểu tại Gay american arts festival – festival nghệ thuật những người đồng tính Mỹ. Archives de John Glines |
Trong khi vụ án Mazan đặt các bạo lực phân biệt giới tính và bạo lực tình dục vào vị trí trung tâm của sự chú ý của truyền thông, có lẽ đã đến lúc khám phá và khám phá lại Andrea Dworkin, nhà nữ quyền Mỹ không được biết nhiều và lạc lõng đã tấn công vào những tác hại của sự kỳ thị phụ nữ trong những năm 1970.
Andrea Dworkin qua đời năm 2005. Trong 40 năm, nhà nữ quyền viết tiểu luận và là văn sĩ đã thúc đẩy sự quan tâm, đã làm lay động hoặc gây sợ hãi cho ý thức con người với những bài viết không nhân nhượng và gay gắt dường như đến từ một thế giới khác. Như Leonard Cohen, người hâm mộ bà, đã nói rõ vào năm 1988, có lẽ bà là “[tác giả đầu tiên], nam hoặc nữ, thể hiện một sự ngờ vực có tính nổi loạn sâu sắc theo nghĩa thiêng liêng và vô cùng xa lạ […]. Quan điểm mà bà theo đuổi […] có tính khiêu khích và cuốn hút đến nỗi nó tạo ra một thực trạng khác và có thể biến nó thành hiện thực.”
Ngày nay, dù những nghiên cứu về giới ở Pháp cũng như ở những vùng khác lại chú ý đến những công trình của bà, thì hầu như bà vẫn không được công chúng biết đến. Tại sao ngày nay đọc Dworkin vẫn còn là một điều thích đáng?
18.1.25
Các hình học của chủ nghĩa đế quốc thế kỷ 21 (1/2)
CÁC HÌNH HỌC CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC THẾ KỶ 21 (1/2)
Triết gia
Tiêu đề mà tôi đề xuất xuất phát từ một tiểu luận của Giovanni Arrighi, The Geometry of Imperialism/Hình thể của chủ nghĩa đế quốc, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1978 (cùng năm với L'Orientalisme/Đông phương luận), ngày nay ít được biết đến hơn các tác phẩm khác của ông và có một cấu tạo mang tính “cấu trúc luận” một cách kỳ lạ[2]. Tôi nghĩ đây là một đóng góp rất thú vị cho việc phân tích các biến thể của chủ nghĩa đế quốc, đặc biệt đến từ một trong những nhân vật chính trong cuộc thảo luận hậu mác xít về cấu hình toàn cầu của chủ nghĩa tư bản và các quyền bá chủ lịch sử kế tiếp của nó.
16.1.25
Tôi từng là một nhà khoa học về khí hậu được Exxon tài trợ
TÔI TỪNG LÀ MỘT NHÀ KHOA HỌC VỀ KHÍ HẬU ĐƯỢC EXXON TÀI TRỢ
Những nỗ lực có chủ đích của ExxonMobil nhằm gieo rắc
sự ngờ vực về tính xác thực và cấp thiết của biến đổi khí hậu cùng các khoản
đóng góp của họ cho các hội nhóm “bình phong” để phổ biến thông tin sai lệch về biến đổi khí hậu là
chuyện ai cũng biết từ lâu.
Các báo
cáo điều tra vào năm 2015 tiết lộ rằng Exxon đã có nhóm khoa học gia để xây dựng mô hình khí hậu riêng cho mình từ những năm
1970: khoa học và mô hình này không chỉ chính xác mà còn được sử dụng để lên kế hoạch cho tương lai
của công ty.
Hiện nay, một nghiên cứu
được bình duyệt công bố vào ngày 23 tháng 8 đã xác
nhận rằng những gì Exxon nói nội bộ về biến đổi khí hậu khác hẳn về mặt định lượng
so với các tuyên bố công khai của họ. Cụ thể,
các nhà nghiên cứu Geoffrey
Supran và Naomi Oreskes phát hiện ra rằng ít nhất 80% các tài liệu nội bộ và ấn phẩm có bình duyệt mà họ nghiên cứu từ năm 1977 đến năm 2014 phù hợp với thực trạng khoa học – thừa nhận rằng biến đổi khí hậu là
có thật và (tình trạng này là) do con người gây ra, và xác định "những bất trắc có lý" mà bất
kỳ nhà khoa học khí hậu nào cũng sẽ đồng ý vào thời điểm đó. Tuy nhiên, nghiên cứu
phát hiện ra rằng hơn 80% các quảng
cáo trả tiền theo phong cách biên tập của Exxon trong cùng
giai đoạn đó lại tập trung cụ thể vào
sự bất trắc và
ngờ vực.
Sự tương phản rõ rệt giữa việc thảo luận nội bộ về nghiên cứu khí hậu tiên tiến
trong khi mặt ngoài thì tiến hành chiến dịch thông tin sai lệch về khí hậu đủ khiến rất nhiều người kinh ngạc. Chuyện gì đang xảy ra ở Exxon chứ?
Tôi có một góc nhìn độc đáo – vì tôi đã từng ở đó.
14.1.25
Đọc “The 5th miracle” của Paul Davies
ĐỌC “THE 5TH MIRACLE”[*] CỦA PAUL DAVIES
Trương Văn Tân
![]() |
![]() |
Paul Davies (1946-) |
“Con người đến từ đâu?” hay “Sự sống là gì?” là những câu hỏi đơn giản nhưng hơn 2.000 năm qua nó đã làm cho người ta băn khoăn và nỗ lực tìm lời giải đáp. Những câu hỏi đó khơi gợi lên nhiều cảm xúc sâu xa đi vào tâm linh con người. Từ lâu, con người đã biết “Tôi tư duy nên tôi hiện hữu” nhưng không tìm được câu trả lời về nguồn gốc hiện hữu của mình. Đối với những người không dễ dàng tin vào sự an bài cho rằng Thượng Đế tạo ra muôn loài, thì hành trình tìm kiếm nguồn gốc sự hiện hữu của mọi sinh linh trên quả đất dù khó khăn nhưng càng lúc càng sôi động theo các bước tiến khoa học. Nếu ta xuất phát từ một thắc mắc rằng: một tảng đá và các tồn tại sống như động thực vật kể cả con người có các nguyên tố cấu tạo (ôxy, hydro, nitơ, cacbon, phospho, lưu huỳnh, kim loại, v.v.) giống nhau, thì tại sao tồn tại sống là vật có khả năng chuyển hóa (metabolism) để sống còn và khả năng sinh sôi nẩy nở để duy trì nòi giống? Ở con người, sản phẩm đỉnh cao của sự sống, những hành động hay biểu cảm như chạy, nhảy, đi, đứng, cười, nói, la, hét, suy tư, hỉ, nộ, ái, ố, tham, sân, si… xuất hiện. Con người “hữu tình” hoàn toàn khác biệt với tảng đá “trơ” (non-living) dù rằng giống nhau ở yếu tố cấu tạo. Những sách giáo khoa sinh học dạy rằng sự sống xuất hiện trên quả đất đã nhiều tỷ năm nhưng không dạy sự sống được bắt đầu ra sao. Đơn giản là chúng ta chưa có câu trả lời cho câu hỏi này.
Nếu nguồn gốc của sự sống không phải từ phép mầu của Thượng Đế thì nguồn gốc này hẳn chứa nhiều việc rất kỳ bí mà trong nhiều năm qua đã có rất nhiều nhà khoa học bao gồm sinh học, hóa học, vật lý, toán học thậm chí thiên văn học đổ xô vào nhiều công trình nghiên cứu để truy tìm câu trả lời. Các thành quả nghiên cứu nay đã có câu trả lời dứt khoát, hay đang tiến gần đến câu trả lời, hay vẫn còn mù mịt chưa có lời giải đáp. Trong sự tò mò tìm câu trả lời, tôi đọc quyển “The 5th miracle: The search for the origin and meaning of life” (Phép mầu thứ 5: Truy tìm nguồn gốc và ý nghĩa của sự sống) của tác giả Paul Davies.
Giáo sư Paul Davies là nhà vật lý lý thuyết và vật lý thiên văn đã từng giảng dạy tại Anh (Đại học Cambridge) và Úc (Đại học Adelaide, Đại học Macquarie). Ông được biết đến cho những công trình nghiên cứu về hiện tượng hấp dẫn lượng tử. Ngoài ra, ông viết hơn 20 quyển sách về khoa học đại chúng. Ông là một trong những tác giả hiếm hoi hàng đầu trên thế giới về bộ môn này.
12.1.25
Ada Lovelace: công chúa của các thuật toán
ADA LOVELACE: CÔNG CHÚA CỦA CÁC THUẬT TOÁN
Tác giả: Avner Bar-Hen
Giáo sư tại CNAM (Conservatoire National des Arts et Métiers)
Chương trình máy tính đầu tiên được viết bởi một phụ nữ. Bị lãng quên rất lâu, ngày nay Ada Lovelace đã khôi phục sự công nhận xứng đáng với tư cách là người báo hiệu của tin học. Margaret Sarah Carpenter/Wikimedia Commons
Bài báo này, được viết chung bởi Quentin Lazzarotto là nhà làm phim khoa học, và Avner Bar-Hen, Giáo sư toán học tại Conservatoire des arts et métiers (CNAM) là một phiên bản mới của chân dung của Ada Lovelace, được công bố trong tác phẩm của họ: Dingue de maths! (nhà xuất bản EPA).
Ada Lovelace, một phụ nữ người Anh hăng say, ngày nay tên của bà được kết hợp với ngôn ngữ lập trình Ada, là một trong những nhân vật quan trọng trong lịch sử của ngành tin học. Hoạt động trong thế kỷ XIX, lúc mà toán học được xem là lĩnh vực của đàn ông, bà hợp tác với nhà toán học Charles Babbage để phát triển một máy tính toán. Trong khi làm như vậy, bà hiểu một cách trực giác vai trò của các thuật toán. Câu chuyện cảm động của bà thật đẹp vì nó là ngẫu nhiên và không được biết đến.
Ada King, nữ bá tước Lovelace (khoảng năm 1840). Alfred Edward Chalon/Wikimedia
Là con gái của nhà thơ lãng mạn nổi tiếng Lord Byron, ngày nay Ada Lovelace được xem là người phát minh ra thuật toán tin học đầu tiên. Trong thời đại công nghiệp phát triển, lúc máy móc mê hoặc con người, thì toán học không thoát khỏi quá trình cơ giới hoá.
Trong những năm 1830, Ada Lovelace hợp tác với nhà toán học người Anh Charles Babbage để triển khai máy Babbage, biểu hiện đi trước những máy điện toán hiện đại. Nhất là bà đã viết một thuật toán nhằm để được máy Babbage thực hiện, thuật toán này sẽ được xem như chương trình tin học đầu tiên trong Lịch sử.
10.1.25
Thời đại khai sáng – cách mạng khoa học bắt đầu như thế nào?
THỜI ĐẠI KHAI SÁNG – CÁCH MẠNG KHOA HỌC
BẮT ĐẦU NHƯ THẾ NÀO?
Tác giả: Tôn Thất Thông, tháng 10/2024
Trong thời đại khai sáng, triết gia khám phá những khoa học mới, và tất cả để phục vụ cho con người làm chủ thiên nhiên và môi trường sống chung quanh. Dùng thuật ngữ của David Hume, khai sáng là thời đại của “những khoa học đạo đức” mới mẻ: Xã hội học, tâm lý học, kinh tế chính trị học và giáo dục hiện đại[1].
Sử gia Peter Gay, Giáo sư đại học Yale.
***
Các cuộc cách mạng thuộc lĩnh vực khoa học trong thời đại khai sáng chắc chắn là những nguồn suối đầu tiên mang lại phồn vinh cho loài người. Trước hết, được dẫn dắt bởi lề lối tư duy và phương pháp luận trong triết học, khoa học tự nhiên thoát xác để dẫn đến những khám phá chưa từng có trước đó, rồi dần dần mở đường cho khoa học thực nghiệm phát triển, rồi từ đó làm lực đẩy cho các khám phá kỹ thuật, tạo nên công cụ dẫn đến cách mạng công nghiệp, phục vụ cho sản xuất và đời sống, mang lại phồn vinh cho loài người cho đến hôm nay.
Nói về khoa học thì trước hết, chúng ta cần giới hạn phạm vi khảo sát. Khoa học mà chúng ta đang bàn tới là khoa học tự nhiên, vốn dĩ hàm chứa ba tính chất căn bản như sau[2]:
Trước hết, con người quan tâm đến nó, và nhìn thế giới chung quanh nó bằng một phong cách đặc biệt. Khoa học gia khảo sát nó một cách khách quan, không bị tình cảm ảnh hưởng, cũng không bị cảm xúc chi phối nhận thức. Họ định hướng quan sát vào những sự vật cụ thể, mà họ gọi là dữ liệu có chứng cứ. Họ không cần ra biển để thưởng thức gió và nước như những nhà thơ, mà thường làm việc trong các phòng thí nghiệm hay một môi trường tương tự, nơi mà họ có thể kiểm soát chính xác công việc của mình.
8.1.25
Charles Pépin: “Làm thế nào để không trở thành một lão già bảo thủ?”
CHARLES PÉPIN: “LÀM THẾ NÀO ĐỂ KHÔNG TRỞ THÀNH MỘT LÃO GIÀ BẢO THỦ?”
BIEN-ÊTRE. “Làm thế nào để không trở thành một lão già bảo thủ?” có thể là nhan đề phụ của tiểu luận của Charles Pépin. Triết gia này (cuối cùng) cũng kêu gọi sống hòa hợp với quá khứ của mình.
Julie Malaure ghi lại
Trong một thời gian dài giáo sư triết học Charles Pépin đã dùng quá khứ làm xương sống cho việc giảng dạy của mình. Ông chất vấn cách suy nghĩ về ký ức, lịch sử, lịch sử của ông. Có cần dùng quá khứ làm công cụ để xây dựng tương lai, cùng lắm là lựa chọn các ký ức, như Nietzsche từng chủ trương?
Và rồi Charles Pépin, một triết gia thời thượng, được 50 tuổi. Khi ở nửa cuộc đời, ông luôn bận tâm về quá khứ, nhắc lại nhiều lần quá khứ vốn đe dọa tương lại của mình, vị giáo sư đồng thời là nhà văn tiểu luận, người nêu lên tiếng nói của mình trên đài Radio France trong chương trình Sous le soleil de Platon - Dưới mặt trời của Platon -, đã có tham vọng viết một quyển sách về “sống tốt đẹp với quá khứ của mình”. Làm thế nào để “chấp nhận quá khứ của mình, làm hòa với nó, chào đón nó”. Tóm lại là làm thế nào để già đi một cách tử tế, hay chính xác hơn, như ông nói với chúng ta: “Làm thế nào để không trở thành một lão già bảo thủ?”
![]() |
Chính vì vậy mà sự khám phá của nhà triết học theo trường phái Freud-Lacan đã chuyển hướng. Dưới ánh sáng của những phát hiện mới đây trong lĩnh vực khoa học thần kinh, đối diện với những kết quả của các phương pháp trị liệu mới đối với 85 triệu nơ-ron của chúng ta, đã xuất hiện một hy vọng mới. “Quá khứ không còn là cố định, ta có thể xử lý lại nó, diễn giải lại, can thiệp vào nó từ bên trong”, ông giải thích với chúng ta như vậy. Trong tiểu luận của ông: Vivre avec son passé - Sống với quá khứ của mình - (Nhà xuất bản Allary, sẽ phát hành ngày 7 tháng 9), Charles Pépin, “theo trường phái Nietzsche trước đây, rồi trở thành người theo trường phái Spinoza và Freud”, đề nghị chúng ta, với quá khứ của cá nhân chúng ta, học cách làm động tác mà các vận động viên rugby (bóng bầu dục) thực hiện khi chuyền bóng về phía sau: “Tiến về phía trước đồng thời quay nhìn lui lại”. Gặp gỡ.
6.1.25
Biến đổi khí hậu có nguồn gốc lịch sử sâu xa – Amitav Ghosh khám phá vai trò của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa thực dân
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CÓ NGUỒN GỐC LỊCH SỬ SÂU XA – AMITAV GHOSH KHÁM PHÁ VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN VÀ CHỦ NGHĨA THỰC DÂN
![]() |
Amitav Ghosh làm sáng tỏ mối liên hệ giữa việc khai thác con người và hành tinh với biến đổi khí hậu. Mathieu Genon |
Amitav Ghosh là tác giả nổi tiếng thế giới với 20 quyển sách hư cấu lịch sử và phi hư cấu. Nhà tư tưởng và nhà văn Ấn Độ này đã viết rất nhiều về di sản của chủ nghĩa thực dân, bạo lực và chủ nghĩa khai thác tài nguyên [extractivism]. Các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông nghiên cứu sự di cư, toàn cầu hóa và bạo lực thương mại và chinh phục trong thời kỳ thuộc địa, trong bối cảnh buôn bán thuốc phiện vào những năm 1800.
Caroline Southey, từ The Conversation Africa, đã hỏi giáo sư kinh tế Imraan Valodia và nhà nghiên cứu về khí hậu và bất bình đẳng Julia Taylor về ý nghĩa công trình của Amitav Ghosh.
Ghosh đã đóng góp gì cho sự hiểu biết của chúng ta về nguyên nhân gốc rễ của biến đổi khí hậu?
Julia Taylor: Trong cuốn sách phi hư cấu gần đây của Ghosh, The Nutmeg's Curse: Parables for a Planet in Crisis (tạm dịch: Lời nguyền của nhục đậu khấu: Những dụ ngôn cho một hành tinh đang khủng hoảng), ông đã dùng khả năng kể chuyện tài tình để phác thảo nguồn gốc của biến đổi khí hậu trong hai hệ thống quyền lực và áp bức: chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa đế quốc là sự mở rộng ảnh hưởng lên các quốc gia khác thông qua sức mạnh quân sự và thực dân hóa. Thường kéo theo việc phá hủy môi trường để hỗ trợ cho lợi ích của đế quốc.
Chủ nghĩa tư bản là hệ thống kinh tế thống trị, trong đó quyền sở hữu các phương tiện sản xuất (công nghiệp) thuộc về tư nhân. Các tác nhân tư nhân được thúc đẩy bởi lợi nhuận và tăng trưởng, vốn dựa vào việc đốt nhiên liệu hóa thạch.
Điều Ghosh làm rõ là bạo lực và sự phá hủy môi trường là cốt lõi của chủ nghĩa tư bản, tựa như chúng đã từng trong chủ nghĩa thực dân.