17.9.25

Trump có đẩy Modi vào vòng tay Tập Cận Bình? Hiểu về sự xích lại gần nhau giữa Trung Quốc và Ấn Độ

TRUMP CÓ ĐẨY MODI VÀO VÒNG TAY TẬP CẬN BÌNH? HIỂU VỀ SỰ XÍCH LẠI GẦN NHAU GIỮA TRUNG QUỐC VÀ ẤN ĐỘ

Trung Quốc đã thắng một trận chiến ngoại giao mấu chốt vào mùa hè này.

Trong khi Modi sẽ gặp Tập Cận Bình vào cuối tuần này, Bắc Kinh đang thành công trong việc ép buộc Ấn Độ trở thành đồng minh của mình - phá vỡ cơ sở chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Washington.

Trong một nghiên cứu sâu sắc, Christophe Jaffrelot xem xét nguyên nhân của sự xích lại gần nhau dưới hình thức từ bỏ.

Tác giả: Christophe Jaffrelot[*]

--------------------------------------

Năm mùa hè trước, quan hệ Trung-Ấn đã rơi vào một trong những cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ cuộc chiến năm 1962 đã dẫn đến việc Trung Quốc xâm chiếm một phần vùng Jammu và Cachemire.

Sau những cuộc giao tranh giáp lá cà giữa binh lính Trung Quốc và Ấn Độ tại Thung lũng Galwan vào tháng 6 năm 2020, khiến 20 binh sĩ Ấn Độ thiệt mạng, chính phủ Ấn Độ đã áp đặt một thủ tục đặc biệt đối với tất cả đầu tư nước ngoài từ một quốc gia láng giềng - thực chất là nhắm vào Trung Quốc - khiến thị thực cho du khách Trung Quốc giảm mạnh và cấm gần 60 ứng dụng và trang web của Trung Quốc. Các cuộc đàm phán giữa quân đội hai nước, thông qua đó Ấn Độ hy vọng sẽ giành lại ít nhất một số lãnh thổ bị Trung Quốc chiếm đóng, đã kéo dài mà không mang lại kết quả nào.

Năm năm sau, vào ngày 18 tháng 8 năm 2025, New Delhi đã tiếp đón Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị, thể hiện thiện chí đối với Bắc Kinh rằng hai bên đã đồng ý “nối lại các cơ chế chính thức khác nhau cho đối thoại và trao đổi song phương nhằm tăng cường hợp tác”. Tiếp nối sự xích lại gần này, Narendra Modi sẽ đến Trung Quốc bắt đầu từ ngày 31 tháng 8 - chuyến thăm đầu tiên của ông tới quốc gia này kể từ năm 2018 - để tham dự hội nghị thượng đỉnh của Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải, xác nhận tiến trình bình thường hóa đang diễn ra.

Thái độ của Ấn Độ đã được diễn giải theo nhiều cách khác nhau.

Một số nhà phân tích cho rằng điều này là do chính sách của Donald Trump[1], người đã quyết định áp đặt mức thuế kỷ lục - 50% đối với hàng nhập khẩu từ Ấn Độ của Mỹ – bị Trung Quốc công khai lên án. Những người khác lại coi đó là biểu hiện của quyền tự chủ chiến lược nổi tiếng của Ấn Độ, dựa trên sự kế thừa logic về chính sách không liên kết - nay được đổi tên thành “chủ nghĩa đa phương” - bao gồm việc duy trì quan hệ với càng nhiều đối tác càng tốt mà không bao giờ đứng về phía bất kỳ bên nào - ít nhất là không đến mức trở thành đồng minh.

Tất nhiên, những diễn giải này cũng có phần đúng. Nhưng đối với tôi, chúng dường như bỏ qua một yếu tố then chốt: đó là sự phụ thuộc của Ấn Độ vào Trung Quốc đang khiến nước này ngày nay phải khuất phục trước sự thống trị của Trung Quốc - dù điều đó có dẫn đến việc phải từ bỏ một phần quyền tự chủ chiến lược của mình - thay vì thực sự kích động Bắc Kinh chống lại Washington.

Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan: nghệ thuật nuốt nỗi nhục

Việc bình thường hóa quan hệ Trung-Ấn đang diễn ra trong khi, về mặt địa chiến lược, Ấn Độ chưa đạt được bất kỳ thành công nào trong các cuộc đàm phán hậu Galwan.

Mặc dù đã có 17 vòng đàm phán giữa đại diện quân đội Ấn Độ và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Trung Quốc vẫn chưa làm gì hơn ngoài việc chấp nhận cho Ấn Độ có quyền tuần tra - cùng với họ - tại các khu vực Demchok và Depsang[2]. Các nhà quan sát am hiểu dựa trên hình ảnh vệ tinh khẳng định rằng quân đội Trung Quốc vẫn chiếm đóng 2.000 km2 lãnh thổ Ấn Độ - cả ở Thung lũng Galwan.

Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 2024, Bộ Ngoại giao Ấn Độ đã công bố việc ký kết một thỏa thuận giữa Ấn Độ và Trung Quốc, cho phép Ấn Độ, theo lời của Jaishankar, “tuần tra, như chúng tôi đã làm cho đến năm 2020”[3]. Bộ trưởng kết luận: “Do đó, chúng tôi có thể khẳng định rằng việc Trung Quốc rút quân hiện đã hoàn tất.” Ngay ngày hôm sau, ông đã bị Tổng tham mưu trưởng Lục quân Dwivedi phủ nhận, khi nói rằng việc rút quân sẽ chỉ hoàn tất khi tình hình trước cuộc giao tranh năm 2020 được khôi phục[4]. Nhiều chuyên gia - dựa trên thông tin từ mặt đất và hình ảnh vệ tinh - cho rằng vào thời điểm đó việc trở lại nguyên trạng trước đây không phải là điều sắp xảy ra và New Delhi khẳng định điều ngược lại để làm như thể quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc đang trên đà bình thường hóa[5]. Có một sự cấp bách nhất định để thừa nhận điều này, vì Narendra Modi dự kiến ​​sẽ gặp Tập Cận Bình tại Kazan cho Hội nghị Thượng đỉnh BRICS vài ngày sau đó và rõ ràng là muốn làm lành.

Lính Trung Quốc giương cao biểu ngữ có dòng chữ “Các người đã vượt biên giới, xin hãy quay lại” tại Ladakh, Ấn Độ. © SIPA/AP

Một kịch bản tương tự đã được quan sát thấy trong các cuộc giao tranh giữa Ấn Độ và Pakistan hồi tháng 5 năm ngoái.

Vào thời điểm vụ tấn công khủng bố ngày 22 tháng 4, khiến 26 người Ấn Độ thiệt mạng tại Pahalgam (Jammu và Kashmir), được New Delhi quy trách nhiệm cho các nhóm Pakistan và khả năng Ấn Độ trả đũa ngày càng tăng, Vương Nghị, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, tuyên bố: “Là một người bạn kiên định và đối tác chiến lược theo đuổi hợp tác trong mọi tình huống, Trung Quốc hoàn toàn hiểu được những lo ngại an ninh chính đáng của Pakistan và ủng hộ Pakistan bảo vệ chủ quyền và lợi ích an ninh của mình.”[6]

Chính sự phụ thuộc của Ấn Độ vào Trung Quốc đã khiến nước này ngày nay phải khuất phục trước sự thống trị của Trung Quốc hơn là việc muốn kích động Bắc Kinh chống lại Washington.

CHRISTOPHE JAFFRELOT

Đây là một tuyên bố đặc biệt mạnh mẽ: chưa bao giờ, trong một cuộc xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan, Bắc Kinh lại đứng về phía Pakistan như thế này. Lặp lại quan điểm của Islamabad, Vương Nghị thậm chí còn yêu cầu Ấn Độ chấp nhận tiến hành “một cuộc điều tra công bằng và nhanh chóng” để xác định những kẻ chịu trách nhiệm cho vụ tấn công - điều này đồng nghĩa với việc đặt ra nghi ngờ về sự liên quan của Pakistan.

Theo các nguồn tin của Ấn Độ, trong cuộc xung đột, Trung Quốc được cho là đã hỗ trợ Pakistan về mặt phòng không bằng cách cung cấp hình ảnh vệ tinh[7]. Phó Tổng Tham mưu trưởng Lục quân Ấn Độ, Trung tướng Rahul R. Singh, xác nhận rằng trong các cuộc giao tranh Pakistan “đã nhận được thông tin theo thời gian thực từ Trung Quốc”[8]. Về vũ khí mà Pakistan sử dụng, về cơ bản chúng là của Trung Quốc - cũng như 80% kho vũ khí của nước này. Ba trong số vũ khí đó đóng một vai trò quan trọng: tên lửa PL-15 với tầm bắn 200 km, có thể đã cho phép Pakistan tiêu diệt một máy bay Rafale của Không quân Ấn Độ[9], máy bay chiến đấu J-10C - mang vũ khí tiêu diệt này - và hệ thống phòng không HQ-9[10].

Sau khi tiếng súng im bặt, khi Ấn Độ - quốc gia vừa lên án Hiệp ước Indus ngay sau vụ tấn công Pahalgam - tuyên bố rằng giờ đây họ có thể tước đi của Pakistan một phần nguồn nước mà hiệp ước này trao cho họ, Trung Quốc đã bóng gió rằng họ cũng có thể tước đi của Ấn Độ nguồn nước sông Brahmapoutre[11]. Ngay trước đó, ngay sau khi các hoạt động quân sự kết thúc, Ngoại trưởng Pakistan Ishaq Dar đã đến Bắc Kinh để gặp người đồng cấp[12].

Ấn Độ - quốc gia mà Ngoại trưởng Jaishankar đã tuyên bố vào ngày 10 tháng 4 rằng quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc “tốt hơn nhiều so với trước đây”[13] - đã không phản đối Bắc Kinh trong hoặc sau các cuộc giao tranh. Chính phủ Ấn Độ nói chung vẫn giữ im lặng trên điểm này.

Chính trong bối cảnh này, Jaishankar đã đến thủ đô Trung Quốc vào tháng 7 năm 2025 để gặp Phó Chủ tịch Hàn Chính. Ngay khi vừa đến, ông đã hoan nghênh trên mạng xã hội “sự cải thiện trong quan hệ song phương của chúng ta. Và tôi đã bày tỏ sự tin tưởng rằng các cuộc thảo luận được tổ chức trong chuyến thăm của tôi sẽ duy trì quỹ đạo tích cực này.”[14]

Làm thế nào để có thể giải thích thiện chí và mong muốn bình thường hóa này?

Tất nhiên, sự mất cân bằng quyền lực trong lĩnh vực quân sự hiện nay rất lớn. Ấn Độ khó có thể cạnh tranh với Trung Quốc trên mặt trận tên lửa và phòng thủ chống tên lửa - vốn đã trở thành một thành tố quyết định của chiến tranh hiện đại - vì nước này chỉ sở hữu hai đội tên lữa S-400 và dự kiến ​​sẽ nhận thêm ba đội nữa trong thời gian tới trong khi Trung Quốc sở hữu nửa tá, cộng với ba đội HQ-9 - tương đương với S-300 hoặc thậm chí là S-400[16].

Trên biển, sự tương phản giữa Ấn Độ và Trung Quốc thậm chí còn rõ rệt hơn, khi Trung Quốc đã đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực này để trang bị cho mình một Hải quân Xanh. Trong khi Ấn Độ chỉ có 16 tàu ngầm (hai trong số đó chạy bằng năng lượng hạt nhân), Trung Quốc có đến 65 tàu, trong đó có 12 tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân[17].

Trên không, ưu thế của Trung Quốc được đảm bảo bởi số lượng máy bay có khả năng cất cánh từ tàu sân bay - 60 đến 70 chiếc J-15 so với 45 chiếc MiG-29K - và bởi số lượng máy bay chiến đấu đa năng, máy bay thế hệ thứ tư hoặc thứ năm. Trong khi Ấn Độ có 36 chiếc Rafale, Trung Quốc có đến 200 chiếc J-20[18].

Nếu sự mất cân bằng này có thể biện minh cho việc Ấn Độ giữ tư thế hạ phong đối với Trung Quốc, tại sao nước này lại háo hức bình thường hóa quan hệ kể từ năm ngoái đến vậy?

Sự phụ thuộc kinh tế Ấn Độ bao hàm những điều gì?

Một số quan chức Ấn Độ bắt đầu ủng hộ việc thay đổi chính sách đối với Trung Quốc ngay cả khi chính quyền New Delhi chỉ trích tiến độ đàm phán rút quân chậm chạp của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) với quân đội Ấn Độ và căng thẳng vẫn ở mức cao trên dãy Himalaya[19].

Những dấu hiệu của sự cởi mở về kinh tế đã xuất hiện ngay từ nửa đầu năm 2024[20]. Vào tháng 7 năm đó, báo cáo thường niên Economic Survey là cơ hội cho một cuộc tranh luận rất gay gắt. Tài liệu chính thức của chính phủ Ấn Độ này, được công bố trước cuộc bỏ phiếu ngân sách, đã đặc biệt nêu rõ, rằng đầu tư nước ngoài “từ Trung Quốc [có thể đóng góp] vào sự hội nhập của Ấn Độ vào chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời thúc đẩy xuất khẩu”[21] và giải thích rằng việc mở rộng hơn cho các khoảng đầu tư của Trung Quốc “[dường như] đầy hứa hẹn hơn trong việc thúc đẩy xuất khẩu của Ấn Độ sang Hoa Kỳ, như các nền kinh tế Đông Á đã từng làm trong quá khứ”, trước khi bổ sung thêm:

“Khi Hoa Kỳ và Châu Âu chuyển nguồn cung ứng trực tiếp khỏi Trung Quốc [trong logic của tiến trình phi kết hợp (decoupling) và tách rời (delinking)], các công ty Trung Quốc sẽ có lợi hơn khi đầu tư vào Ấn Độ và sau đó xuất khẩu sản phẩm của họ sang các thị trường này, thay vì nhập khẩu từ Trung Quốc, tạo ra giá trị gia tăng tối thiểu rồi tái xuất khẩu.”[22]

Mặc dù cố vấn kinh tế trưởng của chính phủ Modi, V. Anantha Nageswaran, là người đứng sau những khuyến nghị này, nhưng ông không thể đề xuất chúng nếu không có sự đồng ý của nữ Bộ trưởng Tài chính Nirmala Sitharaman, người đã công khai lo ngại về sự suy giảm đầu tư nước ngoài tại Ấn Độ[23]. Sau xu hướng giảm - hơn là xu hướng theo đường thẳng - tỷ trọng FDI tại Ấn Độ, đạt đỉnh ở mức 3,50% GDP vào năm 2008-09, đã giảm xuống còn 1,25% vào năm 2022-23[24]. Điều này là do, như Alicia Garcia-Herrero giải thích, “Hoa Kỳ và Châu Âu có phần do dự để đầu tư vào lĩnh vực sản xuất của Ấn Độ, vì hầu hết đầu tư nước ngoài đều hướng vào lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, chẳng hạn như dịch vụ kỹ thuật số.”[25]

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cầm cuốn tự truyện tiếng Anh của Mahatma Gandhi trong chuyến thăm Rajghat, đài tưởng niệm dành riêng cho vị cha đẻ của nền độc lập Ấn Độ, tại New Delhi, Ấn Độ. © Ảnh AP/Saurabh Das

Đầu tư nước ngoài thấp vào Ấn Độ đã báo hiệu sự sụp đổ của chương trình Make in India, mà Narendra Modi đã khởi động rầm rộ ngay sau khi lên nắm quyền. Việc củng cố ngành công nghiệp Ấn Độ là ưu tiên hàng đầu để tạo ra việc làm rất cần thiết cho giới trẻ. Thất nghiệp trong giới trẻ là một trong những thách thức chính mà chính phủ hiện tại đang phải đối mặt[26].

Báo cáo Economic survey năm 2024 đã mở ra một viễn cảnh kép có thể khắc phục những e ngại của các nhà lãnh đạo đảng BJP - bao gồm cả Piyush Goyal, Bộ trưởng Thương mại - những người lo ngại về dòng vốn đầu tư từ Trung Quốc: “Để thúc đẩy sản xuất tại Ấn Độ và kết nối Ấn Độ với chuỗi cung ứng toàn cầu, việc Ấn Độ hội nhập vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc là điều không thể tránh khỏi. Việc chúng ta thực hiện điều này bằng cách chỉ dựa vào nhập khẩu hay một phần thông qua đầu tư của Trung Quốc là một lựa chọn mà Ấn Độ phải đưa ra.[27]

Truyền thông Trung Quốc suy luận từ những trao đổi giữa hai bên rằng, đối với Ấn Độ, Đài Loan giờ đây là một phần của Trung Quốc - một lập trường mà chính quyền Ấn Độ đã không phủ nhận.

CHRISTOPHE JAFFRELOT

Con đường ưu tiên vốn được Goyal ủng hộ là trước hết phải thông qua thương mại. Nhưng chính sách này cũng khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài: bằng cách giảm thuế nhập khẩu lithium, niken, coban và vanadi xuống còn 0%, Ấn Độ đã mời các nhà sản xuất pin Trung Quốc - một trong những lĩnh vực mà Ấn Độ còn tụt hậu - thiết lập quan hệ với các đối tác Ấn Độ để sản xuất trong nước. Việc giảm thuế nhập khẩu linh kiện điện thoại di động từ 20% xuống 15% cũng được diễn giải theo cách tương tự[28].

Đáp lại, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã thay đổi giọng điệu.

Đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ đã nhiều lần thể hiện sự cởi mở kể từ mùa hè năm 2024. Ông bày tỏ sự ủng hộ đối với việc tăng cường đầu tư của Ấn Độ vào Trung Quốc và với sự khôi phục hợp tác khoa học và công nghệ giữa hai nước - đồng thời hy vọng rằng “phía Ấn Độ có thể tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các công ty Trung Quốc tại Ấn Độ.”[29]

Cuối cùng, vào mùa xuân năm 2025, Ấn Độ đã đảo ngược chính sách đuocự triễn khai vào năm 2020 và tuyên bố rằng các dự án đầu tư của Trung Quốc, do đó được hoan nghênh, giờ đây sẽ được ủy ban liên bộ phụ trách hồ sơ xem xét nhanh chóng[30].

Thiện chí mà Ấn Độ dành cho Trung Quốc về sự cởi mở với đầu tư của Trung Quốc - và gần đây hơn, trên mặt trận ngoại giao - chủ yếu phản ánh sự phụ thuộc về mặt công nghiệp.

Thật vậy, nền kinh tế Ấn Độ ngày càng phụ thuộc vào hàng nhập khẩu của Trung Quốc.

Năm 2024, với kim ngạch thương mại hàng hóa đạt 118 tỷ đô la, Trung Quốc lại trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ, vượt qua Hoa Kỳ, quốc gia đã vượt qua Trung Quốc ngay trước đó. Đồng thời, thâm hụt thương mại của Ấn Độ với Trung Quốc cũng không ngừng gia tăng, tăng vọt từ 46 tỷ đô la trong năm 2019-2020 lên 85 tỷ đô la trong năm 2023-2024 và 99,2 tỷ đô la trong năm 2024-2025. Xuất khẩu của Ấn Độ - trị giá chưa đến 15 tỷ đô la trong năm 2024-25, ít hơn so với năm 2018-2019 - chủ yếu bao gồm nguyên liệu thô - bao gồm quặng sắt - và dầu tinh chế, trong khi xuất khẩu của Trung Quốc sang Ấn Độ, trị giá hơn 124 tỷ đô la - so với 70,3 tỷ đô la vào năm 2019 - chủ yếu bao gồm sản phẩm công nghiệp - máy công cụ, máy tính, hóa học hữu cơ, mạch tích hợp hoặc nhựa[31]. Ngành công nghiệp Ấn Độ lại càng phải chịu sự cạnh tranh từ Trung Quốc vì thiếu khả năng cạnh tranh.

Trong khi nhập khẩu của Ấn Độ từ Trung Quốc tăng nhanh gấp 2,3 lần so với nhập khẩu của Ấn Độ nói chung trong giai đoạn 2005-2006 - năm mà Ấn Độ vẫn có thặng dư thương mại với Trung Quốc - và 2023-2024, thì tỷ trọng hàng công nghiệp mà Ấn Độ nhập khẩu từ Trung Quốc đã tăng từ 21% lên 30% tổng số hàng công nghiệp mà Ấn Độ nhập khẩu trong giai đoạn này[32].

Thành phần hàng nhập khẩu của Ấn Độ từ Trung Quốc biểu lộ rất nhiều điều: hàng thành phẩm chỉ chiếm 6,8% tổng lượng hàng công nghiệp nhập khẩu của Ấn Độ từ Trung Quốc, trong khi hàng trung gian và tư liệu sản xuất lần lượt chiếm 70,9% và 22,3% trong giai đoạn 2023-2024[33]. Ngành công nghiệp Ấn Độ cần những hàng hóa Trung Quốc này để đảm bảo sản xuất của riêng mình, cho dù đó là phụ tùng điện tử, điện tử hay ô tô, nguyên liệu hoạt tính cho các nhà sản xuất thuốc và vắc-xin, hay máy tính - được phân loại là tư liệu sản xuất khi chúng được sử dụng chuyên nghiệp[34]. Tình hình này giải thích tại sao Ấn Độ xuất khẩu càng nhiều thì họ cũng nhập khẩu càng nhiều để có các linh kiện cho phép họ lắp ráp điện thoại thông minh, ô tô hoặc thuốc men mà họ bán cho phần còn lại của thế giới - chủ yếu là ở Châu Âu và Hoa Kỳ.

Điện tử là một trường hợp điển hình, đặc biệt là kể từ khi Foxconn khai trương nhà máy Sunguvarchatram được nhiều người mong đợi ngay tại trung tâm của hành lang công nghiệp giữa Chennai và Bengaluru[35].

Điện thoại thông minh hiện chiếm một nửa kim ngạch xuất khẩu điện tử của Ấn Độ - iPhone chiếm 70% tổng số này[36]. Tuy nhiên, một phần rất lớn linh kiện được sử dụng trong sản xuất điện thoại thông minh được nhập khẩu từ Trung Quốc, do thiếu các nhà cung cấp địa phương đủ năng lực - tỷ lệ này lên tới 95% đối với một số iPhone.

Chẳng hạn, 70% linh kiện điện tử mà Ấn Độ nhập khẩu đến từ Trung Quốc[37]. Kết quả là, với 32,15 tỷ đô la, nhập khẩu các sản phẩm điện tử và thiết bị điện là mặt hàng mua sắm lớn nhất của New Delhi đến từ Bắc Kinh vào năm 2023[38]. Riêng năm 2021, máy tính xách tay nhập khẩu từ Trung Quốc đã chiếm 4,35 tỷ đô la[39]. Vào tháng 8 năm 2023, khi chính phủ Ấn Độ cố gắng “áp đặt các biện pháp kiểm soát giấy phép nhập khẩu máy tính xách tay và thiết bị máy tính cá nhân với hy vọng ngăn chặn dòng chảy công nghệ Trung Quốc”, các tập đoàn công nghiệp Ấn Độ đã buộc chính phủ Ấn Độ phải từ bỏ chính sách này[40].

Một lập luận tương tự cũng được áp dụng cho ngành dược phẩm.

Nhờ doanh số bán loại thuốc gốc - tổng cộng 60.000 loại trong lĩnh vực hướng ngoại này - Ấn Độ đã trở thành “nhà thuốc của thế giới”: trong số 42 tỷ doanh thu, 25 tỷ đến từ xuất khẩu. Ví dụ, ngày nay, 40% thuốc gốc được bán tại Hoa Kỳ được nhập khẩu từ Ấn Độ[41] - đó cũng là lý do tại sao ngành này rất lo ngại về thuế hải quan. Thật vậy, hai phần ba thành phần hoạt chất mà ngành dược phẩm Ấn Độ sử dụng đến từ Trung Quốc vào năm 2019, với tổng giá trị là 2,4 tỷ đô la - trong khi đó, những thành phần từ nơi khác có giá thành lên tới 1,6 tỷ đô la[42]. Năm 2023, một nghiên cứu rất chuyên sâu do Bloomberg công bố cho thấy Aurobindo Pharma, nhà xuất khẩu thuốc générique hàng đầu của Ấn Độ theo khối lượng sang Hoa Kỳ, đã mua 55% thành phần hoạt chất và các thành phần khác được sử dụng trong thuốc của mình từ Trung Quốc - một quốc gia mà Washington hy vọng sẽ thoát khỏi bằng cách nhập khẩu nhiều hơn từ Ấn Độ[43].

Và Trung Quốc dường như quyết tâm tận dụng lợi thế này.

Mùa xuân năm ngoái, khi Ấn Độ đã thể hiện những dấu hiệu cởi mở và thiện chí với Bắc Kinh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã lợi dụng cách Hoa Kỳ đặt Ấn Độ vào thế phòng thủ để lên giọng bằng cách gây khó khăn hơn cho các nhà sản xuất Ấn Độ trong việc tiếp cận một số sản phẩm mà họ nhập khẩu từ Trung Quốc. Do đó, các nhà sản xuất ô tô phải chịu những thủ tục hành chính rườm rà để mua đất hiếm cần thiết cho xe điện[44]. Tương tự, Trung Quốc đã đình chỉ việc bán phân bón chuyên dụng, mà đặc biệt các nhà sản xuất rau quả Ấn Độ phụ thuộc đến 80 %, bằng cách áp dụng các quy trình mới, rất thiếu minh bạch[45].

Tập ​​Cận Bình và Narendra Modi tại Lễ sám hối Arjuna ở Mamallapuram, Ấn Độ, ngày 11 tháng 10 năm 2019. © Văn phòng Thủ tướng Ấn Độ qua AP

Modi và Tập Cận Bình khi Chủ tịch Trung Quốc đến một khách sạn ở Ahmadabad, Ấn Độ, thứ Tư, ngày 17 tháng 9 năm 2014. © Ảnh AP/Ajit Solanki

Từ Đài Loan đến Afghanistan, sự xích lại gần nhau bị những sự từ bỏ của Ấn Độ phủ bóng

Chính trong bối cảnh này, chuyến thăm Bắc Kinh của Jaishankar vào ngày 14 tháng 7 và chuyến thăm New Delhi của Vương Nghị vào ngày 18 tháng 8 đã diễn ra, đánh dấu sự tăng cường các vụ giao dịch giữa hai nước. Vào tháng 8, thậm chí còn hơn cả tháng 7, mối quan hệ này được đánh dấu bởi quá trình bình thường hóa, với việc hai nước đồng ý “tạo điều kiện thuận lợi cho dòng chảy thương mại và đầu tư thông qua các biện pháp cụ thể”[46]. Bên cạnh những tiến bộ mang tính biểu tượng - chẳng hạn như việc mở cửa trở lại Núi Kailash và Hồ Manasarovar cho khách hành hương Hindou - các bước đi khác, thực chất hơn đã được thực hiện, chẳng hạn như cam kết của cả hai bên trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp thị thực và sự tái lập các chuyến bay thẳng giữa hai nước.

Bên cạnh những điểm này trong thông cáo cuối cùng, các phương tiện truyền thông Trung Quốc suy luận từ những trao đổi giữa hai bên rằng, đối với Ấn Độ, Đài Loan giờ đây là một phần của Trung Quốc[47] - một điều mà chính quyền Ấn Độ không phủ nhận. Về mặt ngoại giao, đến từ một quốc gia đã cố gắng tránh sử dụng cụm từ “Một Trung Quốc” trong gần hai thập kỷ, sự im lặng này có thể được coi là dấu hiệu của sự yếu kém.

Sau chuyến thăm của Vương Nghị, khả năng của nông dân Ấn Độ để tiếp cận phân bón Trung Quốc mà họ rất cần đã được khôi phục[48], và các vụ giao đất hiếm của Trung Quốc cho Ấn Độ đã được nối lại[49].

Hơn nữa, ngoại giao Ấn Độ không hề quan ngại về việc Vương Nghị, sau chuyến thăm New Delhi, đã đến Kaboul và Islamabad - mặc dù viễn cảnh về một “chuyến đi tập hợp” như vậy đã vấp phải sự phản đối kịch liệt từ Ấn Độ khi được Tổng thống Indonesia cân nhắc vào tháng 1 năm 2025. Sau đó, Tổng thống Indonesia đã từ bỏ ý tưởng này. Chuyến thăm Pakistan của Vương Nghị không chỉ kéo dài ba ngày mà còn tạo cơ hội tổ chức một cuộc họp quan trọng, “Đối thoại Chiến lược Ngoại trưởng Pakistan-Trung Quốc lần thứ sáu”. Về chuyến thăm Afghanistan, nó đã cho phép Vương Nghị, Bộ trưởng Ngoại giao Pakistan Ishaq Dar và người đồng cấp Afghanistan đồng chủ trì Đối thoại Bộ trưởng Ngoại giao Ba bên lần thứ sáu, kết thúc bằng tuyên bố ủng hộ việc mở rộng Hành lang Kinh tế Trung Quốc - Pakistan (CPEC) sang Afghanistan[50].

Như vậy, Ấn Độ thụ động theo dõi Trung Quốc khẳng định vị thế của mình tại một quốc gia mới trong khu vực lân cận, trong khi bản thân họ từ lâu đã tìm cách thiết lập quan hệ với Afghanistan sau sự trở lại của Taliban.

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã lợi dụng cách Hoa Kỳ đặt Ấn Độ vào thế phòng thủ để gây khó khăn cho các nhà sản xuất Ấn Độ tiếp cận một số sản phẩm mà họ nhập khẩu từ Trung Quốc.

CHRISTOPHE JAFFRELOT

Sự từ bỏ hơn là sự bình thường hóa?

Sự xích lại gần nhau mà chúng ta đang chứng kiến ​​giữa Ấn Độ và Trung Quốc giờ đây trở nên khả thi nhờ sự cam chịu của Ấn Độ khi chứng kiến ​​Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ của mình ở dãy Himalaya và cung cấp hỗ trợ quân sự cho kẻ thù số một của mình là Pakistan.

Do New Delhi đã hợp tác với Bắc Kinh trong nhiều năm qua trong khối BRICS, nên đây có thể được coi chỉ là một sự thay đổi khiêm tốn trong nội bộ liên minh này nhằm thách thức sự thống trị của Phương Tây trên trường quốc tế.

Vào thời điểm các nước BRICS – mà Ấn Độ, Trung Quốc và Nga tự cho là lãnh đạo - đang huy động lực lượng chống lại cuộc chiến thương mại của Trump, việc nhận thấy rằng đây là sự tiếp nối thực sự giữa truyền thống chống Phương Tây này và sự hội tụ Trung-Ấn hiện tại, là điều dễ hiểu.

Điều này phần nào đúng. Nhưng sự rạn nứt bắt đầu vào mùa hè này lại ở một mức độ khác: chưa bao giờ Ấn Độ lại dễ dàng nhượng bộ trước sự thống trị của Trung Quốc đến vậy.

Thật vậy, sự nhượng bộ này có nguy cơ trở thành một đặc điểm cấu trúc của bối cảnh quốc tế, bởi nó được giải thích bởi cả ưu thế quân sự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lẫn sự phụ thuộc của Ấn Độ vào Trung Quốc, một dữ kiện chứa đựng nhiều hậu quả địa chính trị, như Harsh Pant và Kalpit Mankikar đã chỉ ra trên tạp chí Foreign Affairs:

“Việc tạo điều kiện cho Trung Quốc hoạt động trong lĩnh vực kinh tế sẽ gây ra nhiều hậu quả cho Ấn Độ. Một mặt, nó làm hoen ố hình ảnh một cường quốc đang trỗi dậy có khả năng chống lại sự cưỡng bức của Trung Quốc; mặt khác, nó làm suy yếu ý tưởng rằng Ấn Độ có thể đóng vai trò là thành lũy chống lại chủ nghĩa bành trướng của Bắc Kinh. Cuối cùng, sự chuyển đổi như vậy sẽ đe dọa các sáng kiến ​​bao gồm Ấn Độ trong nỗ lực tái thiết chuỗi cung ứng nằm ngoài Trung Quốc. Hơn nữa, chính sách kinh tế hòa hoãn của Ấn Độ đối với Trung Quốc có thể khuyến khích các nước nhỏ hơn trong khu vực, chẳng hạn như Bhutan, vốn đóng vai trò là vùng đệm chiến lược giữa hai cường quốc, tìm kiếm sự hòa giải với Trung Quốc - và điều này chắc chắn sẽ gây bất lợi cho New Delhi”[51].

Một chỉ báo về khả năng kháng cự của Ấn Độ trước Trung Quốc – cần được xem xét kỹ lưỡng trong tương lai - sẽ là sự phản đối kịch liệt của các nước trên về sự hiện diện của Trung Quốc trong khu vực lân cận.

Ngoài Bhoutan và Afghanistan, Bangladesh - mà Ấn Độ đã xa lánh vì ủng hộ Sheikh Hasina - Népal và Sri Lanka có khả năng bị cuốn vào quỹ đạo của Trung Quốc.

Nếu New Delhi không phản ứng với quỹ đạo này, rất có thể họ cũng sẽ trải qua diễn biến tương tự.

Trong bối cảnh này, Châu Âu và Hoa Kỳ, vốn thường coi, trong chính sách Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của họ, Ấn Độ là đối trọng với Trung Quốc có thể giúp Ấn Độ duy trì quyền tự chủ chiến lược để bảo vệ tốt hơn các lợi ích của họ.

Liên Minh Châu Âu vẫn có thể đi theo hướng này bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho việc ký kết một hiệp định thương mại tự do quan trọng với Ấn Độ.

Chính quyền Hoa Kỳ vẫn có thể thay đổi hướng đi. Nếu không, Ấn Độ có nguy cơ không thể thoát khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc.

Phạm Như Hồ dịch

Nguồn:Trump a-t-il jeté Modi dans les bras de Xi Jinping? Comprendre le rapprochement sino-indien”, Le Grand Continent, 29.8.2025.




Chú thích:

[*] Christian Jaffrelot là một chuyên gia Pháp về tiểu lục địa Ấn Độ. Ông là giám đốc nghiên cứu tại Viện CERI/Sciences PO/CNRS và là thành viên, cố vấn khoa học của nhiều viện và trung tâm nghiên cứu và tạp chí chuyên môn khắp thế giới và đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế.

[2] Dinakar Peri et Vijaita Singh, “India, China to undertake ‘coordinated patrolling’”, The Hindu, 25 octobre 2024.

[5] Nachiket Deuskar, “Why the India-China agreement does not mean a return to status quo”, Scroll.in, 25 octobre 2025.

[7] Sudhi Ranjan Sen et Dan Strumpf, “China gave Pakistan satellite help, India defense group says”, Bloomberg, 18 mai 2025.

[9] Samaan Lateef, “India confirms Chinese missiles used by Pakistan in strikes”, The Telegraph, 13 mai 2025; et Samaan Lateef, “China moved satellites to help Pakistan shoot down Indian jets”, The Telegraph, 19 mai 2025.

[10] Christopher Clary, “Four Days in May: The India-Pakistan Crisis of 2025”, Stimson, 28 mai 2025.

[12] Kamran Yousaf, “Dar rushes to China after India conflict”, The Express Tribune, 19 mai 2025.

[15] Nandini Singh, “Explained: What is S-400 system, how many India has, and what it can do”, Business Standard, 8 mai 2025.

[16] S-400: India’s Shield of the Skies or a Vulnerable Fortress?”, Financial Express, 3 novembre 2023.

[17] Rafiq Maqbool et Ashok Sharma, “India’s navy launches submarine, warships to guard against China’s presence in Indian Ocean”, Associated Press, 15 janvier 2025.

[18] The Military Balance 2024, IISS, février 2024, p. 261.

[19] Amrita Jash, “The Indian Army’s Encounters with the People’s Liberation Army”, The National Bureau of Asian Research, Special Report # 108, 7 mai 2024, pp. 91-107.

[20] Christophe Jaffrelot, “Inde-Chine: du conflit à la transaction”, Comprendre son temps #3, Sciences Po, 2024.

[22] Ibid., p. 144.

[26] Christophe Jaffrelot, “India: the challenge of “Make in India”, Institut Montaigne, février 2025.

[27] Aparajit Chakraborty et Xu Weiwei, “Chinese FDI seen positive for Indian economy”, China Daily, 31 juillet 2024. Nous soulignons.

[28] Biswajit Dhar, “Is India ready to welcome Chinese capital again?”, The New Indian Express, 8 août 2024.

[30] Mukesh Jagota, “Process of Chinese FDI streamlined”, Financial Express, 2 juin 2025.

[31] Commerce bilatéral Inde – Chine”, OEC – Observatory of Economic Complexity.

[34] Ibid.

[35] Viola Zhou et Nilesh Christopher, “Inside Foxconn’s struggle to make iPhones in India”, Rest of the world, 28 novembre 2023.

[37] Top 15 products imported from China to India”, Eximpedia, 10 janvier 2024.

[38] Ibid.

[40] Harsh V. Pant and Kalpit A. Mankikar, “The Fatal Flaw in India’s China Strategy. Economic Dependence Will Make New Delhi Forever Vulnerable to Beijing”, Foreign Affairs, 14 novembre 2024.

[41] Pour plus de détails, voir “Indian Pharma: A Global Leader Under Pressure”, Institut Montaigne, 6 novembre 2020.

[42] Sudip Chaudhuri, “India’s Import Dependence on China in Pharmaceuticals: Status, Issues and Policy Options”, Discussion paper #268, Research and Information System for Developing Countries, juillet 2021.

[46] Ministry of Forein Affairs of the People’s Republic of China, “List of Outcomes of the Meeting between the Foreign Ministers of China and India”, 19 août 2025.

[47] Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China, “Wang Yi Holds Talks with Indian External Affairs Minister Subrahmanyam Jaishankar”, 19 août 2025.

[49] Swathi Gandhi, “India gets relief as China moves to lift curbs on rare earths, fertilisers”, Business Standard, 19 août 2025.

[50] Chinese FM arrives in Islamabad on three-day visit”, The Express Tribune, 20 août 2025.

[51] Harsh V. Pant and Kalpit A. Mankikar, “The Fatal Flaw in India’s China Strategy. Economic Dependence Will Make New Delhi Forever Vulnerable to Beijing”, Foreign Affairs, 14 novembre 2024.

Print Friendly and PDF