27.2.25

Xã hội học – Sự khách thể hóa – Tính phản tư

SOCIOLOGIE [Xã hội học]

Pierre Bourdieu (1930-2002)

Được đào tạo về triết học, đã từng nghiên cứu về dân tộc học kể từ những công trình của ông về vùng Kabylie, Pierre Bourdieu đã tự nhận mình là một nhà xã hội học từ cuốn sách đầu tiên của ông, Sociologie de l’Algérie (1958). Tuy nhiên, ông có một tầm nhìn khá phê phán về ngành này, từ những nghiên cứu thực nghiệm đã phát triển ở Pháp kể từ năm 1945 mà đối với ông dường như “mù quáng” về mặt lý thuyết, đến lý thuyết xã hội học “trống rỗng” vĩ đại, được thể hiện bởi Georges Gurvitch. [Esquisse pour une auto-analyse: 46-47]. Thay vì tự đặt mình vào cái trật tự của ngành như nó thể hiện trước mắt mình, Bourdieu xây dựng quan điểm của riêng mình thông qua vô số cuộc khảo sát mà ông (đồng) lãnh đạo tại Trung tâm Xã hội học Châu Âu. Những nghiên cứu này, thường mang tính tập thể, cho phép chúng ta đặt những câu hỏi chính xác về các đối tượng rất đa dạng cũng như về công việc khái niệm hóa và về xã hội học với tư cách là một khoa học.

Từ chối những câu hỏi trừu tượng về tính khoa học, về “logic” hay “phương pháp” của khoa học đã thành hình, Bourdieu – cộng tác với Jean-Claude Passeron và Jean-Claude Chamboredon – đặt ra những câu hỏi về khoa học đang được xây dựng, tức là về thực tiễn điều tra và nghề nghiên cứu. Mở rộng những suy ngẫm của Gaston Bachelard và Georges Canguilhem về khoa học, và của các tác giả như Émile Durkheim, Max Weber hay Claude Lévi-Strauss về các khoa học nhân văn, tác phẩm Le Métier de sociologue (1968) biện hộ cho “sự cảnh giác về mặt nhận thức luận”. Sự cảnh giác về mặt nhận thức luận đòi hỏi sự đoạn tuyệt với những điều hiển nhiên và “những tiền ý niệm” (Durkheim) vốn cấu thành những trở ngại cho kiến ​​thức. Để đoạn tuyệt với lý lẽ thông thường và những ý tưởng bán học thuật, chỉ áp dụng một phương pháp đặc thù hoặc bất kỳ lý thuyết xã hội học nào là chưa đủ. Chúng ta phải có thao tác phê phán xác định nghiên cứu khoa học là: “xây dựng đối tượng”. Các công cụ khác nhau mà các nhà xã hội học có sẵn, vốn tập thể của họ về các khái niệm, kỹ thuật, phương pháp, giúp họ có thể xây dựng các tập hợp có cấu trúc của các sự kiện xã hội như là đối tượng khoa học, tuân thủ sự liên kết chặt chẽ giữa tính mạch lạc về mặt lý thuyết và tính trung thực với thực tại [MS: 94]. 

Print Friendly and PDF

25.2.25

Tất cả nỗ lực của Thời kỳ Khai Minh chính là suy nghĩ về những mâu thuẫn và tính hai mặt của tính hiện đại

Phỏng vấn Antoine Lilti

TẤT CẢ NỖ LỰC CỦA THỜI KỲ KHAI MINH CHÍNH LÀ SUY NGHĨ VỀ NHỮNG MÂU THUẪN VÀ TÍNH HAI MẶT CỦA TÍNH HIỆN ĐẠI

Antoine Lilti là nhà sử học, chuyên gia về Thời kỳ Khai Minh, ông mời gọi chúng ta nên có cái nhìn khác về giai đoạn lịch sử này, một giai đoạn mà tư tưởng của nó vẫn còn ảnh hưởng đến chúng ta, bao gồm những lĩnh vực chính trị, kinh tế hoặc kể cả trong quan niệm của chúng ta về sinh thái môi trường Ông đã trở thành chủ nhiệm chuyên ngành Lịch sử thời kỳ Khai Minh, thế kỷ XVIII-XXI (chaire Histoire des Lumières, XVIIIe-XXIe siècle) tại Collège de France năm 2022.

Ông giải thích rằng chúng ta đang chứng kiến một “sự đổi mới” của tinh thần Khai Minh. Hiện tượng này được thể hiện như thế nào?

Antoine Lilti: Thời kỳ Khai Minh đang đón nhận sự quan tâm trở lại từ khoảng 20 năm nay. Khai Minh đã không bị lãng quên, nhưng đã ít nhiều bị lơ là, có lẽ vì kỷ nguyên này có vẻ được sự đồng tình quá cao. Đã có một sự đồng thuận tương đối về những điều đã đạt được của thời kỳ Khai Minh, như tự do ngôn luận, tiến bộ khoa học, sự thế tục hoá, hoặc là tinh thần khoan dung. Tất cả những điểm này đã không được bàn luận thực sự.

Thế nhưng có hai hiện tượng đã diễn ra. Một mặt, thời kỳ Khai Minh lại một lần nữa bị phê phán và phản đối, không chỉ bởi những trào lưu bảo thủ, như một số chủ nghĩa dân tuý dân tộc, mà cả bởi tư tưởng hậu thuộc địa đang chỉ ra những hạn chế của thời kỳ Khai Minh và cáo buộc thời kỳ này đã thoả hiệp với chủ nghĩa thực dân châu Âu. Mặt khác, thời đại của chúng ta với nhiều bất định, đang khơi lại những tranh luận có tính triết học về thời kỳ Khai Minh qua những tranh cãi về chủ nghĩa thế tục, khủng hoảng sinh thái hoặc cả các mạng xã hội và thuyết âm mưu.

Print Friendly and PDF

23.2.25

AI ‘đồng cảm’ liên quan nhiều hơn đến hội chứng rối loạn nhân cách hơn là trí tuệ cảm xúc – nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể đối xử tàn nhẫn với máy móc

AI ‘ĐỒNG CẢM’ LIÊN QUAN NHIỀU HƠN ĐẾN HỘI CHỨNG RỐI LOẠN NHÂN CÁCH HƠN LÀ TRÍ TUỆ CẢM XÚC – NHƯNG ĐIỀU ĐÓ KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ CHÚNG TA CÓ THỂ ĐỐI XỬ TÀN NHẪN VỚI MÁY MÓC

Trong khi các AI trị liệu và AI săn sóc đang nhanh chóng giành được nhiều sự ủng hộ, thì chúng ta sẽ phạm sai lầm nếu coi hành vi của chúng mang tính đồng cảm. Nguồn ảnh: Miriam Doerr Martin Frommherz/Shutterstock

AI từ lâu đã vượt qua con người trong các vấn đề về nhận thức vốn từng được coi là phương pháp học tối cao của trí tuệ con người như cờ vua hay cờ vây. Một số người thậm chí còn tin rằng AI vượt trội hơn khi nói đến các kỹ năng cảm xúc của con người như sự đồng cảm chẳng hạn. Điều này dường như không chỉ là một vài công ty nói quá vì lý do tiếp thị; các nghiên cứu thực nghiệm gợi ý rằng con người nhìn nhận ChatGPT đồng cảm hơn cả các nhân viên y tế trong một số tình huống sức khỏe. Điều này có nghĩa rằng liệu AI có thực sự đồng cảm với con người hay không?

Một định nghĩa về đồng cảm

Là một nhà triết học có am tường về tâm lý học, tôi định nghĩa sự đồng cảm thực sự theo 3 tiêu chuẩn như sau:

  • Tính tương thích của các cảm giác: sự đồng cảm đòi hỏi người đồng cảm được [với một ai đó] phải cảm được những cảm xúc của người khác trong một tình huống cụ thể. Điều này phân biệt đâu là sự đồng cảm, còn đâu là sự hiểu về các cảm xúc bằng lý tính thuần túy.
  • Tính bất đối xứng: những người cảm thấy đồng cảm [với một ai đó khác] sẽ chỉ nảy sinh cảm xúc bởi vì một cá nhân khác cũng có cảm xúc ấy, và cảm xúc ấy lại tương thích hơn với hoàn cảnh của người kia hơn là với hoàn cảnh của riêng họ. Chính lý do này mà sự đồng cảm mới không chỉ là một cảm xúc được chia sẻ như niềm vui chung của cha mẹ về sự tiến bộ của con cái, khi mà điều kiện về tính bất đối xứng không được đáp ứng, chẳng hạn.
  • Sự nhận thức về người khác: Phải có ít nhất một nhận thức sơ bộ rằng sự đồng cảm là sự cảm về những cảm giác của một cá nhân khác. Điều này lý giải cho sự khác biệt giữa sự đồng cảm và sự lan tỏa cảm xúc xảy ra nếu một người nảy sinh một cảm giác hay cảm xúc như nảy sinh một cảm giác lạnh trong cơ thể chẳng hạn. Điều này xảy ra, ví dụ, trong trường hợp những đứa trẻ bắt đầu khóc khi chúng nhìn thấy một đứa trẻ khác đang khóc.
Print Friendly and PDF

21.2.25

Giải thể USAID: món quà bằng vàng của Donald Trump cho Tập Cận Bình

GIẢI THỂ USAID: MÓN QUÀ BẰNG VÀNG CỦA DONALD TRUMP CHO TẬP CẬN BÌNH

Pierre-Antoine Donnet

Nguồn: Politico. Chú thích: Người biểu tình bên ngoài trụ sở USAID tại Washington. DR

Bằng cách xóa bỏ toàn bộ chương trình viện trợ phát triển USAID của Hoa Kỳ chỉ bằng một chữ ký, tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ Donald Trump đang tự bắn vào chân mình khi tặng một món quà vàng cho người đồng cấp Trung Quốc Tập Cận Bình, mở đường cho ông này tái khởi động với chi phí thấp một chiến dịch lớn nhằm quyến rũ các nước nghèo đang gặp khó khăn.

----------------------------------------

USAID, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, được thành lập năm 1961, là cơ quan của chính phủ Hoa Kỳ chịu trách nhiệm hỗ trợ các nước nghèo và cung cấp viện trợ nhân đạo trên toàn thế giới. Nguồn tài trợ của USAID chiếm hai phần ba viện trợ phát triển công của Hoa Kỳ, vào khoảng 43 tỷ đô la vào năm 2024 được chi trả để hỗ trợ người dân của 120 quốc gia và khu vực như Ukraine, Gaza, Sudan, Afghanistan, Bangladesh và Pakistan. USAID tập trung hoạt động của mình vào viện trợ nhân đạo và chiếm 42% nguồn tài trợ công toàn cầu trong lĩnh vực này.

Việc đóng cửa hàng ngàn chương trình viện trợ trên khắp hành tinh không chỉ gây nguy hiểm đến tính mạng con người mà chắc chắn sẽ giáng một đòn khủng khiếp vào hình ảnh của Hoa Kỳ và quyền lực mềm của nước này, vốn đã bị tổn hại nghiêm trọng bởi những sự ngông cuồng của Donald Trump kể từ khi ông trở lại Nhà Trắng vào ngày 20 tháng 1.

Print Friendly and PDF

19.2.25

WEBER Karl Emil Maximilian, hay Max (1864-1920)

WEBER Karl Emil Maximilian, hay Max (1864-1920)

Các tác giả: Michael SUKALE, Dirk KASLERRaymond BOUDON

Max Weber (1864-1920)

Sinh ở Erfurt, bang Thuringe là con của một người cha là thẩm phán đeo đuổi sự nghiệp dân biểu trong đảng tự do-quốc gia và người mẹ có niềm tin tôn giáo mạnh mẽ, Weber (Alfred, em trai ông, là nhà xã hội học) học luật và kinh tế tại Heidelberg và Berlin. Sau khi tốt nghiệp cử nhân (1886) và tiến sĩ (1888) luật, năm 1892 tại Berlin ông được quyền giảng dạy trong đại học với một luận án lịch sử nông nghiệp thời La mã. Giáo sư kinh tế chính trị và tài chính ở Fribourg (1894) rồi Heidelberg (1896), vì bị suy nhược thần kinh ông buộc phải giảm và cuối cùng ngưng giảng dạy năm 1903. Ông chỉ dạy lại năm 1918, trước tiên ở Wien rồi ở Munich. Nơi ông kế nhiệm L. Brentano với chức danh “Khoa học về xã hội, lịch sử kinh tế và kinh tế chính trị học”.

Thành viên của hiệp hội Verein für Socialpolitik, ông tiến hành nhiều cuộc khảo sát quan trọng cho hiệp hội này (đặc biệt về các điều kiện của công nhân nông nghiệp Đức). Năm 1904, cùng với E. Jaffé và W. Sombart, ông thành lập tạp chí Archiv für Socialwissenschaffen und Socialpolitik, và năm 1909 cùng với F. Tőnnies, G. Simmel và nhiều khác, thành lập Hội xã hội Đức mà vì thất vọng ông rời bỏ năm 1912. Thành viên của “phái đoàn hòa bình” ở Versailles, trước đó là gia nhập đảng dân chủ-xã hội Đức, cuối cùng liên quan bên lề đến việc thiết kế hiến pháp của Cộng hòa Weimar, ông qua đời sớm vì viêm phổi. Tác giả của một sự nghiệp khổng lồ mà nhiều bộ môn tranh nhau di sản, Weber đã đóng góp cho xã hội học tiến triển, đặc biệt nhờ các nghiên cứu của ông về tôn giáo và chính trị, sự kiến giải lịch sử phổ quát và phương pháp nghiên cứu. 

Print Friendly and PDF

17.2.25

Brics: sự phát triển của khối do Trung quốc lãnh đạo đặt ra câu hỏi về trật tự thế giới đang thay đổi nhanh chóng

BRICS: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHỐI DO TRUNG QUỐC LÃNH ĐẠO ĐẶT RA CÂU HỎI VỀ TRẬT TỰ THẾ GIỚI ĐANG THAY ĐỔI NHANH CHÓNG

Gabriel Huland

Teaching Fellow, School of International Studies, University of Nottingham

Hội nghị thượng đỉnh Brics 2024 tại Kazan, Nga. Vladimir Putin là chủ nhà nhưng Tập Cận Bình là khách danh dự. EPA-EFE/Alexander Nemenov/tổ hợp

Brics đã nổi lên như một thế lực quốc tế quan trọng kể từ năm 2009 khi được thành lập tại một hội nghị thượng đỉnh ở Nga. Nhóm ban đầu bao gồm năm thành viên là Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi, hiện đang mở rộng với sự kết nạp của năm thành viên mới và tám quốc gia đối tác mới. Thậm chí nhiều quốc gia hơn nữa có thể sẽ tham gia trong vài năm tới.

Sự phát triển này đặt ra những câu hỏi thiết yếu về việc liệu Brics có thách thức được sự lãnh đạo của các cường quốc truyền thống như Hoa Kỳ, Anh và Liên Minh Châu Âu hay không.

Nhưng các nhà phân tích cũng đang đặt câu hỏi về mức độ đoàn kết thực sự của khối này và liệu sự thiếu đoàn kết được nhận thức có tạo nên rào cản cho sự mở rộng của khối hay không. Brics chắc chắn là đa dạng. Iran và Ả Rập Xê Út cạnh tranh với tư cách là các cường quốc khu vực ở Trung Đông, Ai Cập và Ethiopia đã có những xung đột khác nhau xung quanh việc quản lý sông Nil, và các cuộc giao tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ thì được biết đến rất nhiều.

Print Friendly and PDF

15.2.25

Đọc “God & the New Physics” của Paul Davies

ĐỌC “GOD & THE NEW PHYSICS” CỦA PAUL DAVIES

Trương Văn Tân

Ở lúc khởi đầu, Thượng Đế sáng tạo ra trời đất.

(Kinh Sáng thế)

Nhưng không ai ở đó chứng kiến sự kiện.

(Steven Weinberg, Nobel Vật lý, 1979)

Mở đầu


Lịch sử khoa học công nhận rằng Galileo Galilei đã khai sáng ra khoa học hiện đại 400 năm trước. Những công trình của Galileo Galilei và sau đó là Isaac Newton và các khoa học gia đương thời ở thế kỷ 17 đã thiết lập nên nền tảng cho phương pháp khoa học để khảo sát có hệ thống về vật chất, lực và chuyển động. Đó là cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất. Cuộc cách mạng khoa học lần thứ hai diễn ra vào đầu thế kỷ 20 từ việc phát hiện ra thuyết lượng tử (cơ học lượng tử) và thuyết tương đối, tạo nên hai cột trụ của “tân vật lý”. Chưa bao giờ trong lịch sử khoa học xuất hiện một loạt thiên tài như ở đầu thế kỷ 20, đó là Max Planck, Erwin Schrödinger, Werner Heisenberg, Niels Bohr, Albert Einstein, Louis de Broglie, những người hình thành nên thuyết lượng tử. Mặt khác, Einstein là người sáng tạo ra thuyết tương đối, một hệ thống khoa học bàn về không gian, thời gian và chuyển động ở vận tốc cao gần vận tốc ánh sáng (300.000 km/s). Einstein đã thống nhất không gian và thời gian thành không thời gian (spacetime) có 4 chiều, 3 chiều cho không gian và 1 chiều cho thời gian. Sự co giãn của thời gian và không gian xuất hiện khi vận tốc tiến gần vận tốc ánh sáng. Trong thuyết tương đối, mọi thực thể đều tương đối, chỉ có vận tốc ánh sáng 300.000 km/s là tuyệt đối. Chúng ta sống trong thế giới của Newton nơi mà vận tốc chuyển động con người có thể đạt tới nhiều lắm là 8 km/s của con tàu vũ trụ, nhưng vẫn quá chậm để nhận thấy sư co giãn của thời gian. Thuyết tương đối cho thấy rằng khi ta di chuyển gần đến vận tốc ánh sáng thì thời gian chậm lại. Một ví dụ thường được nhắc đến để hình dung thời gian co giãn là chuyện hai anh em sinh đôi, người anh ở lại quả đất còn người em du hành không gian bằng chiếc tàu vũ trụ được phóng đi ở vận tốc gần vận tốc ánh sáng. Nhiều năm sau, người em trở lại quả đất, người anh đã già lụm khụm nhưng người em vẫn ở tuổi thanh xuân. Câu chuyện nghe như huyền thoại Lưu Nguyễn lạc thiên thai hay Urashima Taro được rùa chở xuống Long Cung. Các ông chìm đắm vui chơi với các nàng tiên nữ, long nữ đến khi trở lại trần thế thì trăm năm đã lặng lẽ trôi qua.

Paul Davies là giáo sư vật lý lý thuyết giảng dạy tại nhiều trường đại học ở Mỹ, Anh và Úc. Ông là một giáo sư đa tài và uyên bác. Chỉ trong khoảng thời gian 45 năm (1974 – 2021) ông đã viết 30 quyển sách vật lý đại chúng, phần lớn về vật lý vũ trụ và nguồn gốc của sự sống. Trung bình mỗi 18 tháng, ông cho ra đời một quyển sách. Ở tuổi 37 tác giả Davies viết quyển “God and the new physics” (Thượng Đế và tân vật lý)[1]. Tác giả xác nhận quyển sách không phải là sách tôn giáo cũng không phải sách khoa học mà là sách nói về khoa học ở một ý nghĩa rộng hơn. Tác giả không đề cập những khái niệm về Phật giáo hay tư tưởng triết học phương Đông. Nói cách khác, tác giả muốn nối kết khoa học và tôn giáo mà tôn giáo ở đây là Ki-tô giáo. Ông tuyên bố cố gắng loại trừ những ý kiến cá nhân của mình nhưng dù không nói thẳng, một tiền đề quan trọng trong quyển sách mà tác giả muốn người đọc ngầm hiểu là tác giả mặc nhận sự hiện hữu của Thượng Đế (God).

Quyển sách này là một tổng hợp về thiên văn học, vật lý cổ điển, vật lý lượng tử, thuyết tương đối, tâm lý học và thần học... mô tả sự hiện hữu của vũ trụ, việc xuất hiện sự sống trên quả đất, về không gian, thời gian; những thực thể mà theo tín điều tôn giáo là do Thượng Đế đã sáng tạo.

Print Friendly and PDF

13.2.25

Trung Quốc/Hoa Kỳ: chu kì mới của chiến tranh thương mại sẽ đưa chúng ta về đâu?

TRUNG QUỐC/HOA KỲ: CHU KÌ MỚI CỦA CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI SẼ ĐƯA CHÚNG TA VỀ ĐÂU?

Tác giả: Hubert Testard

Cuộc chiến giữa sư tử và rồng, bức tranh Iran thế kỷ 18 của Muhammad Baqir, Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York. DR

Trung Quốc và Hoa Kỳ giống như hai võ sĩ trên võ đài đã bước vào hiệp thứ 12 của trận đấu về lệnh trừng phạt thương mại, do Donald Trump bắt đầu từ năm 2018 và được Joe Biden tiếp tục tại Nhà Trắng đối với các công nghệ cao. Họ hiểu rõ nhau và đã chuẩn bị sẵn chiến thuật đáp trả. Mức thuế hải quan 10% do Trump áp dụng từ ngày 4 tháng 2 và các biện pháp đáp trả của Trung Quốc vào ngày 10 tháng 2 chỉ là đòn đầu tiên nhằm thiết lập sự cân bằng quyền lực. Chúng ta có thể chờ đợi là sẽ có những thỏa thuận tạm thời và những diễn biến mới có thể sẽ không giải quyết được bất kỳ vấn đề nào đối với sự thâm hụt thương mại của Mỹ.

--------------------------------------------------------

Kể từ ngày 4 tháng 2, Trung Quốc là quốc gia duy nhất bị tác động bởi lệnh trừng phạt thương mại do tổng thống Mỹ công bố kể từ khi ông tái đắc cử. Mehico và Canada đã đạt được sự gia hạn 30 ngày có thể dẫn đến các thỏa thuận lâu dài nếu những nhượng bộ được đưa ra cho phép Washington biến chúng thành một chiến thắng trên mặt trận truyền thông. Châu Âu đang bị đe dọa trừng phạt thương mại nhưng chưa biết đối với lãnh vực nào.

Trong trường hợp của Trung Quốc, cuộc đàm phán có vẻ phức tạp hơn. Bởi vì nó có những vấn đề địa chính trị ẩn sau, chẳng hạn như vai trò mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có thể hoặc không thể đóng trong việc tìm kiếm giải pháp cho cuộc chiến do Nga tiến hành ở Ukraine, trong các vấn đề kinh tế liên quan đến tương lai của ứng dụng TikTok của Trung Quốc gây tranh cãi tại Hoa Kỳ, hoặc trong các vấn đề công nghệ liên quan đến sự kiểm soát của “Đế chế Trung Hoa” đối với các đất hiếm và các kim loại quan trọng.

Print Friendly and PDF

11.2.25

Theo dõi não có thể là viễn cảnh tương lai của công việc – cách sử dụng nó có thể cải thiện hiệu suất của nhân viên hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng phân biệt đối xử

THEO DÕI NÃO CÓ THỂ LÀ VIỄN CẢNH TƯƠNG LAI CỦA CÔNG VIỆC – CÁCH SỬ DỤNG NÓ CÓ THỂ CẢI THIỆN HIỆU SUẤT CỦA NHÂN VIÊN HOẶC LÀM TRẦM TRỌNG THÊM TÌNH TRẠNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ

Tác giả: Paul Brandt-Rauf

Công thái học thần kinh đưa khoa học thần kinh vào nơi làm việc. David Crockett/Moment, Getty Images

Bất chấp mọi sự chú ý đổ dồn vào các công nghệ làm giảm vai trò trực tiếp của con người trong công việc – chẳng hạn như những chiếc xe tự lái, các robot công nhân (robot workers), trí tuệ nhân tạo, vân vân – các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực công thái học thần kinh đang sử dụng công nghệ để cải thiện cách con người thực hiện vai trò của mình trong công việc.

Công thái học thần kinh (neuroergonomics) là lĩnh vực nghiên cứu về hành vi của con người trong khi thực hiện các hoạt động trong thế giới thực, bao gồm cả trong môi trường làm việc. Lĩnh vực này liên quan đến việc ghi lại hoạt động não bộ của một người trong các tình huống khác nhau hoặc khi hoàn thành một số nhiệm vụ nhất định để tối ưu hóa hiệu suất nhận thức. Ví dụ, công thái học thần kinh có thể theo dõi nhân viên khi họ học tài liệu mới để xác định khi nào họ đã nắm vững kiến thức. Nó cũng có thể giúp theo dõi tình trạng mệt mỏi ở các nhân viên làm việc ở những vai trò đòi hỏi sự tập trung cao độ và xác định khi nào họ cần được nghỉ ngơi.

Print Friendly and PDF

9.2.25

Thời Đại Khai Sáng – Cách mạng Khoa học trong thế kỷ 17

THỜI ĐẠI KHAI SÁNG-CÁCH MẠNG KHOA HỌC TRONG THẾ KỶ 17

Tác giả: Tôn Thất Thông

Hiệu đính: Hoàng Lan Anh

Phải có một khoa học phổ quát nào đó có khả năng giải thích mọi chuyện vượt lên trên trật tự và tiêu chuẩn, mà không cần phải sử dụng một phương tiện nào khác khi có vấn đề phát sinh. Điều này chúng ta có thể đạt được, không cần phải nhờ cái gì xa lạ mà chỉ cần một từ ngữ cổ xưa: toán học phổ quát[1].
René Descartes (1596-1650)

***

Trong chương trước đây, chúng ta đã đứng trên nhãn quan lịch sử khoa học để khảo sát giai đoạn phát triển khoa học thứ nhất, từ năm 1450 đến 1540, và đã thấy rằng, ranh giới giữa khoa học phục hưng và khoa học hiện đại nằm đâu đó ở giữa thế kỷ 16, tức là lúc Nicolaus Copernicus công bố vũ trụ quan nhật tâm. Kể từ đó, ngành thiên văn học và vật lý học đã thay đổi căn cơ chỉ trong vòng nửa thế kỷ, làm bàn đạp cho các ngành khoa học khác sau đó được phát triển mạnh mẽ hơn. Vì thế, trước khi khảo sát cách mạng khoa học trong thế kỷ 17, thiết tưởng cũng nên khảo sát xem, khoa học đã phát triển thế nào trong bước chuyển tiếp ở hậu bán thế kỷ 16, và những bước phát triển ấy tác động thế nào đến nền khoa học thế kỷ 17.

Một đặc trưng của thế kỷ 16 là, đời sống xã hội bị ảnh hưởng sâu sắc bởi cuộc cách mạng tôn giáo được khởi đầu ở thập niên 1520, dẫn đến sự phân liệt không thể cứu vãn của cộng đồng Kitô. Biến cố đó đã dẫn đến những cuộc chiến tranh tất yếu sẽ xảy ra, bắt đầu ở hậu bán thế kỷ 16, giữa các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, nơi mà vua hoặc lãnh chúa thuộc hai xu hướng tôn giáo đối nghịch nhau, tức Thiên Chúa hay Tin Lành. Ngoài sự tàn phá cấu trúc xã hội, những cuộc chiến tranh tôn giáo vô nghĩa đó đã dẫn đến khủng hoảng lương tâm trong xã hội châu Âu. Nhiều học giả không còn niềm tin vào Giáo hội, Thánh Kinh và những lời giáo huấn của Đức Chúa Trời. Họ âm thầm rút lui về những hoạt động riêng tư trong đời sống thế tục. Cũng từ đó, sự tách rời lý tính ra khỏi niềm tin là bước tiếp theo tất yếu.

Print Friendly and PDF

7.2.25

Kế hoạch Gaza của Donald Trump là một cuộc thanh trừng chủng tộc

KẾ HOẠCH GAZA CỦA DONALD TRUMP LÀ MỘT CUỘC THANH TRỪNG CHỦNG TỘC

Sylvie Kauffman[*]

Bằng cách đề xuất việc Hoa Kỳ tiếp quản lâu dài Dải Gaza sau khi đã trục xuất người Palestine, tổng thống Mỹ đã chấp nhận quan điểm của nhóm cực hữu phân biệt chủng tộc và theo chủ nghĩa về tính ưu việt của Israel và báo hiệu cho một tội ác chiến tranh.

------------------------------------------------------------

Cách đây chưa đầy một tháng, khi tuyên thệ bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ, Donald Trump đã hứa sẽ đánh giá thành công của mình “không chỉ bằng những trận chiến mà Mỹ (sẽ) thắng mà còn bằng những cuộc chiến mà Mỹ (sẽ) kết thúc—và có lẽ quan trọng hơn là bằng những cuộc chiến mà Mỹ (sẽ) không bao giờ tham gia”. Chúng ta nên nghĩ gì về cam kết này sau mong muốn, vào ngày 4 tháng 2, việc Mỹ sẽ tiếp quản lâu dài Dải Gaza sau khi đã trục xuất người Palestine, nhân danh một cuộc tái thiết biến thành một chiến dịch săn mồi bất động sản được thúc đẩy bởi tinh thần tìm kiếm lợi nhuận, mà người Palestine sẽ bị loại trừ?

Chúng ta phải công nhận có một điều bất biến trong chính sách của Donald Trump, đó là sự liên kết mù quáng với quan điểm của Israel. Việc chuyển đại sứ quán Hoa Kỳ từ Tel Aviv đến Jerusalem, được coi một cách đơn phương là thủ đô của nhà nước Do Thái, bao gồm cả phần phía đông bị chiếm đóng bằng vũ lực vào năm 1967, cùng với việc công nhận đơn phương chủ quyền của Israel đối với Cao nguyên Golan của Syria đã minh họa cho điều này trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông (2017-2021).

Print Friendly and PDF

5.2.25

Các hình học của chủ nghĩa đế quốc thế kỉ XXI (2/2)

CÁC HÌNH HỌC CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC VÀO THẾ KỶ XXI (2/2)

Étienne Balibar

Nếu chủ nghĩa đế quốc đương đại đang đẩy chúng ta đến thảm họa, liệu văn hóa có thể chuyển hướng quỹ đạo của nó không? Chẩn đoán này một lần nữa không mấy lạc quan, ba chủ nghĩa chính thống hiện tại (tôn giáo, thương mại, công nghệ) đang vô hiệu hóa diễn ngôn phản kích và những tác động chính trị của nó. Dù sao, đây cũng là một nỗ lực để suy nghĩ về các cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, cuộc cách mạng của thế kỷ 21. Tiếp tục và kết thúc Bài diễn thuyết trong buổi lễ tưởng niệm Edward Said năm 2024.

PTKT: Dưới đây là phần hai bản dịch bài phát biểu của Etienne Balibar tại Lễ Tưởng Niệm Edward Said do Đại Học Mỹ ở Le Caire tổ chức hằng năm. Có thể tham khảo phần đầu bài diễn thuyết này tại đây

-------------------------------------------------------------------

Edward Said (1935-2003)
Étienne Balibar (1942-)

Sau khi đề cập đến vấn đề chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh, rồi đến vấn đề chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản, tôi đi đến điểm thứ ba đã được thông báo: sự giao thoa giữa các vấn đề về văn hóa và chủ nghĩa đế quốc, mà tôi sẽ đề cập bằng cách cố gắng đánh giá tính thích đáng hiện tại của các phân tích của Edward Said.

Không cần phải tóm tắt chi tiết các phân tích này; chúng được biết đến nhiều và là một trong những nguồn tri thức chính của chúng ta. Nhưng tôi muốn chỉ ra lý do tại sao, theo quan điểm của tôi, vấn đề chủ nghĩa đế quốc không thể được đặt ra một cách toàn diện nếu không có loại “phê bình văn hóa” mà Said đã thực hành và truyền cảm hứng.

Print Friendly and PDF

3.2.25

Tân Trúc (Hsinchu) Silicon và Cuộc công nghiệp hóa Đài Loan

TÂN TRÚC SILICON VÀ CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA ĐÀI LOAN
NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ

 Nguyễn Xuân Xanh

(Tháng 3&4, 2020. Toàn bài sẽ được đăng trong một quyển sách chuyên đề về Thung lũng Silicon từ góc nhìn văn hóa, Đài Loan và Hàn Quốc, Nxb Tổng hợp, TP HCM, 2024)

Học để phát triển (kinh tế) đòi hỏi một sự thay đổi từ quan điểm dựa vào các lý thuyết suy diễn thuần túy sang quan điểm dựa vào kinh nghiệm sống quy nạp trong thời hoàn cảnh thực. Nếu các nền kinh tế mới nổi muốn tiếp tục tăng trưởng, nếu các nước kém phát triển muốn tăng cường sản lượng, họ cần một tư duy “nổi loạn”, một tâm hồn “nổi loạn” và một cuộc cách mạng trong lý luận về phát triển kinh tế.

Alice H. Amsden, 2012

Trong đời sống nhân loại, kinh tế đi trước chính trị và văn hóa.

Park Chung Hee

Điều quan trọng nhất trong đời là có một mục đích, và sự kiên quyết để thực hiện nó.

Khẩu hiệu được ghi tại Cục phát triển công nghiệp ở Đài Bắc

Chúng tôi không bao giờ học bất cứ điều gì đến hai lần.

Khẩu hiệu của người Hàn Quốc

***

Dàn bài

1.   Mở đầu

2.   Chiếc bóng bán dẫn làm thay đổi thế giới

PHẦN 1

3.   Công viên khoa học Tân Trúc (HSIP) – Hình thành và tác động của nó

4.   HSIP và Viện nghiên cứu ITRI: Các định chế chiến lược cho hi-tech

5.   Chiến lược thâm nhập vào thế giới công nghệ cao

6.   Nhóm tư vấn độc lập STAG

7.   Chiến lược liên minh và quá trình bắt kịp

8.   Từ bắt chước đến sáng tạo

9.   Nguồn lực chất xám chảy ngược

10.   Tóm tắt

PHẦN 2

11.   Về cuộc cách mạng công nghiệp Đài Loan

12.   Đóng góp của Giáo dục Khoa học Công nghệ

13.   Tương đồng và khác biệt với Hàn Quốc

14.   Các giai đoạn công nghiệp hóa

15.   Lợi thế của Đài Loan về kinh nghiệm chế tạo (manufacturing)

16.   Bối cảnh chính trị Đài Loan

17.   Tương đồng và khác biệt với Hàn Quốc trong phong cách

18.   Đàn sếu bay

PHẦN 3

19.   Chính phủ kiến tạo phát triển như hệ hình mới

20.   Hai minh họa vai trò dẫn dắt của nhà nước

21.   Thuyết tân cổ điển vs Nhà nước kiến tạo phát triển

22.   Chính phủ mạnh và Chính phủ yếu

23.   Đường cong học tập

24.   Tinh thần kiến tạo phát triển

PHẦN 4

25.   Việt Nam

Tài liệu tham khảo

Print Friendly and PDF