30.11.24

Amos Goldberg, sử gia người Israel: “Điều đang xảy ra ở Gaza là một cuộc diệt chủng, vì Gaza không còn tồn tại”

Amos Goldberg, sử gia người Israel:

“ĐIỀU ĐANG XẢY RA Ở GAZA LÀ MỘT CUỘC DIỆT CHỦNG, VÌ GAZA KHÔNG CÒN TỒN TẠI”

Stéphanie Le Bars

Sử gia Amos Goldberg, giữ chức “Giáo sư Jonah M. Machover”[1] chuyên về Holocauste[2] tại Đại học Do Thái ở Jérusalem, đã đăng tháng 4 năm nay trên báo mạng Local Call [Tiếng Do Thái: Siha Mekomit][*], một bài viết cáo buộc Israel tiến hành “diệt chủng” ở Gaza. Ông giải thích luận điểm này trong một cuộc phỏng vấn của báo Le Monde.

Amos Goldberg, sử gia người Israel. YANN LEGENDRE

Tháng 4 năm nay, ông đã cáo buộc Israel tiến hành “diệt chủng” ở Gaza. Điều gì đã đưa ông đến kết luận ấy sáu tháng sau khi chiến tranh bắt đầu?

Tôi cần thời gian. Ngày 7 tháng 10 là một cú sốc, một thảm kịch, một cuộc tấn công rùng rợn. Một sự bi thương, một tội ác như chúng ta chưa bao giờ thấy. Chỉ trong một ngày có 850 thường dân [tổng cộng 1.200 người] bị giết. Đàn ông, đàn bà, trẻ con, kể cả trẻ sơ sinh, người già bị bắt làm con tin. Những kibboutz bị hoàn toàn huỷ diệt. Rồi những câu mắt thấy tai nghe về cuộc tấn công hung tợn, bạo lực tình dục, những tàn phá do Hamas gây ra. Trong số các nạn nhân có những người tôi quen biết, nhiều người rất thân thiết. Có người chết, có người bị bắt làm con tin, có người chỉ đủ sống sót. Tôi không có lời nào để giải thích sự kiện này, để tiêu hoá nó, để vượt qua nó. Một sự kiện ghê tởm, đánh vào bản thân, để lại chấn thương.

Print Friendly and PDF

28.11.24

Võ Tá Hân – Người truyền ánh sáng cho Việt Nam

VÕ TÁ HÂN

NGƯỜI TRUYỀN ÁNH SÁNG CHO VIỆT NAM

VỚI HƠN MỘT TRIỆU QUYỂN SÁCH ĐƯỢC GỬI VỀ

Nguyễn Xuân Xanh trình bày

Trong nhiều thế giới mà con người được ban tặng không phải từ Tự nhiên, mà từ Trí tuệ của chính mình, thì thế giới sách là vĩ đại nhất.

—Hermann Hesse, tác giả của Siddhartha

Lời nói đầu. Tạp chí Tuổi Trẻ Cuối Tuần số ngày 30-4-2023 mới ra mắt có bài phỏng vấn Võ Tá Hân dài 4 trang, và hình bìa báo mang ảnh anh. Một số báo vào “ngày lịch sử” lại “vinh danh” một người Việt Nam sống ở nước ngoài đã có công chuyển về cho Việt Nam hơn một triệu sách tiếng nước ngoài trong ba thập niên qua để phục vụ cho học tập và nghiên cứu. Một sự tình cờ chăng? Nhưng dù là sự tình cờ, điều đó như muốn báo hiệu, giai đoạn phát triển tới của Việt Nam không được định đoạt bằng chính trị thuần túy như mấy thập niên qua nữa, mà bằng tri thức. Muốn thế, đất nước phải có thật nhiều tri thức, cơ sở hạ tầng tri thức, tủ sách, thư viện, phòng đọc sách, báo chí, seminar, phòng thí nghiệm, hội nghị, các định chế khoa học, lòng đam mê học hỏi, cần những người tri thức, nhà khoa học, nghiên cứu, và nhà kỹ trị để gánh vác nhiệm vụ mới. Số báo này sẽ “đi vào lịch sử” như báo hiệu một khúc quanh phải có và phải đến, nếu muốn có một đất nước phồn vinh, “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cạnh tranh kinh tế là cạnh tranh ý tưởng đổi mới sáng tạo. Không có sách để học, hay không chịu học, trao đổi thế giới, thì làm sao có ý tưởng sáng tạo? Đã đủ lắm rồi với sức ỳ của lịch sử, sự phung phí thời gian vàng ngọc. Bánh xe lịch sử đang quay sát bên ta và sẵn sàng nghiền nát những cái vô minh và lầm lạc. Tâm lý “sợ sách” và thiếu trách nhiệm phổ biến, một thời đã gây cho người tặng sách muôn vàn khó khăn, giờ đã trở thành sự đón tiếp nồng nhiệt và biết ơn. Hãy để tri thức và người trí thức có tiếng nói.

Một cảnh của sách nhập về của anh Võ Tá Hân
Print Friendly and PDF

26.11.24

Tổng thống ngầm đằng sau

TỔNG THỐNG NGẦM ĐẰNG SAU

Tác giả: Markus Becker, Simon Book, René Pfister, Marcel Rosenbach và DER SPIEGEL

Người dịch: Ninh Dương

Elon Musk không chỉ là người giàu nhất thế giới, anh còn nhanh chóng trở thành người rỉ tai của Donald Trump. Hiếm khi thấy trong lịch sử Hoa Kỳ lại có một mối liên kết giữa quyền lực và tiền bạc báng bổ đến như vậy.

Nếu Elon Musk và Donald Trump có một điểm chung thì đó là xu hướng ưa thích những biểu hiện long trọng, nếu không muốn nói là khoa trương. Khi Donald Trump được bầu làm tân tổng thống vào thứ Ba tuần trước, Musk đã đăng trên X một bức ảnh hình anh ta nghiêm chào bên một lá cờ Mỹ khổng lồ, trong khi mặt trời mọc rực rỡ phía sau: “Trời lại sáng ở Mỹ” được viết trên bức ảnh, như một tham chiếu đến khẩu hiệu huyền thoại mà Ronald Reagan đã sử dụng để giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1984.

Nhìn vào bức ảnh, người ta có thể nghĩ rằng không phải Trump, mà là Musk sẽ là người dẫn dắt nước Mỹ trong tương lai. Và quả thật là hiếm có ai tích lũy nhiều quyền lực như người đàn ông 53 tuổi này. Musk không chỉ là người giàu nhất thế giới với tài sản khoảng 300 tỷ đô la, mà còn thống trị thị trường ô tô điện, truyền thông vệ tinh và hàng không vũ trụ. Và giờ đây, anh đã trở thành người rỉ tai số một của tổng thống mới, người lãnh đạo đội quân lớn nhất và có sức gây tử vong cao nhất trên Trái đất, đồng thời phải đối mặt với ba điểm nóng tranh chấp ngay từ ngày đầu tiên: chiến tranh ở Ukraine, xung đột đẫm máu ở Trung Đông và sự phân tranh đảo Đài Loan.

Print Friendly and PDF

25.11.24

Vụ ám sát ba chị em nhà Mirabal: nguồn gốc quốc tế của ngày quốc tế xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ

VỤ ÁM SÁT BA CHỊ EM NHÀ MIRABAL: NGUỒN GỐC CỦA NGÀY QUỐC TẾ XOÁ BỎ BẠO LỰC ĐỐI VỚI PHỤ NỮ

Tác giả: Catherine Pélage

Giáo sư văn học và văn hoá châu Mỹ La tinh, 

Giám đốc Chương trình nghiên cứu văn hoá Dominica Sœurs Mirabal, 

Đại học Orléans

Tem chính thức của Cộng Hoà Dominica in hình ba chị em Mirabal (2007). Prachaya Roekdeethaweesab

Vào tháng 8 năm 1930, Rafael Leonidas Trujillo lên nắm quyền ở Cộng Hoà Dominica sau một chiến dịch tranh cử chức tổng thống mang nặng dấu ấn của nhiều bạo lực. Một hệ thống dựa trên khủng bố và tham nhũng được nhanh chóng thiết lập. Trong suốt ba thập kỷ tiếp theo (Trujillo bị ám sát năm 1961), những tội ác chống lại nhân loại tăng lên nhiều. 

Trong những năm cuối cùng của chế độ độc tài này, lực lượng chống đối được tổ chức và được tăng cường: trong số những người phản kháng có ba chị em Patria, María Teresa và Minerva Mirabal. Vào năm 1959, Minerva Mirabal cùng chồng là Manolo Tavárez sáng lập phong trào cách mạng gọi là “14 tháng sáu”; ngoài ra, 10 năm trước đó, bà đã công khai đối đầu với Trujillo.

Ngày 25 tháng 11 năm 1960, khi ba chị em đi thăm chồng của họ đang bị giam vì lý do chính trị, ba chị em bị các nhân viên của Trujillo giết hại.

Mặc dù ngày nay ba chị em Mirabal được phong danh hiệu nữ anh hùng dân tộc, những nghiên cứu về họ vẫn còn ít. Thế nhưng tầm quan trọng lịch sử và chiều kích mang tính biểu tượng của họ trên trường quốc tế là quá hiển nhiên: ngày các bà bị giết, 25 tháng 11, đã được Liên Hiệp quốc chọn là Ngày Quốc tế xoá bỏ bạo lực đối với phụ nữ, vào năm 1999.

Print Friendly and PDF

24.11.24

Kết nối với mạng đường sắt Trung Quốc: Nam quốc sơn hà Nam đế cư

KẾT NỐI VỚI MẠNG ĐƯỜNG SẮT TRUNG QUỐC: NAM QUỐC SƠN HÀ NAM ĐẾ CƯ

Đặng Đình Cung

Kỹ sư tư vấn

Chính phủ Việt Nam vừa quyết định với Trung Quốc xây ba tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai, Hà Nội – Đồng Đăng và Móng Cái – Hạ Long – Hải phòng và canh tân nâng cấp đường Hà Nội – Hải Phòng. Đây là một dự án hai bên cùng có lợi.

Trong bài này chúng tôi xin trình bày lợi ích của bốn tuyến đường này và phương pháp khắc phục những nguy cơ tiềm tàng của sự hợp tác với Trung Quốc[i].

Kết nối với mạng đường sắt của Trung Quốc là một cần thiết

Một mạng hậu cần chỉ có giá trị nếu được kết nối với mạng khác, của quốc gia khác, của đại lục khác. Việc kết nối mạng đường sắt của Trung Quốc với mạng của các nước Đông Nam Á và thiết lập Mạng Đường sắt Liên Á là hợp lý đối với tất cả các quốc gia của khối ASEAN. Chính ra, vế đường sắt và đường bộ của Sáng kiến Vành đai và Con đường (Belt and Road Initiative, BRI) do Trung Quốc đề xướng nằm trong kế hoạch Đường sắt Xuyên Á (Trans Asia Railways, TAR) và Mạng Đường bộ châu Á (Asia Highways Network, AHN) của UNESCAP (United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Á – Thái Bình Dương Liên Hiệp Quốc). Mạng hậu cần của chúng ta cũng nằm trong kế hoạch đó (xem hình 1 và 2).

Hình 1 – Mạng Đường sắt Xuyên Á (Hình của UNESCAP)
Print Friendly and PDF

22.11.24

Ratan Tata: một nhà công nghiệp giàu lòng nhân ái, quan tâm đến nhân viên và công dân cũng như lợi nhuận

RATAN TATA: MỘT NHÀ CÔNG NGHIỆP GIÀU LÒNG NHÂN ÁI, QUAN TÂM ĐẾN NHÂN VIÊN VÀ CÔNG DÂN CŨNG NHƯ LỢI NHUẬN

Xuất bản: Ngày 11 tháng 10 năm 2024 2.27 chiều theo giờ BST

Ratan Tata tại Đại hội đồng cổ đông công ty con của Tata. EPA/DIVYAKANT SOLANKI ID: 3944798 

Ratan Tata, người vừa qua đời ở tuổi 86, là một người khổng lồ của ngành công nghiệp toàn cầu, với những mối quan tâm [trong ngành công nghiệp] ô tô, thép, du lịch, và trà. Tuy nhiên ông cũng được ca ngợi là một người có tầm nhìn xa trông rộng, với công việc vượt xa thế giới kinh doanh, thông qua cam kết của công ty ông đối với các vấn đề xã hội.

Là người đứng đầu Tập đoàn Tata, một đế chế kinh doanh của Ấn Độ được thành lập từ hơn 150 năm trước, Tata đã gắn bó sâu sắc với sự phát triển của doanh nghiệp và xã hội Ấn Độ. Và ông đã đóng vai trò tích cực trong việc mở rộng sự hiện diện của Tata trên toàn cầu.

Một trong những thành tựu đáng chú ý nhất của ông là mua công ty trà Tetley của Anh với giá 271 triệu bảng Anh vào năm 2000, đưa Tata trở thành một trong những công ty trà lớn nhất thế giới.

Đây là một bước đi táo bạo hướng tới việc chuyển đổi tập đoàn Tata từ một tập đoàn mạnh tại Ấn Độ thành một tay chơi toàn cầu. Tương tự như vậy là việc mua lại Jaguar Land Rover vào năm 2008.

Bất chấp những khó khăn về tài chính của công ty sản xuất ô tô này vào thời điểm đó, Tata vẫn nhìn thấy tiềm năng trong thương hiệu Anh quốc này. Ông đã giám sát khoản đầu tư đáng kể vào công nghệ và thiết kế, và canh bạc của ông đã được đền đáp. Các mẫu xe mới nhận được sự công nhận trên toàn cầu và Tata Motors trở thành một thế lực lớn trong ngành ô tô.

Print Friendly and PDF

20.11.24

Việt Nam: Căn cứ hậu cần của Đông Nam Á? Phần IV – Đường sắt

VIỆT NAM: CĂN CỨ HẬU CẦN CỦA ĐÔNG NAM Á?
PHẦN IV – ĐƯỜNG SẮT

Đặng Đình Cung

Kỹ sư tư vấn

Bài này tổng hợp các bài chúng tôi đã viết trong quá khứ về ngành đường sắt cho nước ta. So với những gì chúng tôi đã viết trong những bài trước, bài này cập nhật tình trạng hiện nay của đất nước về kinh tế, xã hội và kỹ thuật cộng với biến đổi tư duy của giới cầm quyền nước ta về những vấn đề đó.

Chúng tôi sẽ bàn về

- mạng đường sắt,

- các tiêu chuẩn kỹ thuật,

- hợp tác quốc tế.

Mạng đường sắt

Khi nhìn bản đồ mạng hậu cần của nước ta thì người ta sẽ thấy nước Việt Nam là một hải đảo chứ không phải là bao lơn của bán đảo Đông Dương như các nhà địa dư học thường nói. Đặc biệt mạng đường sắt của ta giống như mạng của Indonesia hay Philippines, không kết nối với mạng của bất cứ nước nào hết. Hai tuyến Hà-Nội – Lào-Cai và Hà-Nội – Đông-Khê hiện có thì theo khổ 1.000 mm trong khi mạng đường sắt của Trung-Quốc lại theo khổ 1.435 mm.

Các tuyến đường sắt hiện nay

(Nguồn: Trang thông-tin báo Lao-Động)

Để phát triển ngoại thương chúng ta phải nối liền mạng đường sắt của ta với mạng của Trung Quốc và mạng của các nước ASEAN lục địa khác. Giá trị của một mạng hậu cần (trong nước gọi là giao thông vận tải, GT–VT) là ở sự kết nối của nó với các mạng hậu cần khác, một vùng khác, một nước khác, một địa lục khác.

Print Friendly and PDF

18.11.24

Kinh tế toàn cầu: châu Á đã đụng trần, Mỹ hồi phục

KINH TẾ TOÀN CẦU: CHÂU Á ĐÃ ĐỤNG TRẦN, MỸ HỒI PHỤC

Tác giả: Hubert Testard 

https://asialyst.com/fr/wp-content/uploads/2024/11/economie-asie-manufacture.jpg

Trong dự báo mới nhất của IMF về kinh tế toàn cầu, Châu Á vẫn là lục địa có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ nhất, với sự tái cân bằng rõ ràng giữa Trung Quốc và các nước Châu Á mới nổi khác. Nhưng nhìn chung, Châu Á đã ngừng tăng trưởng xét về tỷ trọng trong GDP toàn cầu kể từ năm 2020. Trong cuộc cạnh tranh Trung Quốc/Mỹ/khu vực đồng euro, nền kinh tế Mỹ đang trải qua một sự phục hồi ngoạn mục. Nhìn ngược lại từ năm 1980 cho thấy rõ ràng một loạt liên tiếp các quốc gia chủ chốt cho tăng trưởng ở Châu Á: Nhật Bản cho đến năm 1995, Trung Quốc từ 1995 đến 2021 và từ nay là năng động kép Ấn Độ-ASEAN.

Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới/ World Economic Outlook mới nhất của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố vào ngày 22 tháng 10 bao gồm các dự báo ngắn hạn thông thường cho năm 2024 và 2025, nhưng nó cũng đi kèm với một cơ sở dữ liệu đáng kể về 44 năm qua của nền kinh tế toàn cầu kể từ 1980 và những dự đoán cho 5 năm tới đến 2029 dựa trên phân tích của IMF về tiềm năng tăng trưởng của các quốc gia khác nhau. Một cái nhìn chi tiết về nền kinh tế Châu Á và về sự cạnh tranh quốc tế với Phương Tây mang lại kết quả bất ngờ.

Print Friendly and PDF

17.11.24

Về một số định chế được đề cập trong bài Pierre Bourdieu là ai?

PTKT: Đầu năm 2022, chúng tôi đã bước đầu giới thiệu cuốn Dictionnaire international Bourdieu tại đường dẫn này. PTKT sẽ dần dần đăng tiếp bản dịch nội dung công trình quan trọng này.

VỀ MỘT SỐ ĐỊNH CHẾ ĐƯỢC ĐỀ CẬP TRONG BÀI PIERRE BOURDIEU LÀ AI?

AGRÉGATION [Chức danh thạc sĩ]

Từ agrégation (grex trong tiếng Latin có nghĩa là một tập hợp) biểu thị một tập hợp những yếu tố hay con người, nhưng kể từ thế kỉ XVIII cũng biểu thị những cuộc thi tuyển giảng viên. Pierre Bourdieu đỗ thạc sĩ triết học năm 1954 (chủ tịch ban giám khảo là Georges Davy), nhưng nhà xã hội học cũng lấy định chế này làm đối tượng nghiên cứu.

Trong hệ thống học đường Pháp, vốn dành một vị trí quan trọng cho các cuộc thi tuyển và cho mục tiêu tồn tại lâu dài của giới giáo chức [La Reproduction: 181-184], chức danh thạc sĩ có xu hướng tượng trưng cho “học vị cao quý”. Những “bài tập huấn luyện chức danh” dựa trên việc thao tác một số ít kĩ thuật phát biểu được triển khai trong mọi dịp là hình thức của sự xuất sắc trong học đường, như trong các lớp chuẩn bị thi tuyển, và qui chiếu về vị trí từng được Durkheim [1938] hay Renan ghi nhận, vị trí của chủ nghĩa hình thức và của việc học ngôn ngữ và văn chương Hi lạp và Latin ở Pháp [PB 1967c].

Cùng với học vị tiến sĩ và chức danh sinh viên Trường sư phạm cao cấp (ENS), chức danh thạc sĩ xác định “homo academicus” (gallicus) lí tưởng [LR: 183]. Thật vậy, ở cấp đại học, chức danh thạc sĩ là cần thiết để trở thành giáo sư luật học, y học, kinh tế học hay khoa học chính trị, góp phần vào hiệu ứng đoàn thể trong các bộ môn hướng về quyền lực thế tục này. Trong các bộ môn khác (sử học, triết học, văn học, v.v.), tùy trường hợp, chức danh thạc sĩ (ở cấp trung học) biểu hiện giới hạn dưới hay trên của giới giảng viên [Homo academicus]. Bourdieu cũng quan tâm đến cách mà các đoàn thể thạc sĩ tự bảo vệ bằng cách bảo vệ chức danh học vị xác định đoàn thể của mình [LR: 183; HA]. 

Print Friendly and PDF

15.11.24

Phân Tích Kinh Tế tròn 10 tuổi

PHÂN TÍCH KINH TẾ TRÒN 10 TUỔI

NHÌN LẠI MỘT HÀNH TRÌNH BỀN BỈ CỦA TRI THỨC

Ngày hôm nay đánh dấu chặng đường 10 năm Phân Tích Kinh Tế đồng hành cùng bạn đọc trên không gian mạng (15/11/2014 - 15/11/2024). Một thập kỷ có lẽ là khoảng thời gian đủ dài để khẳng định sự bền bỉ và kiên định của một dự án tri thức phi lợi nhuận.

Nhìn lại hành trình 10 năm, chúng tôi không khỏi xúc động khi nghĩ về những thành quả nhóm đã đạt được. Từ ý tưởng ban đầu về việc chia sẻ kiến thức kinh tế học thuật đến công chúng Việt Nam, Phân Tích Kinh Tế đã trải qua biết bao thăng trầm để trở thành điểm hẹn tin cậy của những người yêu mến môn "khoa học buồn thảm" này. Khởi động với những bài dịch đầu tiên cùng số lượng độc giả khiêm tốn, đến nay Phân Tích Kinh Tế tự hào đã trở thành một trong những nguồn thông tin học thuật đáng tin cậy với hàng nghìn lượt truy cập mỗi ngày.

Trong hành trình 10 năm, chúng tôi đã không ngừng đổi mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của độc giả: Từ việc ra mắt kênh podcast trên nhiều nền tảng (Acast, Apple Podcast, Spotify…), bổ sung các chuyên mục mới như Địa chính trịThể thao, cho đến việc tích hợp các công cụ trình bày dữ liệu hiện đại như Biểu đồ động.

Thành tựu này không thể có được nếu thiếu đi sự đóng góp tận tâm của đội ngũ cộng tác viên, dịch giả và đặc biệt là sự ủng hộ nhiệt thành từ cộng đồng bạn đọc. Hơn 2,5 triệu lượt đọc trên website, 300 nghìn lượt xem YouTube10 nghìn lượt nghe podcast 41 nghìn người theo dõi qua Facebook chính là “những con số biết nói”. Mỗi lượt chia sẻ, mỗi phản hồi góp ý của quý vị đều là động lực quý giá, tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi trong việc duy trì và phát triển Phân Tích Kinh Tế. Ngoài ra, chúng tôi cũng xin tri ân các tạp chí, trang web đã hợp tác và cho phép Phân Tích Kinh Tế đăng tải lại nội dung nhằm mục đích lan tỏa tri thức.

Bước vào thập kỷ thứ hai, Phân Tích Kinh Tế vẫn kiên định giữ vững “phong độ”, đảm bảo chất lượng nội dung của từng bài đăng, từng tập podcast, cũng như bài viết trên trang để giúp bạn đọc dễ dàng theo dõi và tra cứu thông tin. Đồng thời, Phân Tích Kinh Tế rất mong nhận được nhiều ý kiến phản hồi hơn, đặc biệt là về kênh podcast qua bản khảo sát tại đây. Chúng tôi tin rằng, với sự đồng hành của quý độc giả, Phân Tích Kinh Tế sẽ tiếp tục là điểm đến tin cậy cho những ai khao khát tìm hiểu sâu sắc về các vấn đề kinh tế - xã hội đương đại.

Như thường lệ, với các bạn đọc mới, xin mời ghé thăm mục HDSD (hướng dẫn sử dụng) trên đầu trang để tận dụng tốt nhất các tiện ích của Phân Tích Kinh Tế. Đối với quý độc giả lâu năm, cảm ơn các bạn đã luôn đồng hành và tin tưởng chúng tôi suốt hành trình đã qua.

Chúng tôi tin rằng con đường tri thức sẽ luôn gắn kết mỗi chúng ta, dù có ở nơi đâu.

Trân trọng,

Nhóm Phân Tích Kinh Tế.

Print Friendly and PDF

14.11.24

Dịch tự động là tên gọi của điều gì?

DỊCH TỰ ĐỘNG LÀ TÊN GỌI CỦA ĐIỀU GÌ?

Tác giả: Caroline Rossi[*]

Từ khi các hệ thống dịch tự động gọi là “neuronale” (dựa trên mạng nơ-ron) xuất hiện vào mùa thu năm 2016, dựa trên các kỹ thuật có nguồn gốc từ việc nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo, viễn cảnh đưa máy tự động phục vụ người dịch đặt ra nhiều thắc mắc. Nhưng “trí tuệ này”, ta đã hình thành nó như thế nào?

Tôi nghĩ chỉ riêng Sarkozy thôi thì không thể làm bạn chán nản. Vậy, điều làm bạn chán nản là thứ mà cái tên Sarkozy đại diện. Đó mới là điều khiến chúng ta ghi nhớ: sự xuất hiện của cái mang tên Sarkozy, bạn cảm nhận sự xuất hiện ấy như một cú đánh từ thứ đó, cái thứ có lẽ là bẩn thỉu mà cậu bé Sarkozy chỉ là kẻ phục vụ của nó.” Alain Badiou, De quoi Sarkozy est-il le nom? - Sarkozy là tên gọi của điều gì? - Lignes, 2007

Điều gì làm cho những người dịch chán nản? Để trả lời câu hỏi than ôi rất thời sự này, chuyên mục ngôn ngữ “Johnson” (la chronique linguistique “Johnson”) công bố ngày 27 tháng năm vừa qua (2017) trên tuần báo Anh The Economist nhận diện hai loại áp lực: một áp lực vật chất liên quan đến cạnh tranh quốc tế kéo theo một sự hạ thấp quan trọng các giá biểu, và một áp lực bổ sung xuất phát từ việc sử dụng từ nay được phổ quát hoá các công cụ dịch tự động ngày càng hoàn thiện, có khả năng thu hẹp công việc của người dịch vào việc trau chuốt nhanh chóng những văn bản mà người dịch này không viết ra. Nhưng có phải dịch tự động thực sự tạo nên một sự tìm kiếm về công nghệ mà không có mối liên quan với loại áp lực thứ nhất không?

Khi các nhà nghiên cứu hỏi những người dịch, những người này sẵn sàng nêu ra những “va chạm về nhận thức” liên quan đến sự phân đoạn thái quá các văn bản[1] do công việc gây ra trong một môi trường dịch thuật có sự trợ giúp của máy tính (TAO). Để hiểu rõ hơn điều ấy có nghĩa gì, hiện nay có hai loại tiếp cận được ưu tiên. Một mặt, các cách tiếp cận nhận thức và tiện dụng vốn xem người dịch là trung tâm của các mối quan tâm. Những cách tiếp cận này tìm cách hiểu được những hậu quả của những cách thực hành mới ảnh hưởng đến việc dịch gọi là thực dụng (không mang tính văn chương) và tìm cách phân tích tất cả các nhân tố có ảnh hưởng đến công việc, đến sự thoải mái và bản sắc của những người dịch[2]. Mặt khác, những cách tiếp cận dân tộc học chú tâm mô tả nhận thức và trải nghiệm chủ quan của những người dịch.

Tóm lại, những nhà nghiên cứu quan tâm đến những vấn đề này cho chúng ta biết rằng nếu từ nay việc sử dụng phổ biến những bộ nhớ về dịch thuật (cơ sở dữ liệu giúp lưu giữ trong trí nhớ những nội dung dịch thuật đã được thực hiện và nêu chúng trở lại khi ta gặp những đoạn văn tương tự) và sự tích hợp thông dụng của dịch tự động vào thiết bị làm việc của người dịch cho phép họ làm việc nhanh hơn và bảo đảm sự nhất quán về thuật ngữ và hành văn của văn bản dịch, những người dịch coi những yếu tố này như những nguồn gây thất vọng, vì việc sử dụng chúng hầu như luôn luôn gắn với những đòi hỏi về năng suất ngày càng tăng.

Có nên ngạc nhiên về những kết quả mâu thuẫn này không? Làm thế nào để giải thích trong một bối cảnh mà những tiến bộ công nghệ vô cùng nhanh, viễn cảnh đặt máy tự động phục vụ người dịch dường như vẫn còn xa vời? Câu hỏi được đặt ra một cách đặc biệt cấp thiết từ mùa thu năm 2016 với sự xuất hiện của những hệ thống dịch tự động mới gọi là “dựa trên mạng nơ-ron”, dựa trên những kỹ thuật có nguồn gốc từ nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo.

Sơ đồ của công việc dịch với sự trợ giúp của máy tính

Print Friendly and PDF

12.11.24

Vĩnh biệt nước Mỹ? Vài suy nghĩ quanh một bức tranh

VĨNH BIỆT NƯỚC MỸ? VÀI SUY NGHĨ QUANH MỘT BỨC TRANH

Đỗ Tuyết Khanh

Biếm hoạ “Adieu l’Amérique?” của Chappatte trên báo Thuỵ Sĩ Le Temps đăng từ ngày 9.11.2024.

Bức tranh không lời nhưng nói lên đầy đủ cái sốc và tâm trạng của rất nhiều người sau ngày bầu cử tổng thống ở Hoa Kỳ vừa qua.

Tượng Nữ thần Tự Do, một trong những hình tượng tiêu biểu và đáng kính nhất của nước Mỹ bị thắt cổ bằng chiếc cà-vạt đỏ như máu và dài quá khổ, thường được chế giễu như thể hiện cái machisme trắng trợn của vị tân tổng thống. Lăn lóc dưới đất một bên là ngọn đuốc vốn được nữ thần giương cao, tượng trưng cho ánh sáng soi sáng thế giới và dẫn dắt đến tự do, chào đón người di dân đến xứ sở của tự do và dân chủ. Lửa của ngọn đuốc đã tắt, những giá trị cơ bản của nước Mỹ đã tan ra mây khói. Phía bên kia là tấm bảng trước nằm trong tay nữ thần, ghi ngày tháng của bản Tuyên ngôn độc lập nước Hoa Kỳ, văn kiện nền tảng của quốc gia.

Thông điệp quá rõ ràng: Nước Mỹ thường được xem và tự hào là biểu tượng của tự do và dân chủ đang bước vào một thời kỳ đen tối khi dối trá và phản đạo lý, bất chấp luật pháp, hiến pháp lên ngôi, tham lam quyền lực và của cải là động cơ duy nhất để chiếm lấy vị trí tối thượng trên chính trường. Cứ nhớ đến 4 năm nhiệm kỳ đầu tiên của người sắp trở lại Toà Nhà trắng thì viễn tượng của 4 năm sắp tới có thể còn u ám và não nề hơn bức tranh này, cho nước Mỹ vả cả thế giới.

Print Friendly and PDF

10.11.24

BRICS, châu Á và vấn đề đồng đô la

BRICS, CHÂU Á VÀ VẤN ĐỀ ĐỒNG ĐÔ LA

Hubert Testard

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và người đồng cấp Nga Vladimir Putin trong hội nghị thượng đỉnh BRICS ở Kazan, Nga, ngày 22 tháng 10 năm 2024. (Nguồn: HGT)

Hội nghị thượng đỉnh BRICS vừa diễn ra ở Kazan đánh dấu một bước ngoặt. Tổ chức này đang trong giai đoạn mở rộng nhanh chóng và có tham vọng từ nay sẽ bàn bạc tất cả các vấn đề quốc tế lớn. Các nước châu Á đóng vai trò quan trọng cho tương lai của BRICS. Không có dự án mang tính cơ cấu nào – đặc biệt là tiến trình phi đô la hóa – có thể được thực hiện ngoài sự lãnh đạo của Trung Quốc và dần dần là của Ấn Độ.

***

Hội nghị thượng đỉnh BRICS lần thứ 16 diễn ra tại Kazan từ ngày 22 đến 24/10, quy tụ năm thành viên sáng lập của tổ chức (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi), năm thành viên mới gia nhập kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2024 (Iran, Ai Cập, Ả Rập Saudi, Ethiopia, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất), và 25 quốc gia khác cũng như một số đại diện của các tổ chức quốc tế, với sự tham gia đáng chú ý của Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres.

Print Friendly and PDF

8.11.24

'Liệu học bằng này ra trường có việc làm không?' là câu hỏi sai. Đây mới là điều bạn nên hỏi

'LIỆU HỌC BẰNG NÀY RA TRƯỜNG CÓ VIỆC LÀM KHÔNG?' LÀ CÂU HỎI SAI. ĐÂY MỚI LÀ ĐIỀU BẠN NÊN HỎI

Good Free Photos/UnsplashCC BY

Thời gian này là mùa tham quan trường đại học và đưa ra các quyết định học tập cho học sinh lớp 12.

Là một học giả, câu hỏi mà tôi nhận được nhiều nhất từ học sinh và phụ huynh là “bằng cấp này có giúp tôi có việc làm không?”.

Chuyện này rất dễ hiểu. Tuy nhiên, đây không hẳn là câu hỏi đúng khi những người trẻ cân nhắc xem khóa học nào phù hợp nhất với mình.

Chỉ chú tâm vào triển vọng công việc trước mắt (“bằng cấp đồng nghĩa với việc làm”) có thể giới hạn sự hiểu biết về những gì các khóa học đại học thực sự mang lại.

Print Friendly and PDF

7.11.24

Muốn chống lại bất bình đẳng giới? Một đánh giá dữ liệu từ 118 quốc gia cho thấy viện trợ phát triển có hiệu quả

MUỐN CHỐNG LẠI BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI? MỘT ĐÁNH GIÁ DỮ LIỆU TỪ 118 QUỐC GIA CHO THẤY VIỆN TRỢ PHÁT TRIỂN CÓ HIỆU QUẢ

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng viện trợ có những tác động đặc biệt mạnh mẽ ở Tanzania. Wilpunt/E+ qua Getty Images

Bất bình đẳng giới không chỉ là bất công — mà còn là gánh nặng lâu dài của nền kinh tế thế giới. Một phân tích cho thấy việc trao cho phụ nữ những cơ hội kinh tế giống như nam giới sẽ giúp tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu tăng thêm khoảng 12 nghìn tỷ đô la Mỹ trước năm 2025. Đó là mức tăng trưởng 11%.

Mối liên hệ giữa việc trao quyền cho phụ nữ và sự tăng trưởng kinh tế đã được xác lập rõ ràng. Khi phụ nữ được trao quyền về kinh tế, họ đầu tư nhiều hơn cho gia đình của họ, tạo ra một chu kỳ của những kết quả tích cực trải dài qua nhiều thế hệ. Sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động dẫn đến năng suất cao hơn và mang lại các góc nhìn đa chiều giúp tăng cường khả năng ra quyết định và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Nhận ra những lợi ích này, các chính phủ và các tổ chức phi chính phủ ngày càng hướng viện trợ - nguồn vốn cấp cho các nước đang phát triển để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - vào việc thúc đẩy sự trao quyền cho phụ nữ.

Là một nhà kinh tế nghiên cứu về phát triển, tôi muốn biết: Liệu tất cả số tiền đó có thực sự tạo nên sự khác biệt không? Vậy nên, trong một nghiên cứu gần đây, các đồng nghiệp của tôi và tôi đã phân tích tác động của viện trợ có-liên-quan-đến-giới đến bất bình đẳng giới bằng cách sử dụng dữ liệu từ 118 quốc gia trong khoảng thời gian 13 năm, từ năm 2009 đến năm 2022.

Những phát hiện của chúng tôi là đáng khích lệ: Viện trợ có-liên-quan-đến-giới đã làm giảm bất bình đẳng ở hầu hết các quốc gia mà chúng tôi nghiên cứu.

Print Friendly and PDF