5.4.18

Lịch sử văn minh châu Âu (1b) - Lúc khởi đầu mọi dân tộc đều như nhau


 LÚC KHỞI ĐẦU, MỌI DÂN TỘC ĐỀU NHƯ NHAU (TIẾP THEO)
Tôn Thất Thông, CHLB Đức
Trong bài trước, chúng ta theo dõi sự phát triển loài người trong thời cổ đại để tìm hiểu yếu tố nào mà một dân tộc có thể giàu có và văn minh sớm hơn các dân tộc khác. Bây giờ chúng ta thử đi tiếp thêm vài ngàn năm kế tiếp, vừa xem xét trên quan điểm lịch sử, vừa kèm thêm phương pháp lượng học trong kinh tế để khảo sát vấn đề.
Một thiên niên kỷ trước và sau công nguyên
Văn minh thường được thể hiện qua nhiều lĩnh vực khác nhau như văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học, kỹ thuật, trình độ sản xuất v.v.. Nhưng xét về một khía cạnh tương đối, chúng ta cũng có thể đánh giá văn minh của một dân tộc trong một giai đoạn nhất định qua những phát minh mang tầm vóc quốc tế và có tác động mạnh đến xã hội loài người mà dân tộc ấy cống hiến cho nhân loại. Để minh họa cho những lý giải ở phần trên, cũng như để bổ sung cho những phân tích định lượng trong phần trình bày kế tiếp, chúng ta thử xem xét các vùng văn minh khác nhau có những phát minh nào được mọi người thừa nhận là có giá trị cho loài người.
Vị giám đốc Viện Bảo tàng Khoa học London, Jack Challoner đã xuất bản cuốn sách đồ sộ[1] trình bày các phát minh lớn của loài người từ thời cổ đại cho đến cuối thế kỷ 20. Chúng ta ghi nhận được như sau:
Bảng [1]: Số lượng các phát minh lớn chia theo từng vùng
Năm:
1000 - 0
(trước CN)
0 - 1000
(sau CN)
1000 - 1500
Châu Âu, La Mã
3
6
7
Mesopotamia, Ả Rập
8
2
4
Hy Lạp
9
0
0
Trung Hoa
10
11
8
Châu Á khác
0
1
1
Tổng cộng:
30
20
20
Để bổ sung và có một sự liên hệ về tỉ lệ của số lượng các phát minh trên dân số, chúng ta có thể kết hợp với dữ liệu của giáo sư Angus Maddison như sau[2]: dân số châu Âu (trừ Nga) vào năm 0 ước chừng 30 triệu, Trung Hoa 60 triệu, Ấn Độ 75 triệu, các nước châu Á khác 40 triệu. Riêng đế chế La Mã trong thời kỳ hưng thịnh nhất có 20 triệu dân ở vùng châu Âu. Tăng trưởng dân số thế giới không đáng kể cho đến năm 1000, bình quân tăng ít hơn 1% cho mỗi thế kỷ.
Bảng thống kê các phát minh ở trên nói lên điều gì?
1000 năm trước công nguyên: Vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia) và Hy Lạp có nhiều phát minh nhất, chừng mực nào cũng thể hiện trình độ văn minh cao nhất. Nếu tính theo tỉ lệ dân số thì sự chênh lệch so với các vùng khác càng nổi bật hơn: 300 ngàn người cho mỗi phát minh từ hai vùng Lưỡng Hà và Hy Lạp, thứ đến ở Trung Hoa 5 triệu người mỗi phát minh và châu Âu 10 triệu người.
Bảng thống kê này làm sáng tỏ thêm lý giải ở phần trên: Vùng Lưỡng Hà có đời sống phồn vinh sớm nhất nhờ thiên nhiên ưu đãi. Từ đó, họ có nhu cầu giao thương buôn bán với vùng Địa Trung Hải. Trong mối quan hệ đó, Hy Lạp biết sử dụng lợi thế từ vị trí chiến lược của mình trong mạng lưới giao thông ở Địa Trung Hải để phát triển kinh tế, biến Crete thành nút giao thông đường biển, biến Athens thành trung tâm thương mại quốc tế. Nhờ thế, Hy Lạp đã giàu có nhanh chóng và từng bước vươn lên thành nền văn minh hàng đầu của nhân loại.
Nền văn minh Hy Lạp phát triển rực rỡ đến thế kỷ thứ 4 trước công nguyên, sau đó dần dần đi xuống dưới triều đại Alexander đại đế[3]. Cuối cùng, khi bị La Mã xâm chiếm vào giữa thế kỷ thứ 2 trước công nguyên thì nền văn minh huy hoàng cũng bắt đầu suy tàn và sụp đổ. Đội quân La Mã đã tàn phá 70 thành phố lớn nhỏ, 150.000 người Hy Lạp bị đem bán ở các chợ nô lệ. Rất nhiều người thuộc giới tinh hoa bị bắt làm con tin giải về La Mã, chỉ riêng trong liên minh Achaea có 1000 học giả bị lưu vong, trong đó có nhà sử học tiếng tăm Polybius[4].
Từ đó về sau, vùng đất Hy Lạp trở thành một tỉnh của đế chế La Mã; trong nước thì người dân bị áp chế, giới học giả lưu vong thì như cây trốc rễ, mất hết khả năng sáng tạo, trình độ phát triển giảm dần và cả dân tộc kiệt quệ không còn sức sống. Suốt hơn 1000 năm sau, Hy Lạp không còn đóng vai trò gì đặc biệt trên bản đồ thế giới, nhân loại mất đi một nền văn minh rực rỡ nhất chưa từng có trước đó. Mãi đến thời kỳ phục hưng[5] thế kỷ 15, người châu Âu mới phục hồi lại một phần nền văn minh Hy Lạp đã mất. Châu Âu đã lấy cảm hứng từ tư tưởng các học giả thời cổ đại để xây dựng lục địa văn minh hàng đầu như chúng ta thấy ngày hôm nay.
Cũng trong thời gian đó, vùng Lưỡng Hà bị đế chế La Mã chặn mọi đường giao thông ra Địa Trung Hải, mất hết lợi thế buôn bán và phát triển chậm lại, chỉ còn Iran là giữ được sức mạnh để cố thủ vùng Tây Á, dần dần phát triển thành đế chế Ba Tư. Ở châu Á thì Trung Hoa đứng hàng đầu nhờ biết khai thác lợi thế của vùng đất trù phú bên cạnh hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử. Các nước châu Á khác không có gì đáng kể. Châu Âu trong thời gian đó, ngoài khu vực thuộc đế chế La Mã, cũng chỉ là vùng đất điêu tàn, nghèo nàn lạc hậu, nhiều nơi vẫn còn đời sống du mục và lấy nghề săn bắn làm kế sinh nhai.
1000 năm sau công nguyên: Kể từ đầu thiên niên kỷ, tình trạng chính trị châu Âu đã thay đổi. Vùng đất mà hôm nay chúng ta gọi là châu Âu bao gồm hai phần, một bên là đế chế La Mã “giàu có[6]” trải rộng đến tận biên giới Scotland và bên kia là vòng đai chung quanh rất nghèo nàn, được cư ngụ bởi nhiều sắc dân khác nhau, đa số thuộc giống dân hoang dã. Nếu kể cả vài vùng Ả Rập thuộc La Mã, thì trong thiên niên kỷ thứ nhất, châu Âu có 8 phát minh với dân số 30 triệu, so với Trung Hoa có 11 phát minh với 50 triệu dân. Như thế trình độ văn minh của hai vùng cũng tương đối ngang nhau, không hơn không kém. Vùng Lưỡng Hà và Hy Lạp, dưới sự khống chế của La Mã không còn đóng vai trò gì nữa sau công nguyên. Họ chỉ có 2 phát minh trong vòng 1000 năm.
Tình trạng đó cũng phản ánh thực tế chính trị xã hội đương thời. Mọi phát minh ở châu Âu đều xuất phát từ đế chế La Mã và sau này là đế chế Byzantine ở phía đông. Ở Trung Hoa cũng tương tự. Mọi phát minh đều xuất phát từ thời nhà Hán đến thế kỷ thứ 3, và đời nhà Tống nhà Đường vào cuối thiên niên kỷ. Khoảng thời gian ở giữa kéo dài gần 500 năm trong cả hai vùng, châu Âu và Trung Hoa, là thời gian loạn ly, chiến tranh xâu xé, nghèo đói và bệnh tật, chứ nói gì tới phát minh?
Thế kỷ 11 – Điểm uốn của lịch sử châu Âu
Bảng thống kê ở trên cho thấy là trong vòng 500 năm kế tiếp từ 1000 đến 1500, các phát minh đã chuyển dịch về phía châu Âu trong lúc Trung Hoa thì dẫm chân tại chỗ. Điều này cũng phản ánh xã hội lúc ấy. Lịch sử châu Âu trong giai đoạn này có những thay đổi vô cùng sâu sắc. Mặc dù nền văn minh chưa định hình, trình độ xã hội còn mang tính chất trung cổ, nhưng những thử nghiệm trong giai đoạn này đã đặt nền móng vững chắc cho các tiến bộ vượt bậc trong các thế kỷ về sau. Một tầng lớp trí thức mới bắt đầu thành hình, hàng loạt đại học được thành lập khắp mọi lãnh địa lớn nhỏ, chủ nghĩa nhân bản được sinh thành và phát triển nhanh chóng khắp mọi nơi, tác động lên mọi tầng lớp trong xã hội, tạo nền móng cho ý thức yêu chuộng tự do được phát triển. Quan trọng hơn hết có lẽ là, người châu Âu bắt đầu từ chối sự can thiệp của ý thức hệ tôn giáo lên đời sống chính trị, mặc dù trước sau họ vẫn là những tín đồ Kitô rất ngoan đạo[7].
Để trả lời câu hỏi tại sao châu Á phát triển chậm hơn châu Âu, có lẽ chúng ta nên khảo sát thời gian từ năm 1000 đến 1500. Các nhân tố kết cấu thành nền văn minh châu Âu đều xuất hiện rõ rệt trong giai đoạn đặc biệt này.
Jack Challoner
Nếu chúng ta cùng Jack Challoner đi xa hơn vài trăm năm sau thì sẽ thấy là thế kỷ 16 có 12 phát minh, thế kỷ 17 có 18 phát minh, thế kỷ 18 có 61 phát minh lớn thay đổi sâu sắc đời sống con người. Đại đa số các phát minh này đều đến từ châu Âu, phần còn lại của Ả Rập.
Trung Hoa không cống hiến thêm một phát minh nào kể từ năm 1500 cho đến đầu thế kỷ 20. Tại sao như thế? Yếu tố nào đã đưa văn minh châu Âu vượt xa các vùng khác? Đấy là câu hỏi vô cùng lý thú lúc triển khai đề tài văn minh châu Âu. Chúng ta sẽ trở lại dông dài sau này để tìm câu trả lời.
Đến đây, thay vì dùng quan điểm lịch sử để lý giải, chúng ta thử dùng phương pháp lượng học để bổ sung cho việc phân tích điều kiện sống của nhiều xã hội khác nhau trên thế giới.
Đời sống nhân loại thể hiện qua thống kê
Việc dùng phương pháp lượng học trong nghiên cứu lịch sử kinh tế mới được đặt ra từ 1960, sau hội nghị giữa National Bureau of Economic Research và The Economic History Association ở Mỹ[8]. Những con số khô khan của thống kê khó lòng lý giải được những tiến trình lịch sử phức tạp, nhưng chúng bổ sung rất nhiều cho việc nghiên cứu lịch sử, làm cho những lý luận phức tạp trở nên có tính thuyết phục cao hơn.
Trước hết chúng ta cần khoanh vấn đề lại một ít. Thống kê đúng hay sai tùy thuộc vào dữ liệu thu thập có đáng tin cậy hay không. Trong lúc việc thu thập dữ liệu trước đây 500 năm chưa ai đặt ra, thì giá trị thống kê giai đoạn đó cũng có tính cách tương đối. Nếu xem xét thống kê thời gian sau năm 1800 thì chúng ta sẽ có kết quả rất chính xác, nhưng thống kê thời gian trước đó thì phải dựa vào phỏng đoán.
Angus Maddison (1926-2010)
Liệu sự phỏng đoán, cho dù với phương pháp khoa học đi kèm, có cung cấp được kết quả chính xác hay không? Câu trả lời có thể là: “Lượng hóa lịch sử kinh tế qua một hệ thống số liệu nhất quán giúp ta cụ thể hoá việc so sánh quá trình phát triển giữa các nước và các khối nước. Lượng hoá đòi hỏi phỏng đoán. Làm sao ta biết được người sống vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên thời nhà Hán ở Trung Quốc có thu nhập là bao nhiêu? Angus Maddison dựa vào con số $400 trên đầu người một năm tính theo giá $US của năm 1990, là con số tối thiểu để có được một đời sống tối thiểu chẳng hạn như có nhà lợp rạ, có đủ ăn để làm việc, tồn tại và duy trì cùng một số dân sống trong cùng một khu vực và một nhà nước trung ương. Thí dụ, với dân số được biết vào thời đó qua điều tra dân số của triều đại Hán, ta có thể ước tính số thặng dư mà triều đại nhà Hán cần thu thuế để nuôi nổi vua quan và số binh lính lúc đó. Những con số ước lượng đầu tiên có thể nói đại khái như thế[9]”.
Công trình thống kê của mỗi nhà nghiên cứu có ít nhiều khác biệt, nhưng giữa các nhà thống kê hàng đầu trên thế giới, các con số đưa ra dù không giống nhau nhưng cũng không có gì mâu thuẫn. Chúng tôi chọn thống kê của giáo sư Angus Maddison vì nó đáng tin cậy, rất phong phú, bao trùm nhiều lĩnh vực, được các cơ quan quốc tế sử dụng, như Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Liên Hiệp Quốc, Ngân hàng Thế giới (WB) v.v..
Trong hai tập sách hơn 600 trang[10], Maddison cung cấp nhiều bảng thống kê bao trùm nhiều lĩnh vực. Ở đây, để thuyết minh bổ sung cho những lý giải ở phần trên, chúng tôi chọn ra ba bảng thống kê: Thu nhập đầu người (per Capita GDP) nói lên một cách tương đối mức độ phồn vinh của người dân trong một quốc gia. Thống kê dân sốtuổi thọ trung bình nói lên điều kiện sống trong từng giai đoạn.
Bảng [2]: Thu nhập đầu người trên thế giới[11] (International $ 1990)
Năm:
0
1000
1500
1600
1700
1820
1913
1973
Tây Âu
450
400
774
894
1024
1232
3473
11534
Đông Âu
400
400
462
516
566
636
1527
4985
Liên Xô cũ
400
400
500
553
611
689
1488
6058
Mỹ, Úc, Canada
400
400
400
400
473
1201
5257
16172
Châu Mỹ La Tinh
400
400
416
437
529
665
1511
4531
Nhật
400
425
500
520
570
669
1387
11439
Trung Hoa
450
450
600
600
600
600
552
839
Ấn Độ
450
450
550
550
550
533
673
853
Châu Á khác
450
450
565
565
565
565
673
2065
Phi Châu
425
416
400
400
400
418
585
1365
Toàn thế giới
444
435
565
593
615
667
1510
5709
Bảng thống kê này cho chúng ta thấy rõ một điều, trong thiên niên kỷ thứ nhất, từ năm 0 đến 1000, tất cả mọi vùng đều có một mức sống ngang nhau. Ngoại trừ một số nhỏ vua chúa quan lại có đời sống xa hoa lấy từ tiền thuế của người dân, còn lại mọi người đều có một cuộc sống hết sức thô sơ, mặc không đủ ấm, ăn vừa đủ no để làm lụng và sinh tồn, duy trì nòi giống. Cá biệt có một vài vùng trù phú giàu sang như Trung Hoa ở dọc hai bờ sông lớn, nhưng số dân ít ỏi ấy không đủ để kéo các vùng khác cùng lên.
Tiếp theo 500 năm hậu trung cổ từ 1000 đến 1500, đời sống trên thế giới đã có nhiều cải thiện đáng kể, nhưng sự khác nhau giữa vùng này vùng kia cũng bắt đầu xuất hiện. Trong lúc mức sống châu Á tăng trưởng rất chậm với Nhật tăng 20%, Trung Hoa tăng 30% thì Tây Âu tăng lên gần gấp đôi.
Đi tiếp thêm 300 năm từ 1500 sang thời cách mạng công nghiệp cho đến 1820, sự chênh lệch càng rõ rệt hơn: Trong lúc châu Á kể cả Trung Hoa dẫm chân tại chỗ, Nhật, Đông Âu và châu Mỹ La Tinh chỉ tăng lên một ít, thì Tây Âu, Bắc Mỹ và Úc đã vượt lên một cách ngoạn mục, tạo nên một khoảng cách ngày càng lớn.
Để có hình ảnh đúng đắn về điều kiện sống của các vùng, chúng ta ghi nhận thêm hai bảng thống kê bên dưới: thống kê về dân số, độ tăng trưởng dân số và tuổi thọ trung bình của người dân. Các số liệu đó biểu diễn một cách tương đối mức sống của con người, tình trạng sản xuất thực phẩm, khả năng chống chọi với bệnh tật, chiến tranh, nạn đói, bệnh dịch v.v.. Khi tỉ lệ sinh đẻ không thay đổi đáng kể, thì mức độ tăng trưởng dân số cao hay thấp là chỉ số để biết mức độ tử vong ít hay nhiều, cũng là một chỉ số cho biết trình độ văn minh của xã hội. Tử vong có thể do điều kiện y tế kém sinh ra tử vong trẻ sơ sinh, hoặc chết vì bệnh dịch, hoặc do mức sản xuất thực phẩm thấp sinh ra nạn đói hoặc chết sớm vì thiếu dinh dưỡng, hoặc do chiến tranh v.v..
Bảng [3]: Dân số thế giới[12]. Đơn vị: triệu người
Năm:
0
1000
1500
1600
1700
1820
1913
1973
Tây Âu
24,7
25,4
57,3
73,8
81,5
133
261
359
Đông Âu
4,7
6,5
13,5
16,9
18,8
36,4
79,5
110
Liên Xô cũ
3,9
7,1
16,9
20,7
26,5
54,7
156
250
Mỹ, Úc, Canada
1,2
1,9
2,8
2,3
1,7
11,2
111
251
Châu Mỹ La Tinh
5,6
11,4
17,5
8,6
12,1
21,7
80,9
308
Nhật
3,0
7,5
15,4
18,5
27,0
31,0
51,6
109
Trung Hoa
59,6
59,0
103
160
138
381
437
882
Ấn Độ
75,0
75,0
110
135
165
209
304
580
Châu Á khác
36,6
41,4
55,4
65,0
71,8
89,4
185
678
Phi Châu
16,5
32,3
46,6
55,3
61,1
74,2
125
390
Về tuổi thọ trung bình[13], tài liệu của Maddison không cung cấp chi tiết đến từng vùng như các bảng trên. Ông chia ra hai nhóm. Nhóm A bao gồm các nước ngày nay được gọi là đã phát triển, thí dụ Tây Âu, Bắc Mỹ, Úc, Tân Tây Lan, Nhật và tương tự. Nhóm B bao gồm các nước hôm nay được xếp là đang và chậm phát triển. Như thế, độ sai số ở nhóm B khá cao, vì tuổi thọ trung bình ở các nước đang phát triển gần bằng các nước nhóm A, trong lúc ở các nước chậm phát triển thì thấp hơn nhiều.
Bảng [4]: Tuổi thọ trung bình[14]
Năm:
1000
1820
1900
1950
1999
Nhóm A
24
36
46
66
78
Nhóm B
24
24
26
44
64
Toàn thế giới
24
26
31
49
66
Từ hai bảng thống kê trên, chúng ta có thể rút ra kết luận, rằng tăng trưởng dân số bình quân trên thế giới trong thiên niên kỷ thứ nhất không đáng kể, biểu hiện tình trạng chết chóc gần ngang bằng số lượng sinh đẻ. Nguyên do một phần từ mức cung ứng thực phẩm không đầy đủ, hoặc điều kiện sống nghèo nàn, không đủ để chống chọi với thiên nhiên, phần khác do chiến tranh sinh ra tử vong nhiều và mùa màng bị phá hủy. Chúng ta có thể thấy rõ các hiện tượng ấy khi ngoảnh nhìn lại lịch sử châu Âu trong thời gian từ năm 0 đến 800, tức là năm Charlemagne đại đế thống nhất Trung Âu. Trong thời gian đó, chưa có một thập niên nào mà mọi vùng đều được sống trong hòa bình để yên ổn làm ăn, đặc biệt tệ hại nhất là hai thế kỷ thứ 4 và 5, khi đế chế Tây La Mã bắt đầu suy tàn bởi sự tấn công liên tục của các giống dân Hun, Goths, Vandals từ phía đông tràn về. Ở Trung Hoa, đó là thời loạn ly Tam Quốc, Thập Lục Quốc, Nam Bắc Triều kéo dài suốt 400 năm cho đến khi được nhà Đường thống nhất thành một mối.
Kết luận
Trên đây trong bài 1a và 1b, chúng ta sử dụng ba phương pháp khác nhau để khảo sát mức độ phát triển các vùng khác nhau trên thế giới: a) dựa trên quan điểm lịch sử, b) dựa vào các phát minh, c) cuối cùng bổ sung bằng thống kê. Ba phương pháp này đều cung cấp kết quả tương đối ăn khớp nhau. 
Nếu lấy năm 1000 làm chuẩn trong lịch sử kinh tế, thì chúng ta có thể khẳng định mà không sợ sai lầm, rằng tại điểm khởi đầu vào năm 1000, mọi dân tộc đều nghèo nàn lạc hậu như nhau.
Chúng ta đã đứng trên góc nhìn lịch sử để lý giải tại sao có giống dân thì văn minh trước, giống dân khác chậm phát triển hơn. Hoàn toàn không có yếu tố nhân chủng tác động vào tiến trình lịch sử ấy. Không có giống dân thượng đẳng, cũng không có giống dân nào tự bản chất là tối tăm kém cỏi. Trong thời cổ đại, nhờ thiên nhiên ưu đãi mà các vùng Lưỡng Hà, Ai Cập, Indus, Trung Hoa v.v. có điều kiện phát triển ngành trồng trọt chăn nuôi, tạo nên nếp sống định cư định canh thay vì phải lang thang săn bắn. Đấy chính là bước khởi đầu của xã hội văn minh.
Những bước phát triển tiếp theo được thúc đẩy bởi sự giàu có của từng vùng. Cuộc sống các giống dân định cư ngày càng sung túc, thực phẩm dư thừa tạo nên nhu cầu giao thương buôn bán, trao đổi, tiếp cận với các vùng chung quanh. Quá trình giao lưu ấy làm cho xã hội tiến lên, kho tàng tri thức ngày càng nhiều đã giúp họ thêm sáng kiến để tạo nên phương tiện cải thiện đời sống và tri thức quản lý xã hội. Tiến bộ đó sẽ tác động ngược trở lại để nâng cao sản xuất. Dân tộc nào hiểu được quá trình phát triển theo vòng trôn ốc ấy, dân tộc ấy có khả năng vươn lên nhanh hơn các dân tộc khác. Ở đây có hai yếu tố quan trọng: Trình độ sản xuất được nâng cao hoặc hoạt động kinh doanh có hiệu quả, hoặc cả hai làm cho tài sản được tích lũy thêm.
Hy Lạp là một trường hợp điển hình. Mặc dù chỉ là một bán đảo khô cằn, nhưng họ biết lợi dụng vị trí đặc biệt trong mạng lưới giao thông vùng Địa Trung Hải, thu hút các hoạt động thương mại, biến Athens thành trung tâm giao lưu với các vùng văn minh khác. Họ nhanh chóng giàu có, sớm bãi bỏ chế độ nô lệ, phát triển nền chính trị dân chủ dù chỉ là sơ khai, xây dựng nếp sống văn minh bằng những phát kiến về tư tưởng triết học, thành lập viện hàn lâm, nghiên cứu vũ trụ, xây dựng ngành toán học và các ngành khoa học khác[15]. Hy Lạp đã sản sinh vô vàn nhân vật xuất sắc mà tri thức từ 2500 năm trước vẫn còn có ảnh hưởng đến ngày hôm nay, thí dụ như Socrates, Plato, Aristotle, Euclid, Archimedes, Ptolemy, Hippocrates v.v.. Việc bãi bỏ nô lệ rất sớm và tư tưởng tự do phóng khoáng không giáo điều có lẽ là những thành tố quan trọng hàng đầu để cho Hy Lạp có thể xây dựng một nền văn minh có một không hai trong lịch sử thời cổ đại.
Nhưng đấy là sự phát triển trong điều kiện sơ khai. Khi xã hội đã phát triển đến mức cao hơn, điều kiện dẫn đến tiến bộ và phát triển cũng thay đổi. Dân tộc nào không nhận thức được đòi hỏi của xã hội mới để tìm biện pháp thích ứng, nền văn minh của họ cũng có thể suy tàn và sụp đổ.
Từ thời cổ đại bước sang thời trung cổ, nhân tố thúc đẩy phát triển xã hội đã có nhiều thay đổi. Với sự hình thành tầng lớp giáo sĩ ngày càng đông đảo và quyền lực giáo hội ngày càng mạnh, tu viện Kitô giáo trở thành điểm trung tâm thu hút mọi giới. Nó vừa là viện nghiên cứu giáo lý phục vụ cho nhu cầu của giáo hội, vừa là lò đào tạo giới tinh hoa cung ứng cho nhu cầu của xã hội. “Không có cây cối nào có thể trở nên xanh tươi, nếu không được ươm trồng từ tu viện”. Mọi doanh nhân giàu có đều xem tu viện là nấc thang kế tiếp cho con cái họ để vươn lên tầng cao trong xã hội. Bằng sự giàu có, họ tiếp cận dễ dàng với vương triều, bằng tri thức, họ có ảnh hưởng mạnh lên mọi giới khác trong xã hội. Đấy là ảnh hưởng của giới quí tộc phong kiến châu Âu trong thời gian cuối của thiên niên kỷ thứ nhất sau công nguyên. Thuật ngữ quí tộc gắn liền với giàu sang và trình độ học vấn. Trên ngưỡng cửa năm 1000, tri thức đã trở thành yếu tố ngày càng quan trọng trong việc phát triển xã hội.
Bước sang thiên niên kỷ thứ hai, với sự thành lập hàng loạt đại học khắp nơi như Bologna, Paris, Rome, Oxford, Cambridge, Lisbon v.v. vai trò đào tạo giới tinh hoa của các tu viện dần dần mất vị trí độc tôn. Sinh viên nào không thích sự gò bó của tu viện thì có thể theo học đại học, chừng mực nào cũng là phương tiện để đạt vị trí cao trong xã hội. Cũng nhờ sự tồn tại song song của tu viện và đại học, mà nội dung giảng dạy phong phú và đa dạng hơn, sinh viên có cơ hội tiếp cận nhiều kiến thức phóng khoáng về mặt lý luận.
Đến thế kỷ 17 và 18, vai trò của tư tưởng trở thành động lực chủ đạo quyết định xu hướng phát triển của xã hội. Tư tưởng tự do bình đẳng đã trở thành xung lực mạnh mẽ cho hai cuộc cách mạng làm rung chuyển hoàn cầu: cách mạng ở Mỹ năm 1776 và cách mạng Pháp năm 1789, mở đầu cho giai đoạn hoàn toàn mới mẻ, không những thay đổi thể chế chính trị trong nhiều nước, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc cách mạng công nghiệp phát triển mạnh, làm vai trò vừa là nhân vừa là quả cho tăng trưởng kinh tế. Cũng cần ghi nhận thêm là, cho dù người châu Âu rất ngoan đạo, nhưng họ đã tự giải thoát ra khỏi ý thức hệ tôn giáo trong việc xây dựng thể chế chính trị. Giáo hội không còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị kể từ thế kỷ 18.
Chúng ta sẽ trở lại đề tài này trong những chương sau.
Khi phân tích lịch sử văn minh châu Âu trong thiên niên kỷ thứ II, và kết hợp với những minh chứng từ thống kê kinh tế, chúng ta sẽ trả lời được những câu hỏi vô cùng lý thú: Tại sao sự phát triển tại Tây Âu và Đông Âu đã khác nhau từ đầu? Tại sao châu Á dẫm chân tại chỗ suốt 800 năm, trong lúc Tây Âu vươn lên nhanh chóng? Tại sao Tây Ban Nha từng là đế chế hùng mạnh nhất châu Âu vào thế kỷ 16, lại thụt lùi và nhường chỗ cho Anh và Pháp vào thế kỷ 18? Tại sao Nhật có thể rút ngắn khoảng cách Âu – Á trong vòng một thế kỷ? Đâu là những thành tố chủ đạo kết cấu thành nền văn minh? Và còn nhiều câu hỏi khác.
Tác giả: Tôn Thất Thông, CHLB Đức
(Độc giả có quyền trích dẫn không giới hạn, nhưng cần ghi rõ nguồn. Để theo dõi nội dung này một cách đầy đủ hơn, xin mời quí vị tham khảo cuốn “Lịch sử văn minh châu Âu – Khảo sát tổng quát các giai đoạn” của cùng tác giả)
Tài liệu tham khảo
1.   Burckhardt, Jacob
Văn hóa thời phục hưng ở Ý (Die Kultur der Renaissance in Italien). ISBN 3-933-20389-9
2.   Challoner, Jack
1001 phát minh thay đổi thế giới (1001 Inventions that changed the world). ISBN 978-1-84403-611-0
3.   Diamond, Jared
Sự sụp đổ - Tại sao các xã hội tồn tại hoặc suy tàn. (Kollaps – Warum Gesellschaften überleben oder untergehen. Sebastian Vogel dịch từ tiếng Anh: Collapse – How Societies Choose to Fail or Succeed).
ISBN 978-3-596-16730-2
4.   Guizot, François
Lịch sử Văn minh châu Âu (The History of Civilization in Europe - William Hazlitt dịch từ tiếng Pháp: Histoire Générale de la Civilisation en Europe). Penguin Books 1997
5.   Lotze, Detlef
Lịch sử Hy Lạp – Từ cội nguồn đến thời đại Hellen (Griechische Geschichte – Von den Anfängen bis zum Hellenismus). ISBN 3-406-39500-7
6.   Maddison, Angus
Kinh tế thế giới - Tập I và II (The World Economy – Volume I & II). ISBN 92-64-02261-9
7.   Samhaber, Ernst
Lịch sử châu Âu (Geschichte Europas). ISBN 3-771-30169-6
8.   Stevenson, Leslie; Haberman, David L. & Wright, Peter M.
Mười hai học thuyết về bản tính con người (Lưu Hồng Khanh dịch từ tiếng Anh: Twelve Theories of Human Nature). ISBN 978-604-956-006-4
9.   Van Doren, Charles
Lịch sử của tri thức (Geschichte des Wissens. Anita Ehler dịch từ tiếng Anh: A history of knowledge). ISBN 3-764-35324-4
10.        Vũ Quang Việt




Chú thích:
[1] Xem tài liệu [2], J. Challoner, sách dày 1000 trang.

[2] Xem tài liệu [6], A. Maddison (1926-2010), bảng thống kê dân số trang 636

[3] Alexander đại đế (356-323 trước công nguyên) là người Marcedonia, sau khi thắng Hy Lạp đã choáng ngợp bởi sự huy hoàng tráng lệ của Athens cho nên khi thống nhất các vùng đất chiếm được, ông xây dựng đế chế theo khuôn mẫu văn minh Hy Lạp. Nhưng Alexander đại đế là vị vua háo thắng, đánh giặc giỏi nhưng trí tuệ kém, không học được chút gì từ vị thầy uyên bác Aristotle. Các vị vua kế nghiệp đều là những kẻ bất tài. Hy Lạp từ đó suy yếu.

[4] Xem tài liệu [5], D. Lotze trang 106. Polybius là tác giả của một bộ sử gồm 40 tập. Tư trưởng của ông còn có ảnh hưởng đến phong trào khai sáng thế kỷ 17.

[5] Gọi là thời kỳ Renaissance (Rebirth), có thể xem như là thời kỳ chuyển tiếp từ cuối thời trung cổ để bước sang giai đoạn đầu của thời kỳ hiện đại.

[6] Xin lý giải thêm về giàu có: Trong vùng đế chế La Mã, chỉ có một tầng lớp giáo sĩ và quí tộc thiểu số có đời sống xa hoa phung phí, chiếm ngự những lầu đài nguy nga tráng lệ, còn lại 90% người dân vẫn nghèo nàn, của cải làm ra phần lớn để đóng thuế cho vua chúa và giáo hội, còn lại vừa đủ để sinh tồn. Cho đến cuối thiên niên kỷ thứ nhất, 90% dân châu Âu vẫn còn mù chữ.

[7] Trong thực tế, châu Âu cần đến 500 năm sau mới đẩy lùi ý thức hệ tôn giáo ra khỏi đời sống chính trị và khoa học.

[8] Xem tài liệu [10], Vũ Quang Việt

[9] Xem tài liệu [10], Vũ Quang Việt

[10] Xem tài liệu [6], A. Maddison – The World Economy Vol. I + II

[11] Xem tài liệu [6], A. Maddison trang 642. Đơn vị là US$ mỗi năm, tính theo sức mua so sánh (PPP – Parity Purchase Power) tại Mỹ năm 1990, còn gọi là International $ 1990 hay Geary-Khamis $ 1990.

[12] Xem tài liệu [6], A. Maddison trang 636.

[13] Xin lưu ý, “trung bình“ (Median) không có nghĩa là cộng lại chia đều. Trong một vùng có 1000 người, nếu được sắp theo thứ tự từ trẻ đến già (kể cả người đã chết), tuổi thọ người thứ 500 gọi là tuổi thọ trung bình của nhóm đó. Nếu tuổi thọ trung bình là 24, có nghĩa là có người chết lúc một tuổi, người khác sống đến 80.

[14] Xem tài liệu [6], A. Maddison trang 33

[15] Có phải Singapore đã học được bài học Hy Lạp thời cổ đại? Có phải họ biết thích nghi bài học đó vào điều kiện kinh tế thế kỷ 20 để biến Singapore từ một làng chài nhỏ bé trở thành nền kinh tế mạnh của châu Á sau chưa đầy 30 năm?

Print Friendly and PDF