29.1.20

Chức năng xã hội của sử học ở miền Bắc Việt Nam (1954-1975): nghiên cứu trường hợp của sử luận Quang Trung -Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn


CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA SỬ HỌC Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM (1954-1975): NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP SỬ LUẬN QUANG TRUNG – NGUYỄN HUỆ VÀ PHONG TRÀO TÂY SƠN
Vũ Thị Thu Thanh
Tóm tắt
Sử học mang hai chức năng chính là chức năng xã hội và chức năng tri thức. Nhưng do sử học có liên quan mật thiết đến chính trị và nhà viết sử không thể thoát ra ngoài con người xã hội của mình nên hai chức năng này luôn luôn song hành trong một nghiên cứu lịch sử. Trong giai đoạn 1954-1975, sử học miền Bắc được giao hai nhiệm vụ cách mạng lớn: góp phần xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sử học trở thành một “vũ khí chiến đấu” trên mặt trận tư tưởng, vì thế chức năng xã hội lấn át chức năng tri thức. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng sử luận của sử gia miền Bắc về Quang Trung – Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn để phân tích nhằm minh chứng cho chức năng xã hội của sử học miền Bắc trong giai đoạn này.
Từ khóa: sử học, chức năng xã hội, chức năng tri thức, Quang Trung, Nguyễn Huệ, phong trào Tây Sơn
Đặt vấn đề
Claude Levi-Strauss (1908-2009)
Người viết sử mang một lý tưởng là có thể viết lại lịch sử y như những gì nó thực sự xảy ra một cách đầy đủ và khách quan. Tuy nhiên, trên thực tế những dấu vết của quá khứ không bao giờ được toàn vẹn và đầy đủ, và đôi khi những dấu vết đó được ngụy tạo cho một mục đích nào đó hay được hiểu theo cách nào đó từ người sử dụng và sau cùng nhà sử học khó thoát khỏi con người xã hội của chính mình trong xã hội đương đại mà anh ta đang sống cùng với vốn hiểu biết và nhân sinh quan của anh ấy. Khi trần thuật câu chuyện lịch sử quốc gia, nhà sử học có thể đóng rất nhiều vai: nhà chính trị, nhà khoa học, nhà giáo dục hay nhà ái quốc. Anh ta mong muốn rút ra từ trong quá khứ những ý nghĩa cần thiết để đáp ứng những điều hướng và nhu cầu của hiện tại theo nghĩa “ôn cố tri tân”. Do vậy, sử học theo cách nào đó, nó là một loại “kiến thức được kiến tạo”. Nhà cấu trúc luận Claude Levi-Strauss quả quyết “sử học chưa bao giờ là lịch sử [vốn như nó là lịch sử xảy ra] mà là sử học vì.”[1] Giữa cái lý tưởng khoa học mà nhà viết sử muốn vươn đến và cái xã hội vốn đang chi phối cái nhãn giới của nhà viết sử thì chức năng xã hội và chức năng tri thức luôn đi song hành với nhau. Tùy vào hoàn cảnh xã hội ở những thời điểm nhất định, đặc biệt khi có sự thúc ép của hiện tại, chức năng xã hội sẽ có mức độ đậm hơn chức năng tri thức khi viết sử và ngược lại.
Phan Huy Lê (1934-2018)
Trần Huy Liệu (1901-1969)
Như chúng ta đã biết sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền với hai chính thể khác nhau. Hai miền theo đuổi một nghị trình xây dựng quốc gia dựa trên những tư tưởng chính trị khác nhau. Với chế độ công hữu, kinh tế kế hoạch hóa tập trung và một hệ thống chính trị thống nhất tập trung quyền lực, miền Bắc Việt Nam mong muốn tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho nhiệm vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Để hỗ trợ cho nghị trình đó, sử học có một vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa quá khứ với hiện tại, kết nối giữa truyền thống với các mục tiêu hiện tại của nhà nước và chính quyền. Trong đó, việc xóa bỏ những tàn tích phong kiến, thực dân, xác lập bản sắc dân tộc và làm rõ tính liên tục của lịch sử đấu tranh trong sự nghiệp giải phóng miền Nam là nhiệm vụ của sử học miền Bắc. Những sử gia góp phần làm nên diện mạo của sử học miền Bắc giai đoạn này gồm có: Trần Huy Liệu, Văn Tân, Phan Huy Lê, Văn Tạo, Nguyễn Lương Bích, Nguyễn Hồng Phong, Minh Tranh, Nguyễn Đổng Chi, Trương Hữu Quýnh, Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Hà Văn Tấn… diễn đàn lớn nhất cho giới sử học miền Bắc trong giai đoạn này là tập san Văn Sử Địa (1954-1959) và tạp chí Nghiên cứu lịch sử bắt đầu từ 1959 tồn tại cho đến ngày nay.
Trong bài viết Sử học trong công tác đấu tranh tư tưởng hiện nay, Trần Huy Liệu, Trưởng ban Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, phụ trách tổ Lịch sử (1953-1959), Viện Trưởng Viện Sử học – Tổng biên tập tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (1960-1969), cho rằng “[T]rong công cuộc đấu tranh giải phóng cho giai cấp, cho dân tộc, đông đảo quần chúng đang sáng tạo ra lịch sử. Các nhà sử học với lợi khí của mình có thể phục vụ đắc lực cho công cuộc bảo vệ hòa bình, chống đế quốc chủ nghĩa, giành phần thắng lợi trong công cuộc đấu tranh tư tưởng” (Trần Huy Liệu, 1962, tr.3). Để biết các sử gia miền Bắc đã sử dụng vũ khí này như thế nào trong việc xây dựng quốc gia – dân tộc, cho các nghị trình chính trị - xã hội, chúng tôi đã khảo cứu lại các bài viết trên tạp san Văn Sử Địa và tạp chí Nghiên cứu Lịch sử nhằm khám phá các chức năng xã hội của sử học trong giai đoạn 1954 - 1975, cụ thể là thông qua việc phân tích sử luận của các sử gia miền Bắc về Quang Trung – Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn. Đây là một sự kiện lịch sử thu hút nhiều sự quan tâm nghiên cứu của giới sử học miền Bắc lúc bấy giờ.
Tổng quan nghiên cứu
Arthur Schlesinger (1917-2007)
Arthur Schlesinger, trong bài viết Chủ nghĩa dân tộc và sử học, nói rằng tại bất cứ thời điểm nào, chúng ta luôn có xu hướng viện dẫn đến lịch sử như một phần hữu cơ của tiến trình ý thức dân tộc. Người thích hợp làm công việc đó không ai khác hơn là nhà sử học, anh ta hiểu được lý tưởng của dân tộc mình từ quá khứ xa xôi và bằng công cụ sử học, anh ta cố gắng thiết lập tính hợp pháp về tính cách dân tộc và tính liên tục của truyền thống dân tộc (Schlesinger, 1969, tr. 22). Thật vậy, nhận xét về sử học miền Bắc trong giai đoạn 1954-1975, Phùng Hữu Phú nói rõ “thành tựu nổi bật nhất của sử học Việt Nam trong những thập niên 50-70 là khai thác, phát huy truyền thống yêu nước, đánh giặc của cha ông, góp phần cổ vũ, động viên, hướng dẫn đồng bào, chiến sĩ nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai” (Phùng Hữu Phú, 1997, tr. 246) và “những kết quả nghiên cứu này, thông qua các ấn phẩm, các phương tiện đại chúng và đội ngũ cán bộ tuyên huấn, tuyên truyền… đã thấm vào tư tưởng, tình cảm của đông đảo đồng bào, chiến sĩ trên các mặt trận sản xuất, chiến đấu, góp phần tạo ra sức mạnh Việt Nam trong cuộc đọ sức lịch sử với thế lực đế quốc hùng mạnh, hung hãn nhất” (Phùng Hữu Phú, 1997, tr. 247-8).  
Vì sử học miền Bắc nhấn mạnh đến những chức năng xã hội trong giai đoạn chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nên một số nhân vật, một số triều đại bị lên án mạnh mẽ để tỏ rõ sự phân lập giữa chính nghĩa – phi nghĩa, phản động – tiến bộ, tư sản – vô sản, bán nước – cứu nước. Nhưng từ Đổi mới cho đến nay, khi các nhiệm vụ này không còn quan trọng nữa, những nhân vật và triều đại được cho là phản động trước đây đã và đang được đánh giá lại (công nhận Việt Nam Cộng hòa, không sử dụng từ Mỹ-Ngụy, nhận thức lại vai trò của nhà Hồ, nhà Mạc, nhà Nguyễn, đánh giá lại các nhân vật lịch sử như Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký…). Các nhà sử học Việt Nam có uy tín thừa nhận rằng việc nhìn nhận và đánh giá sai một số nhân vật, triều đại trong lịch sử sử học Việt Nam là do “cuộc tranh luận lúc bấy giờ diễn ra trong hoàn cảnh cuộc chiến tranh dân tộc đang phát triển gay gắt mà mục tiêu cao nhất của nhân dân cả nước là chống xâm lược, là độc lập và thống nhất Tổ quốc. Yêu cầu của cuộc đấu tranh dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của nhà sử học đối với đất nước dĩ nhiên có ảnh hưởng chung của cuộc thảo luận” (Phan Huy Lê, 2015, tr. 292) và “đơn giản chỉ là một sự lên án đối với trách nhiệm được định danh là “bán nước” vào thời điểm đất nước còn đang bị chia cắt và cuộc chiến tranh giải phóng đang là nhiệm vụ trung tâm của cách mạng” (Dương Trung Quốc, 2015, tr. 6).
Trong hai năm 2017 và 2018, đã có một cuộc tranh luận gay gắt giữa các nhà sử học có uy tín được Đảng và Nhà nước Việt Nam giao nhiệm vụ biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam (25 tập, hay còn gọi là bộ Quốc sử Việt Nam) với một số nhà nghiên cứu lịch sử được cho là đang ôm giữ những nhận thức lịch sử cũ của thời kì chiến tranh, mà giờ đây đã không còn phù hợp với bối cảnh chính trị - xã hội mới, và cũng không cập nhật những kết quả nghiên cứu của giới sử học Việt Nam trong mấy chục năm qua. Diễn đàn cho các nhà nghiên cứu lịch sử theo quan điểm cũ là tạp chí Văn Nghệ tại thành phố Hồ Chí Minh (xem phụ lục Xưa và Nay, tr. 191-192), và toàn bộ bài phản biện của các nhà sử học đang biên soạn bộ “Quốc sử” với nhận thức mới được in thành cuốn Mấy vấn đề sử học Việt Nam cần làm sáng tỏ. Các nhà sử học với quan điểm mới cho rằng giai đoạn 1954-1975 là giai đoạn mà sử học miền Bắc cùng với các ngành khoa học khác là vũ khí chiến đấu để phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, không nên lấy những quan điểm bao thủ, giáo điều của một thời kì, lấy ý kiến Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh một cách máy móc, cũng như ý kiến một số nhà lãnh đạo hay nhà khoa học có uy danh trong thời kì chống Pháp và chống Mỹ và xem đó là khuôn vàng thước ngọc để làm chân lý, làm tiêu chí đánh giá (Phan Huy Lê, 2018, tr. 10; Nguyễn Quang Ngọc, 2018 tr. 49; Vũ Văn Quân, 2018, tr. 94, 97, 105; Phạm Hồng Tung, 2018, tr. 174-5; Xưa và Nay, 2018, tr. 187). Cuộc tranh luận này thực chất là sự thay đổi một mẫu hình giải thích lịch sử mới hay một khung phân tích mới cho lịch sử Việt Nam căn cứ trên những thay đổi của bối cảnh xã hội ở hiện tại.
Jean Chesneaux (1922-2007)
Nguyễn Ánh (1762-1820)
Lịch sử Việt Nam thời kì Tây Sơn nổi dậy trong sử học miền Bắc giai đoạn 1954 - 1975 được giới viết sử lúc bấy giờ “mặc nhiên cho rằng tất cả những gì của Tây Sơn đều là tiến bộ và cách mạng” (Nguyễn Quang Ngọc, 2018, tr.48) và “Nguyễn Huệ đã thực sự thực hiện nền thống nhất quốc gia vào năm 1786, còn Nguyễn Ánh chỉ thừa hưởng sự nghiệp thống nhất của Nguyễn Huệ” (Phan Huy Lê, 2018, tr.10). Trong bài viết bàn về Công cuộc khôi phục thống nhất Quốc gia cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX nhằm trao đổi với các tác giả trên tuần báo Văn Nghệ, Phan Huy Lê đã dẫn chứng các sự kiện và sử liệu để thấy rằng Nguyễn Huệ không phải là người thống nhất đất nước nhưng Quang Trung – Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn đã đặt cơ sở cho sự thống nhất đất nước. Gia Long – Nguyễn Ánh mới chính là người thống nhất đất nước trên nhiều phương diện: lãnh thổ, tổ chức chính quyền và quản lý hành chính. Phan Huy Lê cũng cho rằng các tác giả trên tuần báo Văn Nghệ đã lặp lại y nguyên một quan điểm cực đoan trong cuộc tranh luận vào những năm 1959-1963 giữa Văn Tân ở Hà Nội, Lê Thành Khôi ở Paris và Nguyễn Phương ở Sài Gòn trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Bách Khoa và tạp chí Đại học. Quan điểm cực đoan vào lúc đó đã cho rằng Nguyễn Huệ là người đã thống nhất đất nước vào năm 1786. Theo Phan Huy Lê, việc lặp lại quan điểm cực đoan đó là do các tác giả không cập nhật những kết quả nghiên cứu và thảo luận của giới sử học Việt Nam trong ba thập niên trở lại đây. Nếu như Jean Chesneaux và các tác giả trên tuần báo Văn Nghệ cho rằng Tây Sơn đã thực sự lập lại nền thống nhất, còn việc phân chia ba vùng cai quản chỉ là phân chia quyền quản lý thì Phan Huy Lê cho rằng đó là “sự thành lập những chính quyền riêng biệt và xung khắc lẫn nhau” (Phan Huy Lê, 2018, tr. 9, 15). Về triều đại Tây Sơn, Phan Huy Lê cho rằng trong điều kiện kinh tế - xã hội – cuối thế kỷ thế kỷ XVIII, triều đại Tây Sơn dần dần trở thành một chính quyền phong kiến và trong triều đại Tây Sơn có ba chính quyền thì chính quyền của Quang Trung là tiến bộ nhất, thực hiện nhiều chính sách canh tân đất nước, mở ra triển vọng phát triển mới cho xã hội.
Patricia M. Pelley

Phân tích các chức năng xã hội của sử luận về Quang Trung – Nguyễn Huệ của các sử gia miền Bắc đã được các học giả quốc tế chú ý rất sớm. Wynn Wilcox (2003) so sánh sử luận của sử gia miền Bắc và miền Nam Việt Nam chủ yếu qua cuộc tranh luận công khai giữa ba nhà sử học đến từ Pháp, Hà Nội và Sài Gòn vào khoảng thời gian 1959 đến 1964 về vấn đề ai là người thống nhất Việt Nam như chúng tôi đã nêu ở trên. Cuộc tranh luận giữa Văn Tân và Lê Thành Khôi diễn ra vào những năm 1959 – 1960 và cuộc tranh luận giữa Văn Tân và Nguyễn Phương diễn ra vào những năm 1963 – 1965. Lê Thành Khôi và Nguyễn Phương cho rằng Nguyễn Ánh là người thống nhất Việt Nam năm 1802, còn Văn Tân cho rằng Nguyễn Huệ là người thống nhất Việt Nam năm 1788. Wynn Wilcox nhận thấy rằng cuộc tranh luận về chủ đề này đã tiết lộ những khía cạnh mà cả hai bên không đồng tình với nhau, không chỉ bởi vì sự khác nhau về tư tưởng mà họ có những ý niệm khác nhau cơ bản về cái gì cấu tạo nên quốc gia Việt Nam. Đối với sử gia cho rằng Nguyễn Ánh là người thống nhất Việt Nam từ miền Nam thì “Việt Nam” là một không gian địa lý. Đối với Văn Tân, quốc gia là một thực thể cảm xúc, Nguyễn Huệ là người thống nhất bởi ông là người thu phục nhân tâm của người Việt Nam về một mối. Wynn Wilcox nhận thấy rằng các sử gia miền Bắc đã khéo léo sử dụng sử học như là một vũ khí biểu trưng cho tinh thần thống nhất, độc lập dân tộc ở miền Bắc để chống lại Mỹ và chính quyền miền Nam. Trong cuộc tranh luận với Nguyễn Phương, Văn Tân ngụ ý sự tương đồng về bối cảnh chính trị giai đoạn 1771 – 1802 với bối cảnh chính trị giai đoạn 1954 – 1975 giữa Tây Sơn và nhà Nguyễn và giữa miền Bắc và miền Nam trong vấn đề thống nhất đất nước. Văn Tân cho rằng Nguyễn Phương bênh vực cho Nguyễn Ánh, người đã đưa quân Xiêm và thực dân Pháp vào Việt Nam, tức Nguyễn Phương đã ủng hộ cho Ngô Đình Diệm, đang đưa thực dân Mỹ vào miền Nam (Wilcox, 2003, xem thêm Nhung, Tuyet Tran and Anthony Reid, 2006). Cũng đưa ra một nhận định tương tự, Patricia M. Pelley, tác giả cuốn Postcolonial Vietnam: New Histories of the National Past, cho biết các sử gia miền Bắc đã áp dụng lối viết ẩn dụ gắn hiện trạng Việt Nam ở thế kỷ XX với hiện trạng Việt Nam ở thế kỷ XVIII, coi cách mạng Tây Sơn như là một mẫu hình của “cuộc chiến tranh nhân dân” và thông qua một loạt các phân tích, các sử gia miền Bắc muốn ẩn ý rằng Ngô Đình Diệm là hiện thân cho vua Lê Chiêu Thống cầu viện quân đội nước ngoài, chiếm đóng và chia cắt đất nước (Pelley, 2002).
Sự đối nghịch trong sử luận giữa Quang Trung – Nguyễn Huệ và Gia Long – Nguyễn Ánh của sử học miền Nam và sử học miền Bắc cũng dẫn đến những khoảng trống trong nghiên cứu ở hai miền. Claudine Ang (2013) nhận thấy chủ đề “nam tiến” được các sử gia miền Nam quan tâm nhiều hơn các sử gia miền Bắc. Ang cho rằng các sử gia miền Bắc rất ngần ngại tham gia vào chủ đề này vì hai lý do. Thứ nhất là vấn đề dân tộc vì các sử gia miền Bắc khẳng định rằng Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc việc khai thác chủ đề này có thể dụng đến các dân tộc khác như Chăm, Khmer. Thứ hai là tình trạng chia đôi đất nước đương thời mà vùng đất phía Nam lại chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi các vua chúa Nguyễn mà đối với sử gia miền Bắc là một triều đại phản động. Vì vậy, việc khai thác chủ đề này không có lợi cho những trần thuật lịch sử ở miền Bắc (Ang, 2013).
Nguyễn Huệ (1753-1792)
Đã có một số ý kiến cho rằng triều đại Tây Sơn ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo trong cấu trúc xã hội và chính quyền (Woodside, 1971). Về phương diện này, Dutton (2005) lại khẳng định rằng triều đại Tây Sơn vẫn chịu ảnh hưởng Nho giáo, sự ảnh hưởng đó không mạnh cũng không yếu, bởi vì nhu cầu hết sức thiết thực và cần thiết cho một triều đại mới khi phải đối mặt với sự tan rã về mặt kinh tế - chính trị - xã hội sau một thời gian dài chiến tranh và đồng thời, lúc bấy giờ giới sĩ phu Đàng Ngoài cũng rất mong muốn khôi phục lại trật tự xã hội cũ. Dutton cho rằng điều này là hoàn toàn dễ hiểu vì sự nhấn mạnh của Nho giáo đối với trật tự xã hội và sự quản trị hữu ích đã làm cho nó trở thành một mô hình thực tế được triều đại Tây Sơn lựa chọn sau một cuộc chiến tranh kéo dài và nhiều biến động xã hội (Dutton, 2005). Trong công trình đầy đủ về phong trào Tây Sơn, Dutton (2019, Lê Nguyễn dịch) mạnh dạn cho rằng “các nhà lãnh tụ Tây Sơn không phải là những người canh tân, hay những nhà cách mạng, mà chỉ là những kẻ cơ hội về chính trị. Họ tỏ ra thực dụng khi đưa ra nhiều lời kêu gọi khác nhau, theo nhiều cách khác nhau, vào những thời điểm khác nhau, sử dụng những công cụ tìm thấy và những tình huống bắt gặp được để tranh thủ sự ủng hộ và để hợp pháp hóa bản thân họ cũng như phong trào của họ.” (Dutton, 2019, tr. 116). Những kết luận này của Dutton gần như đã phủ nhận và đối thoại lại toàn bộ sử luận về Quang Trung – Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn của các sử gia miền Bắc trong giai đoạn 1954-1975. Tuy vậy, nó có thể trở thành “ngòi nổ” để mở ra cuộc tranh luận học thuật theo hướng mới về Quang Trung – Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn, vốn trước nay đang bị đi theo lối mòn.
Phần tiếp theo của bài viết, chúng tôi cố gắng đưa ra những nội dung cụ thể của chức năng xã hội mà sử học miền Bắc đã đảm nhận. Trong phần này, chúng tôi cố ý trích dẫn lại nguyên văn những luận giải và giải thích lịch sử của các sử gia miền Bắc lúc bấy giờ về Quang Trung - Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn, qua đó người đọc có thể cảm nhận cách dùng câu từ, hình ảnh, các hàm ý và ngụ ý để thấy được tác dụng của sử học trong việc cổ vũ tinh thần chiến đấu, tinh thần cách mạng của nhân dân miền Bắc trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
Chức năng chính trị - xã hội của sử học ở miền Bắc Việt Nam qua phân tích sử luận về Quang Trung – Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn
Phổ biến rộng rãi học thuyết mác-xít trong quần chúng nhân dân
Sử học thực chứng đã du nhập và ảnh hưởng đến nhà viết sử Việt Nam đầu thế kỷ XX như Nguyễn Văn Tố, Hoa Bằng Nguyễn Thúc Trâm. Trường phái này chú trọng đến sử liệu – thực kiện và hạn chế việc sử dụng các lý thuyết xã hội để giải thích lịch sử. Nguyễn Văn Tố cho rằng:
“Đã gọi là viết sử thì phải chép tất cả những tài liệu đính đáng, không nên thêm bớt chữ nào, rồi có ý kiến gì thì chép phụ vào, chứ không có thể lập luận trước rồi mới chép sách sau; vả lại đã gọi là chép sử là chép theo sự thực thì còn có lý luận gì mà lập theo.” (Nguyễn Văn Tố, 1944, tr. 10)
Đến khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập thì sử học mác-xít thay thế cho dòng sử học thực chứng trở thành dòng sử học chính thống ở miền Bắc. Cũng như các ngành khoa học khác, sử học “không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị” (Hồ Chí Minh, 1960, tr. 386), một người làm khoa học không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải nắm rõ “khoa học Mác – Lê Nin về xã hội, về các quy luật phát triển của xã hội, về các quy luật phát triển của cách mạng vô sản, về các qui luật phát triển của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa và về sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản…” (Lê Duẩn, 1963. tr. 313). Các cán bộ sử học “nghiên cứu không phải để nghiên cứu, không phải xuất phát từ hứng thú cá nhân, không phải do “thôi thúc nội tâm”, mà phải xuất phát từ yêu cầu khách quan của cách mạng, phải nhằm phục vụ cho những nhiệm vụ cách mạng nhất định đối với chúng ta là: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và ủng hộ cách mạng giải phóng ở miền Nam.” (Phan Gia Bền, 1964, tr. 5-6)
Với những nhiệm vụ và quy chế hoạt động như vậy, không khó để nhận ra những chức năng xã hội của sử học khi đọc tiêu đề của các bài viết trên các diễn đàn khoa học lịch sử ở miền Bắc trong giai đoạn 1954-1975, cụ thể là tạp san Văn Sử Địa (1954-1959) và Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (1960-1975). Trong giai đoạn này rất nhiều tiêu đề bàn về: “chế độ chiếm hữu nô lệ”, “chế độ phong kiến”, “phong kiến hóa”, “phong trào nông dân”, “mầm mống chủ nghĩa tư bản”, “cách mạng”, “giai cấp”, “vô sản”, “tư sản”, “liên minh công nông”, “chủ nghĩa tư bản”, “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa thực dân mới”, “công hữu”, “tư hữu”. Về tình hình chiến tranh giải phóng miền Nam trong nhan đề của các bài viết: “chính sách của Mỹ”, “sự bế tắc của đế quốc Mỹ”, “giải phóng miền Nam”, “thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân”... Về phương pháp luận sử học, các bài viết bàn nhiều về tính khoa học và tính đảng, chủ nghĩa khách quan và chủ quan, tính khoa học và tính chiến đấu. Đọc các bài viết này, chúng ta sẽ thấy phần lớn lý giải rất rõ tính đảng, tính giai cấp, tính chiến đấu, tính phục vụ, vũ khí đấu tranh còn không có thứ chủ nghĩa khách quan tuyệt đối, nghĩa là “viết sử để chỉ phục vụ cho mục đích tự thân của nó”, và “không có một thứ sự thật lơ lửng khách quan không dính líu đến quyền lợi giai cấp” (Hoàng Nhật Tân, 1966, tr. 11). Những cụm từ “đấu tranh”, “phục vụ”, “tính chiến đấu cách mạng”, “mặt trận” của sử học trong các nhiệm vụ đương thời là những cụm từ dễ dàng tìm thấy trong các tiêu đề cũng như nội dung của các bài viết về lý luận sử học. Hoàng Nhật Tân thậm chí nói rằng “chúng tôi theo chỉ thị của Đảng, theo yêu cầu của cách mạng để nghiên cứu, để nói và làm; bởi vì chúng tôi là những người viết có lý tưởng chỉ đạo” (Hoàng Nhật Tân, 1966, tr. 7). Nguyễn Hồng Phong cho rằng sử học không chỉ nghiên cứu những sự kiện trong quá khứ mà còn phải nắm bắt thời sự. Vì “nghiên cứu những vấn đề thời sự không những có thể phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ chính trị hiện tại, phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, mà còn làm cho công tác sử học có thêm sinh khí, thêm tính chiến đấu và trở thành vũ khí tư tưởng sắc bén để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng ta” (Nguyễn Hồng Phong, 1960, tr. 8).
Khác với dòng sử luận truyền thống vốn dựa trên học thuyết Khổng Mạnh để đánh giá nhân vật lịch sử và hiện tượng xã hội, dòng sử học thực chứng dựa trên sử liệu – thực kiện để phân tích mối quan hệ nhân quả của sự vật hiện tượng, hạn chế sử dụng các lý thuyết xã hội để giải thích lịch sử thì dòng sử học mác-xít dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong quá khứ. Các nhà sử học ở miền Bắc lúc bấy giờ vừa học tập chủ nghĩa Mác – Lê Nin vừa cố gắng xây dựng một thế giới quan nhận thức lịch sử, một khung phân tích để đánh giá nhân vật và hiện tượng lịch sử. Họ tìm cách chứng minh, diễn giải lịch sử Việt Nam bằng học thuyết mác-xít, đồng thời qua đó xây dựng chủ nghĩa quốc gia – dân tộc bằng cách đề cao văn hóa dân tộc, truyền thống văn hóa, khẳng định chủ quyền dân tộc, khẳng định ranh giới quốc gia. Cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn được các sử gia miền Bắc dùng rất nhiều cái tên gọi với những danh từ “mác-xít”: nông dân, cách mạng, chiến tranh, khởi nghĩa, phong trào. Tên gọi phổ biến là phong trào nông dân Tây Sơn, riêng Văn Tân gọi là Cách mạng Tây Sơn trong cuốn sách cùng nhan đề xuất bản năm 1958. Về tên gọi này có nhiều bài viết để giải thích cho nó (Minh Tranh, 1958; Hoài Giang, 1965). Để khẳng định rõ thành phần lãnh tụ của phong trào Tây Sơn là nông dân, Nguyễn Phan Quang (1962), trong bài viết Vài Ý kiến về phong trào nông dân Tây Sơn, khẳng định Tây Sơn là một cuộc khởi nghĩa của nông dân, ông viết “tuy có những sinh hoạt phức tạp hơn một người nông dân thuần túy, anh em Tây Sơn chưa phải vì vậy mà thay đổi bản chất. Mặt khác, do lối làm ăn ấy (đi buôn trầu, làm biện lại) anh em Tây Sơn đã mở rộng thêm tầm con mắt, hiểu sâu sắc hơn nỗi khổ và lòng căm thù của nông dân và các tầng lớp khác, cũng như hiểu đầy đủ hơn sự tham nhũng của bọn quan lại đương thời. Cho nên họ đã bắt mạch đúng nguyện vọng của quần chúng mà tập hợp lực lượng nổi dậy. Tóm lại chúng tôi, nghĩ rằng phong trào Tây Sơn là một cuộc khởi nghĩa của nông dân với những lãnh tụ nông dân. Họ lãnh đạo giai cấp mình và các tầng lớp khác vùng lên đấu tranh, trước hết là vì vấn đề ruộng đất” (Nguyễn Phan Quang, 1962). Ngoài ra, để đánh giá bản chất của phong trào Tây Sơn là một cuộc “khởi nghĩa” hay một cuộc “cách mạng”, nếu như Văn Tân gọi đó là cuộc cách mạng Tây Sơn khi viết “Cách mạng Tây Sơn bùng ra từ năm 1771 đến năm 1802 thì bọn phong kiến phản động Gia Long đánh bại. Tính ra Cách mạng Tây Sơn trước sau tồn tại được 31 năm” (Văn Tân, 1958, tr. 211) thì Nguyễn Phan Quang cho rằng “cách mạng” thường dùng để chỉ một biến động làm thay đổi căn bản quan hệ sản xuất của xã hội, còn đối với phong trào nông dân Tây Sơn (1771-1802) thì nên tách ra thành hai thời kì: thời kì vận động khởi nghĩa và thời kì thiết lập triều đại Tây Sơn. Thời kì thứ nhất kể từ khi bắt đầu khởi nghĩa cho đến khi đại phá quân Thanh thắng lợi. Thời kì này, theo Nguyễn Phan Quang có thể gọi phong trào này “mang tính chất của một cuộc vận động cách mạng nông dân rộng lớn, vĩ đại”. Còn đối với thời kì thứ hai kể từ khi Quang Trung lập triều đại phong kiến mới cho đến khi Tây sơn sụp đổ. Đó là thời kì mà “các lãnh tụ của phong trào đã phong kiến hóa”. Theo Nguyễn Phan Quang, nếu gọi chung cho thời đại Tây Sơn thì nên gọi là “Phong trào nông dân Tây Sơn” (Nguyễn Phan Quang, 1962).
Trương Hoàng Châu (1962), trong bài viết Mấy vấn đề về đấu tranh giai cấp của nông dân trong xã hội phong kiến Việt Nam, viết rằng phong trào Tây Sơn không chỉ là phong trào nông dân mà là phong trào đấu tranh giai cấp của nông dân, tức là “tức phát triển đến tột đỉnh của nó”. Một khi phong trào nông dân Tây Sơn phát triển với một “quy mô to lớn và tính chất quần chúng rộng khắp toàn quốc. Phong trào nông dân này đã lôi cuốn được đông đảo quần chúng nông dân và người trong các tầng lớp nhân dân khác” thì nó đã phát triển lên thành “cuộc chiến tranh nông dân Tây Sơn với quy mô to lớn, với thanh thế rộng khắp đã khắc phục được tính chất bó hẹp ở từng địa phương của khởi nghĩa nông dân” (Trương Hoàng Châu, 1962, tr. 32-33).
Những tranh luận, lập luận trong những bài viết lịch sử về cuộc nổi dậy của Tây Sơn đều bắt đầu bằng sự diễn giải các nguyên lý của học thuyết Mác. Chẳng hạn như, trong bài viết Mầm mống tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam dưới thời phong kiến, Nguyễn Việt luận giải sự tiến hóa của các hình thái kinh tế - xã hội trên lịch sử Việt Nam như sau: “rõ ràng chế độ phong kiến đang giải thể và nếu thực dân Pháp không xâm chiếm Việt Nam, thì rồi xã hội Việt Nam cũng phải chuyển sang một chế độ khác với chế độ phong kiến đương thời, đã quá thối nát, đã trở thành chướng ngại vật cho sự phát triển xã hội, hoặc chí ít ra một triều đại tiến bộ hơn cũng phải ra đời, thay thế cho các triều đại của chúa Trịnh, vua Lê và nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn Tây Sơn lên cầm chính quyền là một bước tiến bộ của xã hội, báo hiệu xã hội Việt Nam có thể tiến lên được, do những chính sách cải tiến của triều Tây sơn” (Nguyễn Việt. 1962, tr. 21).
Phân tích sự thất bại của phong trào Tây Sơn, các nhà sử học mác-xít cũng viện dẫn những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Chẳng hạn như, “bản thân giai cấp nông dân không đại biểu cho một phương thức sản xuất mới nên không thể tự mình tiến hành một cuộc vận động cách mạng thắng lợi, không thể đẩy phong trào tiến lên hoàn thành nhiệm vụ của một cuộc cách mạng thực sự. Do đó, cuối cùng phong trào nông dân tự nó phải thoái hóa, những lãnh tụ nông dân đi vào con đường phong kiến, thiết lập nhà nước phong kiến và tiếp tục duy trì chế độ phong kiến” (Phan Huy Lê. 1963, tr.40). Vì vậy, “mọi cuộc cách mạng nông dân trong thời kì phong kiến, khi chưa có sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến, đều trước sau phải thất bại” (Phan Huy Lê. 1963. tr. 40).
Cổ vũ cho chủ trương cải cách ruộng đất và phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc
Chính sách lớn về kinh tế ở miền Bắc là cải cách ruộng đất và thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp. Với đường lối và chủ trương này, nhiệm vụ của sử học là lý giải được các vấn đề liên quan đến nông dân, ruộng đất, giải quyết vấn đề lý luận giữa chế độ công hữu và tư hữu ruộng đất. Trong cuốn Bàn về cách mạng Việt Nam, Trường Chinh (1951) nhận định về phong trào Tây Sơn “phong trào Tây Sơn là một cuộc vận động cách mạng của nông dân rộng khắp toàn quốc và có tính chất chống phong kiến phản động trong nước và ngoài nước” (Trường Chinh, 1957 [1951], tr. 30). Khi một phong trào nông dân được đánh giá là mang tính “cách mạng” thì nó phải giải quyết được vấn đề liên quan đến ruộng đất. Tuy nhiên, về vấn đề này, Trần Huy Liệu cho rằng “chúng ta không đòi triều chính Tây Sơn phải giải quyết vấn đề cơ bản là chia ruộng đất cho dân cày một khi chúng ta đã nhận thức rõ điều kiện lịch sử và giai cấp lãnh đạo cách mạng lúc ấy” (Trần Huy Liệu, 1956, tr. 38) mà chỉ nên thấy rằng triều đại Tây Sơn là một triều đại tiến bộ, đối với nông nghiệp vì đã khuyến khích tăng gia sản xuất được tiến hành bằng một số biện pháp khuyến nông, chứ không phải là chính sách ruộng đất với ý nghĩa toàn diện của nó. Đi xa hơn, Trần Huy Liệu cho rằng tất cả các phong trào cách mạng nông dân trong thời đại phong kiến không giải quyết được vấn đề ruộng đất mà chỉ dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và nông dân miền Bắc thì người cày mới có ruộng đất (Trần Huy Liệu, 1956, tr. 43; xem thêm Nguyễn Lương Bích, 1956). Đồng tình với nhận định này của Trần Huy Liệu, Nguyễn Phan Quang cho rằng “yêu cầu lịch sử tức là nói đến đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội. Đòi hỏi khách quan ấy một phần phản ánh nguyện vọng của giai cấp bị trị mà chủ yếu là nông dân, mặt khác không thoát ra ngoài điều kiện thực tế của lịch sử, vì lịch sử không đề ra một yêu cầu nào khi tự nó chưa có điều kiện giải quyết”. Với quan niệm đó, Nguyễn Phan quang cho rằng cần xác định cho đúng tính chất của phong trào nông dân Tây Sơn là “cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt giữa nông dân và địa chủ chống nạn kiêm tính ruộng đất” (Nguyễn Phan Quang. 1962, tr. 12).
Tuy nhiên, một số sử gia khác đưa ra quan điểm đi xa các nhận định này, Nguyễn Hồng Phong cho rằng kết quả lớn nhất của nhà Tây Sơn về vấn đề ruộng đất là đã làm cho chế độ sở hữu của tiểu nông phát triển bằng cách thực hiện việc “quân điền”, thủ tiêu chế độ chiếm hữu ruộng đất của quý tộc và quan lại cao cấp. Mặt khác, ruộng đất của nhà nước trước đây phát cho nông dân lĩnh canh, nay trở thành ruộng đất thuộc sở hữu vĩnh viễn của nông dân (Nguyễn Hồng Phong, 1959, số 1, tr. 54; số 2, tr. 44). Phan Huy Lê thừa nhận rằng dù có quá ít sử liệu nói đến cải cách ruộng đất của Quang Trung – Nguyễn Huệ nhưng tác giả vẫn khẳng định rằng chính sách ruộng đất thời Quang Trung không những tiến bộ mà còn đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội đương thời. (Phan Huy Lê, 1963, số 49, tr. 25-26; số 50, tr. 36)
Càng về sau, các bài viết về vấn đề ruộng đất ở thế kỷ XVIII và dưới thời Tây Sơn, vượt ra khỏi khuôn khổ sử liệu cho phép, càng đưa ra nhận định táo bạo hơn về tình hình ruộng đất. Nguyễn Khắc Đạm viết “cho đến thế kỷ XVIII, chưa bao giờ ruộng tư đã phát triển hơn về số lượng so với ruộng công trong lịch sử Việt Nam… Sau khi bình định xong đất Bắc, Nguyễn Huệ, một mặt, chăm lo đến việc phát triển nông nghiệp nên yêu cầu các thôn xã phải phục hồi mọi ruộng đất bỏ hoang. Ruộng tư vắng chủ, do đó, đã biến thành ruộng công của thôn xã. Mặt khác, rất nhiều những ruộng thế nghiệp rải ra trên miền Bắc mà trước kia các chúa Trịnh hay Lê Chiêu Thống dùng để phong cấp cho tay chân đều bị triều đình Tây Sơn sung công. Tuy nhà Tây Sơn có đem một số ruộng sung công đó cấp cho các tướng lĩnh và quan lại của triều mới nhưng nhìn chung việc cấp đó không có tính chất vĩnh viễn, ruộng cấp nói chung vẫn là ruộng công. Trong điều kiện đó, dưới triều Tây Sơn, khá nhiều ruộng tư đã biến, hoặc biến trở lại thành ruộng công, nên diện tích ruộng tư khó có thể vượt diện tích ruộng công được” (Nguyễn Khắc Đạm, 1964, tr. 32-33). Cũng đồng tình với quan điểm này nhưng Duy Minh, trong bài viết Thử tìm đặc điểm phong trào nông dân trong lịch sử Việt Nam, cho rằng người nông dân trong các phong trào thế kỷ XIV, XVII và XVIII không có yêu sách về bình quân ruộng đất mà “lãnh tụ nông dân mỗi khi cầm vũ khí đứng lên, không đưa yêu cầu về ruộng đất, mà chỉ hăng hái trong việc thủ tiêu chế độ phú dịch cũ và bình quân tài sản đã tịch thu được của các gia đình có tội với nông dân… và bảo vệ chế độ ruộng công. Ruộng công ở Việt Nam sở dĩ tồn tại lâu dài là vì thế” (Duy Minh, 1965, tr. 6-7). Phản bác nhận định này, Hồ Hữu Phước cho rằng “trong quá trình vận động khởi nghĩa (và cả sau này cũng thế), một mặt Quang Trung đã tạo điều kiện phát triển ruộng tư bằng cách lấy ruộng của ngụy quan và ruộng công xã thôn chia cho binh lính dân cày cùng là tướng sĩ, công thần. Mặt khác, Quang Trung lại không động chạm đến ruộng đất của bọn địa chủ không chống đối, nghĩa là không động chạm đến quyền tư hữu ruộng đất… Như vậy là dưới triều Tây Sơn ruộng tư chẳng những không bị chặn lại như ý kiến ông Nguyễn Khắc Đạm mà ngược lại còn có phần phát triển thêm so với thời Lê Sơ nữa là đàng khác” (Hồ Hữu Phước, 1964, tr. 45).
Nhìn chung, các nhận định về tình hình ruộng đất thời Tây Sơn cũng như chính sách ruộng đất của Quang Trung – Nguyễn Huệ không có tính thống nhất giữa các sử gia miền Bắc, một phần vì thiếu sử liệu, một phần vì những đáp ứng nội dung cho đường lối và chính sách hiện thời của Đảng và Nhà nước về vấn đề ruộng đất theo từng thời kì.
Phục vụ nhiệm vụ cách mạng hiện thời: đánh đuổi lực lượng ngoại xâm, thống nhất đất nước
Nhiệm vụ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là một nhiệm vụ lớn ở Miền Bắc nên sử học phải tham gia thực hiện nhiệm vụ này. Trong quyết định thành lập Viện Sử học ngày 6-2-1960 nói rõ nhiệm vụ: “Căn cứ vào đường lối của Đảng và Chính phủ, nghiên cứu lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, phục vụ sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, góp phần vào cuộc đấu tranh cho hòa bình và chủ nghĩa xã hội thế giới” (Trần Đức Cường, 2004, tr. 13). Chủ đích của những người làm công tác sử học trong mỗi một nghiên cứu lúc bấy giờ được yêu cầu phải có “ý nghĩa chính trị, có mục đích chính trị rõ ràng, góp phần giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đề ra” (Phan Gia Bền, 1966, tr. 6). Cụ thể, đối với miền Bắc, các nhà sử học phải “khai thác vốn cũ của dân tộc, nghiên cứu và phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc” để xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Còn đối với miền Nam, các nhà sử học phải lồng ghép, đưa vào những nội dung “cổ vũ lòng yêu nước thù giặc, chứng minh Tổ quốc ta là một khối thống nhất về lãnh thổ, kinh tế, ngôn ngữ và văn hóa, rút ra những bài học lịch sử để đẩy mạnh cuộc đấu tranh thống nhất đất nước” (TCNCLS, 1963, tr. 9).
Về công lao thống nhất đất nước, sau một thời gian dài phân chia Đàng Trong – Đàng Ngoài, các sử gia miền Bắc lúc bấy giờ đều có một lập luận chung là Nguyễn Huệ là người có công và đã thực hiện thống nhất đất nước trên thực tế (Minh Tranh, 1957, Văn Tân 1963, 1965, Duy Minh, 1965b, Phan Huy Lê, 1963, Hải Linh, 1973). Văn Tân nói rõ sử học liên quan mật thiết đến chính trị, cho nên việc ai là người thống nhất đất nước: Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh không chỉ là một vấn đề khoa học, mà còn là một vấn đề chính trị (Văn Tân, 1963, tr. 11). Đối với các sử gia miền Bắc, cuộc chiến giữa Quang Trung – Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh ở thế kỷ XVIII được ẩn dụ với cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước của Đảng và nhân dân Miền Bắc với Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ. Trong cuộc đấu tranh đó, Nguyễn Huệ là người đã thống nhất đất nước và ngụ ý rằng Đảng và nhân dân miền Bắc sẽ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Về vấn đề này, Nguyễn Phan Quang tỏ ra thận trọng hơn, trong bài viết Vài ý kiến về phong trào nông dân Tây Sơn cho rằng Nguyễn Huệ “đã căn bản thực hiện thống nhất đất nước, gọi là căn bản, vì công cuộc chưa được thực hiện triệt để, nhưng đã hoàn thành được những nhiệm vụ chủ yếu mà lịch sử đề ra” (Nguyễn Phan Quang, 1962, tr. 16).
Đi xa hơn, trên cơ sở thống nhất đất nước, Văn Tân cho rằng Nguyễn Huệ sẽ xây dựng một nước Việt Nam, dù vẫn còn nằm trong phạm trù chế độ phong kiến, “nhưng so với nước Việt Nam thời Lê – Trịnh thì nó tiến bộ hơn nhiều” (Văn Tân, 1965, tr.20). Quang Trung – Nguyễn Huệ xây dựng “những chính sách tiến bộ về nông nghiệp, với những sáng kiến táo bạo về công nghiệp và thương nghiệp, với chính sách đối ngoại sáng suốt và mạnh dạn, với những cải cách văn hóa và giáo dục đầy tính dân tộc và rất hợp với xu thế phát triển của xã hội” (Duy Minh, 1965b, tr. 7) sẽ làm cho “xã hội Việt Nam phát triển nhanh, nước Việt Nam sẽ trở thành giầu mạnh bậc nhất ở Đông Nam Á” (Văn Tân, 1965, tr. 21)
Xây dựng những phẩm chất cho con người anh hùng cách mạng trong thời đại xã hội chủ nghĩa
Không những ca ngợi sự thành công của phong trào Tây Sơn mà con người và sự nghiệp của Quang Trung – Nguyễn Huệ cũng như những người nông dân tham gia vào phong trào ấy cũng được các nhà sử học miền Bắc tôn vinh như những người anh hùng cách mạng. Thế kỷ mà phong trào nông dân Tây Sơn nổi lên, lật đổ các triều đại phong kiến phản động, đánh đuổi giặc ngoại xâm được các nhà sử học miền Bắc coi đây là một thế kỷ oai hùng nhất của lịch sử Việt Nam. Người nông dân ở thế kỷ ấy “khảng khái vô tư, là yêu chuộng công lý, hướng lên bình đẳng tự do, là thực sự vì dân vì nước. Không kể người nghèo hèn sang giàu, không kể gái trai, ai có tài trí dũng cảm đi theo khởi nghĩa là có khả năng trở thành anh hùng. Cho nên không phải ngẫu nhiên khẩu hiệu của cuộc khởi nghĩa ngày ấy là “bình đẳng về mọi mặt” và “cho tất cả mọi người” (Nguyễn Đổng Chi, 1974, tr. 62). Nguyễn Huệ, vị lãnh tụ phong trào nông dân Tây Sơn là một người “có tinh thần dân tộc rất cao. Tinh thần dân tộc của ông là tiếp tục tinh thần dân tộc của Lê Lợi và Nguyễn Trãi… Nguyễn Huệ không phải chỉ muốn có một nước Việt Nam độc lập về chính trị như các đời Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, mà ông còn tiến lên một bước, muốn nước Việt Nam độc lập cả về kinh tế và văn hóa nữa.” (Văn Tân, 1965, tr. 23). Những người nông dân thời kì đó được cho là những con người có đầu óc thực tế cao độ và dám nghĩ dám làm, không rập khuôn theo khuôn mẫu có sẵn. “Chỗ khác nhau giữa người anh hùng nông dân với người anh hùng phong kiến: do đầu óc thực tế, nên khi, nhìn thấy sự vật, người anh hùng nông dân thường ít bị ám ảnh bởi tư tưởng đạo đức phong kiến, ít bị chi phối bởi chủ nghĩa sách vở, mặc dầu những cái đó cũng có ảnh hưởng nhất định tới họ. Cho nên lời nói việc làm của họ có phần mang tính chất trác lạc, phóng khoáng, ít thành kiến, giáo điều. Do suy nghĩ có tính chất độc lập dân chủ, nên những kết luận của họ thường có phần phù hợp với xu thế tiến bộ xã hội, phù hợp tinh thần dân tộc” (Nguyễn Đổng Chi, 1974, tr. 61). Và chính vì có đầu óc thực tế cao độ “đã khiến ông [Nguyễn Huệ] gạt được nhiều thành kiến và nhiều mê tín đi, và đề ra nhiều chủ trương, nhiều biện pháp táo bạo có tác dụng thúc đẩy xã hội tiến lên” (Văn Tân, 1965, tr. 25).
Sự nghiệp của Quang Trung – Nguyễn Huệ được Văn Tân so sánh với Napoléon Bonaparte, một nhà quân sự và chính trị tiêu biểu của Pháp. Vì “biết kết hợp tài tình giữa chính trị và quân sự nên Nguyễn Huệ đánh đâu thắng đó” (Văn Tân, 1964, tr.7). Ngoài ra, Nguyễn Huệ đã có cái nhìn “mác-xít” khi “ý thức rõ rệt về những vận động sâu sắc và những tất yếu của thời đại… đã nhìn thấy nhiệm vụ lịch sử của dân tộc hồi thế kỷ XVIII, và ông đề ra nhiều biện pháp nhằm động viên những lực lượng xã hội cần thiết để thực hiện nhiệm vụ ấy” (Văn Tân, 1965, tr. 27).
Những phẩm chất cùng với những quan niệm tiến bộ đó của Quang Trung – Nguyễn Huệ, của những người nông thời đại Tây Sơn được các sử gia miền Bắc cho là “rất gần hành động cách mạng” và “những người “tiền khu chủ nghĩa xã hội” ấy cũng sẽ truyền đến sau này cho thế hệ chúng ta, những người đang thực sự bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thế hệ chúng ta rất tự hào có truyền thống anh hùng đẹp đẽ đó, và biết kế thừa phát huy nó một cách thông minh sáng tạo và tự giác. Chúng ta đã tạo nên những chiến thắng kỳ diệu trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Mỹ, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội” (Nguyễn Đổng Chi, 1974, tr. 62).
Nhận xét chung
Trong giai đoạn 1954-1975, rõ ràng sử học cùng với các ngành khoa học trở thành loại vũ khí chiến đấu cực kì quan trọng trên mặt trận tư tưởng và văn hóa. Dù rằng, chức năng xã hội lấn át chức năng tri thức, kết quả là bệnh công thức hóa các hiện tượng lịch sử, chính trị và hiện đại hóa lịch sử, chủ quan duy ý chí trong các nghiên cứu lịch sử (Huy Yên, 1966; Chiêm Tế, 1967) nhưng nhìn lại lịch sử, điều đó có thể đã rất cần thiết cho một sự nghiệp chung của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh Quang Trung – Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn đã được ca ngợi và đề cao quá mức và cố tình làm giảm những công lao và đóng góp của các chúa Nguyễn và triều Nguyễn đối với việc mở mang và gìn giữ bờ cõi đất nước. Hiện nay, các nghiên cứu về Quang Trung – Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn đã có cái nhìn phê phán hơn, có cái nhìn công bằng hơn giữa Quang Trung – Nguyễn Huệ và Gia Long – Nguyễn Ánh. Bởi vì, còn nhiều vấn đề lịch sử liên quan đến vùng đất Nam Bộ, Hoàng Sa, Trường Sa. Việc phân lập chính nghĩa – phi nghĩa; tiến bộ - phản động không còn có ích cho hoàn cảnh hiện tại chính trị - xã hội hiện tại (xem Mấy vấn đề sử học cần làm sáng tỏ để hiểu rõ tầm quan trọng của nhận thức lịch sử mới về vấn đề này).
Chức năng xã hội có thể làm giảm chức năng tri thức của sử học và có thể quá khứ, tất cả những gì đã diễn ra, không phải là một điều gì đó quan trọng nhất trong đời sống xã hội, nhưng lịch sử vẫn có những vai trò và giá trị của nó trong việc nối kết giữa quá khứ - hiện tại – tương lai. Như Schlesinger (1969) và Claude Levi-Strauss (1966) đã nói, trong những hoàn cảnh lịch sử nào đó, nhà sử học đã phổ biến những huyền thoại lịch sử để phục vụ cho một mục đích xã hội nào đó và nó được bảo vệ bằng chính trị và đạo đức nhưng chúng ta không nên tự lừa dối mình rằng những khả năng bảo vệ ấy có thể biến huyền thoại trở thành lịch sử vốn như nó đã diễn ra được.
Mọi trao đổi, đóng góp với tác giả xin gửi về thuthanhkhxh@gmail.com. Rất mong nhận được sự đóng góp, phản hồi từ phía người đọc. Bài viết này được đăng trên tạp chí Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh, số 11, năm 2019 (nhưng được rút gọn hơn so với bản này)
Tài liệu tham khảo

Tài liệu tiếng Việt
1. Bùi Đình Thanh. 1964. “Một vài ý kiến về tăng cường đấu tranh tư tưởng trong lĩnh vực sử học, đánh bại những quan điểm phản động và luận điệu xuyên tạc lịch sử dân tộc Việt Nam”, Nghiên cứu lịch sử, số 60, tr.11-18, 25.
2. Chiêm Tế. 1967. “Khắc phục khunh hướng hiện đại hóa lịch sử, một biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan trong công tác nghiên cứu sử học của chúng ta”, Nghiên cứu lịch sử, số 95, tr. 21-31.
3. Đinh Xuân Lâm and Phạm Hồng Tung. 2009. “Vietnamese Historiography: Development and Contributions in the Doi Moi Period”, Social Science Information Review, Vol. 3, No.2, pp. 3 – 10.
4. Duy Minh. 1965a. “Thử tìm đặc điểm của phong trào nông dân trong lịch sử”, Nghiên cứu Lịch sử, số 78, tr. 2-8.
5. Duy Minh. 1965b. “Vai trò của khởi nghĩa nông dân đối với quá trình phát triển của dân tộc”, Nghiên cứu Lịch sử, số 81, tr. 3-7, 10.
6. Dương Trung Quốc. 2015. “Lời nói đầu” in trong cuốn Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản của nhiều tác giả. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, tr. 5-6.
7. Dutton, George. 2019. Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (Lê Nguyễn dịch). TPHCM: Nxb. Tổng hợp.
8. Hải Linh. 1973. “Vai trò của phong trào cách mạng nông dân Tây Sơn trong sự nghiệp lập lại nền thống nhất đất nước hồi cuối thế kỷ XVIII”, Nghiên cứu Lịch sử, số 150, tr. 30-43.
9. Hoài Giang. 1965. “Hồi thế kỷ XVIII trước khởi nghĩa Tây Sơn tại sao các cuộc khởi nghĩa nông dân khác đều thất bại”, Nghiên cứu Lịch sử, số 75, tr. 29-36.
10.        Hoàng Nhật Tân. 1966. “Mấy ý kiến về nhận thức sự thật lịch sử, nâng cao tính khách quan khoa học và tính chiến đấu cách mạng của sử học”, Nghiên cứu lịch sử, số 92, tr. 6-16.
11. Hồ Chí Minh. 1960. Tuyển tập Hồ Chí Minh. Hà Nội: Nxb. Sự Thật.
12. Hồ Hữu Phước. 1964. “Trong lịch sử Việt Nam, đến giai đoạn nào thì ruộng tư chiếm ưu thế”, Nghiên cứu lịch sử, số 69, tr. 39-45.
13. Huy Yên. 1966. “Cần nghiên cứu lịch sử sử học”, Nghiên cứu lịch sử, số 86, tr. 15-20.
14. Lê Duẩn. 1963. Về cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Sự Thật.
15. Minh Tranh. 1954. “Một vài nét về vấn đề ruộng đất trong lịch sử Việt Nam”, Văn Sử Địa, số 2, tr. 32-52.
16. Minh Tranh. 1957. “Khởi nghĩa Tây Sơn và sự hình thành dân tộc Việt Nam”, Văn Sử Địa, số 24, tr. 6-15.
17. Minh Tranh. 1959. “Sử học phải phục vụ cách mạng như thế nào ?”, Nghiên cứu Lịch sử, số 3, tr. 1-8.
18. Nhiều tác giả. Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản. Hà Nội: Nxb Hồng Đức và Tạp chi Xưa Nay.
19. Nguyễn Đổng Chi. 1974. “Thử bàn về quan niệm chủ nghĩa anh hùng thời Tây Sơn”, Nghiên cứu Lịch sử, số 134, tr. 45-62.
20. Nguyễn Hồng Phong. 1959. “Vấn đề ruộng đất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (từ thế kỷ X đến Pháp xâm lược)”, Nghiên cứu Lịch sử, số 1, 42-55; số 2, 26-53.
21. Nguyễn Hồng Phong. 1960. “Các nhà sử học cần phải lấy vấn đề thời đại quan trọng làm đối tượng nghiên cứu”, Nghiên cứu Lịch sử, số 20, tr. 1-8.
22. Nguyễn Khắc Đạm. 1964. “Góp mấy ý kiến về vấn đề ruộng tư trong lịch sử Việt Nam”, Nghiên cứu lịch sử, số 65, tr. 22-34.
23. Nguyễn Lương Bích. 1956. “Nguyên nhân thành bại của cuộc cách mạng Tây Sơn”, Văn Sử Địa, số 14, tr. 45-50.
24. Nguyễn Quang Ngọc, 2018, tr.48) “Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa – Trường Sa trong thời kì Nhà Nguyễn thế kỉ XIX”, Mấy vấn đề sử học Việt Nam cần làm sáng tỏ, tr. 48.
25. Nguyễn Phan Quang. 1962. “Vài ý kiến về phong trào nông dân Tây Sơn”, Nghiên cứu Lịch sử, số 35, tr. 11-20.
26. Nguyễn Phan Quang. 1964. “Vài ý kiến đánh giá phong trào nông dân khởi nghĩa  trong nửa đầu thế kỷ XIX”, Nghiên cứu Lịch sử, số 61, tr.42-47.
27. Nguyễn Văn Tố, 1944, “Một quyển sách nói về Bà Trưng”, Tri Tân, số 157, tr. 10
28. Nguyễn Việt. 1962. “Bàn về mầm mống tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam dưới thời phong kiến”, Nghiên cứu lịch sử, số 35, tr. 21-34.
29. Phạm Hồng Tung. 2018. “Giá trị pháp lý quốc tế của Hội nghị hòa bình San Francisco trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa” in trong cuốn Mấy vấn đề sử học cần làm sáng tỏ của Nhiều tác giả. Hà Nội: Nxb. Hồng Đức, tr. 172-185
30. Phan Huy Lê. 1963. “Bàn thêm mấy vấn đề về phong trào nông dân Tây Sơn”, Nghiên cứu Lịch sử, số 49, tr. 20-26; số 50, 34-42, 61.
31. Phan Huy Lê. 2015. “Phan Thanh Giản (1796-1867): con người, sự nghiệp và bi kịch cuối đời)” in trong cuốn Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản của nhiều tác giả. Hà Nội: Nxb. Hồng Đức, tr. 289-305.
32. Phan Huy Lê. 2018. “Công cuộc khôi phục thống nhất quốc gia cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX” in trong cuốn Mấy vấn đề sử học Việt Nam cần làm sáng tỏ do Tạp chí Xưa và nay tổng hợp. Hà Nội: Nxb. Hồng Đức.
33. Phan Gia Bền. 1964. “Một vài suy nghĩ về vấn đề nâng cao chất lượng công trình sử học”, Nghiên cứu Lịch sử, số 69, tr. 3-14
34. Phùng Hữu Phú. 1997. “Sử học Việt Nam qua 10 năm đổi mới”, in trong cuốn Khoa học Xã hội và Nhân văn – Mười năm đổi mới và phát triển do Phạm Tất Dong chủ biên. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 244-271.
35. Tạp chí Xưa và Nay. 2006. Thế kỷ XXI nhìn về Phan Thanh Giản. Hà Nội: Nxb. Hồng Đức.
36. TCNCLS. 1963. “Trích đăng bản báo cáo: Mười năm công tác của Viện Sử học (1953-1963)”, Nghiên cứu Lịch sử, số 59, tr. 9-13.
37. TCNCLS. 1974. “Phong trào Tây Sơn và thế kỷ XVIII”, Nghiên cứu Lịch sử, số 154, tr. 3-4.
38. Trần Đức Cường. 2004. “50 năm viện Sử học”, Nghiên cứu Lịch sử, số 1, tr. 12- 20.
39. Trần Huy Liệu. 1956. “Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyễn Huệ”, Văn Sử Địa, số 14, tr. 30-44.
40. Trần Huy Liệu. 1962. “Công tác sử học trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay”, Nghiên cứu Lịch sử, số 37, tr. 1-4.
41. Trần Huy Liệu. 1967. “Nâng cao nhiệt tình yêu nước trong khi nghiên cứu lịch sử dân tộc”, Nghiên cứu Lịch sử, số 3, tr. 1-8
42. Trường Chinh. 1957. Bàn về cách mạng Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Ban chấp hành trung ương.
43. Văn Tân. 1963. “Ai đã thống nhất Việt Nam ? Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh”, Nghiên cứu Lịch sử, số 51.
44. Văn Tân. 1964. “Quốc sử quán triều Nguyễn với khởi nghĩa Tây Sơn”, Nghiên cứu Lịch sử, số 65, tr. 14-21.
45. Văn Tân. 1965. “Về bài chung quanh vấn đề ai đã thống nhất Việt Nam : Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh” của Nguyễn Phương (Sài Gòn), Nghiên cứu Lịch sử, số 70, tr. 3-10,18.
46. Vũ Văn Quân. 2018. “Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam” in trong cuốn Mấy vấn đề sử học cần làm sáng tỏ của Nhiều tác giả. Hà Nội: Nxb. Hồng Đức, tr. 90-106 .
47. Xưa và Nay. 2018. “Cuộc thảo luận xoay quanh quan điểm tiếp cận toàn bộ, toàn diện về lịch sử Việt Nam” in trong cuốn Mấy vấn đề sử học cần làm sáng tỏ của Nhiều tác giả. Hà Nội: Nxb. Hồng Đức, tr. 186-193.
Tài liệu tiếng nước ngoài
48. Ang, Claudine. 2013. “Regionalism In Southern Narratives of Vietnamese History: The Case of the “Southern Advance” [Nam tiến]”, Journal of Vietnamese Studies, Vol. 8, Iss.3, pp. 1 – 26.
49. Claude Levi-Strauss. 1966. The Savage Mind. London: Weidenfeld and Nicolson, p. 257.
50. Dutton, George. 2005. “Reassessing Confucianism in the Tây Sơn Regimes (1788 – 1802)”, South East Asia Research, Vol. 13, No.2, pp. 157 – 183.
51. Nhung, Tuyet Tran and Reid, Anthony. 2006. “Introduction: The Construction of Vietnamese Histories and Idemtities” in Vietnam: Borderless Histories, edited by Stefan Berger, Mark Donovan and Kevin Passmore. London: Routledge.
52. Schlesinger, Authur J. 1969. “Nationalism and History”, The Journal of Negro History, Vol. 54, No.1, pp. 19-31.
53. Pelley, Patricia M. 2002. Postcolonial Vietnam: New Histories of the National Past. Durha and London: Duke University Press.
54. Willcox, Wynn. 2003. “Allegories of the US – Vietnam War: Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ, and the “Unification Debates””, Crossroads: An Interdiscipline Journal of Southeast Asian Studies, Vol. 17, No. 1, pp. 129-160.
55. Woodside, Alexander. 1971-1972. “Ideology and Intergration in Post Colonial Vietnamese Nationalism”, Pacific Affairs, Vol. 44, No. 4, pp. 487-510.

Abstract:
History has two main functions: social function and intellectual function. Because history is so closely related to politics and historians cannot escape their social person, these two functions always go hand in hand in a historical study. In the period 1954-1975, Northern historians were assigned two major revolutionary tasks: contributing to the successful construction of socialism in the North and the liberation of the South, and reunification of the country. History becomes a "battle weapon" on the ideological front, so the social function dominates the intellectual function. In this article, we use the historiography of the Northern historians of Quang Trung - Nguyen Hue and the Tay Son movement to prove the social function of Northern history in this period. 




Chú thích:

[1] “History is therefore never history, but history-for” in Claude Levi-Strauss. 1966. The Savage Mind. London: Weidenfeld and Nicolson, p. 257.

Print Friendly and PDF