LỊCH SỬ KHOA HỌC
VÀ
XÃ HỘI HỌC KHOA HỌC
(1969)
Tác giả: Paweł Rybicki [1]
*
Sự phát triển của xã hội học tri thức tiến
bộ nhanh chóng sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Những đại diện tiêu biểu
của nó là Max Scheler (1874-1928), Karl Mannheim (1893-1947),
Florian Znaniecki (1882-1958), Pitirim Sorokin (1889-1968),
Robert Merton (1910-2003), Georges Gurvitch (1894-1965).
Mặc dù vài tác giả đã đưa vào đấy các yếu tố thực nghiệm và lịch sử, xã hội học
tri thức phần lớn vẫn giữ tính chất tư biện. Vấn đề xã hội quy định tri
thức như thế nào là và vẫn còn là vấn đề cơ bản. Nó dần
dần đưa tới việc phân loại tri thức, và trong số các thành công quan trọng của
ngành, đây là một thành tựu thiết yếu cho sự phân biệt tri thức khoa học với các loại tri thức khác.
Như một lĩnh vực xã hội học đặc thù, xã hội học khoa học chỉ mới tồn tại từ vài mươi năm gần đây. Điểm khác biệt nhất với xã hội học tri thức là xã hội học khoa học chẳng những đã xác định chính xác hơn đối tượng nghiên cứu của nó, mà còn tiếp cận đối tượng này một cách khác với cách xã hội học tri thức từng làm trong quá khứ; hiện nay phần nghiên cứu cụ thể về sự điều kiện hóa của xã hội, về vai trò của các yếu tố xã hội phi khoa học trong những khám phá khoa học khác nhau, cũng như trong sự tiến bộ của khoa học, đã vượt qua phần tư biện về số lượng. Đồng thời, xã hội học khoa học còn quan tâm đến một khía cạnh khác của quan hệ giữa khoa học với xã hội, đó là những hệ quả phát sinh từ khoa học, từ sự tiến bộ và thành tựu của nó đối với đời sống và tổ chức xã hội. Xã hội học khoa học từ bỏ loại suy biện thuần túy lý thuyết, và bộc lộ trong những công trình nghiên cứu của nó xu hướng sử dụng loại tư liệu thực nghiệm và lịch sử. Công trình của Merton, đặc biệt là tác phẩm của ông về khoa học và xã hội ở Anh trong thế kỷ XVII, đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của dòng nghiên cứu này.
Một đặc trưng khác của xã hội học khoa học, đồng thời
phân biệt nó với xã hội học tri thức xưa, là nó quan niệm khoa học như
lĩnh vực hoạt động của con người. Sự quan tâm của xã hội học khoa học không
hướng đến các hệ thống tri thức khoa học, những thay đổi và những tiến bộ của
nó, mà nhiều hơn tới các nhà khoa học và loại điều kiện xã
hội trong đó họ hoạt động. Quyển Vai Trò Xã Hội
Của Người Có Hiểu Biết (The Social Role
of the Man of Knowledge, 1940) của [Florian]
Znaniecki là một thời điểm quan trọng trong lịch sử của vấn đề này. Znaniecki
đã nghi ngờ giá trị của cách đặt vấn đề truyền thống trong xã hội học tri thức,
đã làm nổi bật lên các vấn đề như vị trí xã hội và vai trò xã hội của
nhà khoa học: ông chính là người [đầu tiên] đã nỗ lực tập trung sự quan tâm
của xã hội học khoa học trên các vấn đề này.
Cho đến giờ, lịch sử các khoa học và xã hội học khoa
học đã đi theo những ngả đường khá khác nhau. Dường như nay đã đến lúc
phải suy nghĩ về những quan hệ qua lại của hai lĩnh vực trên. Chúng ta phải xét
xem hai bộ môn này phụ thuộc vào nhau tới mức độ nào, và chúng có thể hiệp
thông với nhau như thế nào, chuyển tải cho nhau những gì. Tất nhiên, mọi nhận
xét về tương quan này phải bắt đầu từ những sự kiện hiện thực, vì vậy trước hết
ta phải xem xét cách thức cả hai lĩnh vực hiện đang được vun đắp. Lịch sử khoa
học cung cấp cho xã hội học khoa học thứ chất liệu là những sự kiện – tài liệu
về các tác giả, môi trường của họ, hoàn cảnh trong đó họ thực hiện các khám phá
khoa học, nguồn gốc và sự mở rộng của những thành tựu khoa học. Nhưng ngược
lại, xã hội học và đặc biệt là xã hội học khoa học có thể mang lại gì cho lịch
sử khoa học trong tình hình hiện nay? Có vẻ như đóng góp của khoa xã
hội học cho lịch sử khoa học – điều không phải lúc nào chúng ta cũng
nhận ra – trước hết nằm trong lĩnh vực khái niệm hóa và sự thiết lập
các loại hình hiện tượng. Xã hội học đưa ra các ý niệm về phạm
trù xã hội và nghề nghiệp cụ thể (phạm trù nhà khoa học chẳng
hạn), về giai cấp và tầng lớp xã hội, về môi trường xã hội, về hiệp hội
và thiết chế. Bằng cách này, nó tạo điều kiện cho sử gia
khoa học sắp xếp và xác định phần dữ liệu mà lịch sử khoa học sử dụng trong
những công trình nghiên cứu cụ thể. Nỗ lực quan niệm hóa xã hội học cho
phép sử gia khoa học quan sát sự lặp lại, và những nét tiêu biểu của một số
hiện tượng. Như hiện tượng điển hình, chúng ta có thể kể vị
trí xã hội của nhà khoa học, sự nghiệp của ông
ta, các tập hợp mà nhà khoa học tham gia, những hình
thức hợp tác và cạnh tranh giữa các nhóm này. Như hiện tượng điển
hình, chúng ta có thể kể các thiết chế được sử dụng nhằm thúc
đẩy khoa học, hoặc để kiểm soát nó thông qua loại yếu tố nằm ngoài thế giới
khoa học: sự bảo trợ của các tổ chức khoa học, của các cơ quan hành chính công
cộng. Nắm được những yếu tố này, lịch sử khoa học sẽ có khả năng phân biệt
trong những hiện tượng nghiên cứu, cái là một quy trình duy nhất, cái không
quay trở lại nữa, với cái sẽ còn lặp lại, và có thể được mô tả như quy trình
điển hình.
Trong một số trường hợp, dường như đường phân ranh
giữa lịch sử khoa học với xã hội học khoa học không còn rõ nét. Những công
trình nghiên cứu về vai trò của các đại học thời Trung Cổ, hoặc về vai trò của
các hiệp hội khoa học trong thế kỷ XVII chẳng hạn đều mang cả tính xã hội lẫn
sử tính, tùy lúc mà luân phiên nghiêng về phía này hoặc bên kia. Lịch
sử khoa học nói chung càng chiếm chỗ của lịch sử các khoa
học bao nhiêu, thì sự xích lại gần nhau của hai bộ môn càng hiển lộ
bấy nhiêu. Lịch sử khoa học và xã hội học khoa học dường như còn bổ sung,
thậm chí thẩm thấu vào nhau trong các nghiên cứu về những thiết chế khoa học.
[...] Các công trình được sắp xếp vào loại nghiên cứu về xã hội học khoa học
thường đều rất đa tạp. Tuyển tập The Sociology of Science (1963)
do W. Barber và B. Hirsch làm chủ biên đã cho thấy rõ rệt sự đa dạng của những
đóng góp đã tạo hình cho ngành tri thức xã hội học mới này. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy một đặc điểm
chung nhằm hợp nhất những sáng kiến khác nhau trong lĩnh vực xã hội học
khoa học. Ở đây, mọi
đóng góp đều nêu lên các yếu tố nằm ngoài quy trình tri thức. Những
yếu tố này rất khác nhau, chẳng hạn như: các phong trào xã hội và trí thức nói
chung; những hiện tượng gắn liền với vị thế của nhà khoa học; sự chuyên nghiệp
hóa hoạt động khoa học; ảnh hưởng của các hiệp hội, tổ chức, và định chế trong
đời sống khoa học. Trong mỗi trường hợp trên, chúng ta có thể thấy các
nhân tố nào đã điều kiện hóa hoạt động khoa học từ bên ngoài, và một cách gián
tiếp, những kết quả khoa học thu hoạch được. Các công trình thuộc loại «xã
hội học» cũng cho thấy – hay ít ra có thể cho thấy – ảnh hưởng của sự
tiến bộ về tri thức khoa học và những kết quả của nó trên thế giới bên ngoài,
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Đúng là môn xã hội học khoa
học không thể bao gồm trong phạm vi của nó mọi thay đổi mà những khám phá khoa
học và sự tiến bộ tổng quát của khoa học đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra.
Nhưng nó phải nắm biết các tình huống xã hội nay đã bị những khám phá khoa học
mới chi phối, vì các hoàn cảnh mới này sẽ trở thành đầu nguồn cho nhiều hướng
nghiên cứu mới, và sẽ tạo ra những điều kiện mới cho sự phát triển các khoa
học.
Paweł Rybicki (1902-1988) |
Có vẻ như lịch sử các khoa học – vốn chủ yếu quan tâm
đến sự phát triển của những ý tưởng và vấn đề, các phương pháp và giả thuyết
khoa học – và xã hội học khoa học – vốn chỉ quan tâm đến những quan hệ khác
nhau giữa khoa học và hiện thực xã hội – sẽ tách rời nhau. Trong thực tế, tình
hình khác hẳn. Trong chừng mức là các vấn đề đặc thù của mỗi bên ngày càng được
kết tinh, một tác động bổ sung qua lại mang tính chất khác cũng bắt đầu xuất
hiện giữa hai lĩnh vực.
Pawel Rybicki
Lịch Sử Khoa Học Và Xã Hội Học Khoa Học
(L’Histoire des sciences et Sociologie de la science, Organon, 6, 1969)
Người dịch : Nguyễn Văn Khoa
Nguồn: “LỊCH SỬ KHOA HỌC & XÃ HỘI HỌC KHOA HỌC (P. RYBICKI, 1969)”, Ired, 15 tháng 02 năm 2021
[1] Paweł Rybicki (1902-1988): nhà xã hội học, sử gia khoa học người Ba Lan. Tác phẩm: Początki i podstawy nauki o społeczeństwie (Les débuts et les fondements de la science de la société, 1963); Społeczeństwo miejskie (Société urbaine, 1972); Struktura społecznego świata (La structure du monde social, 1979). NVK.