15.7.25

Thời đại khai sáng – Cách mạng Pháp 1789 (2)

THỜI ĐẠI KHAI SÁNG – CÁCH MẠNG PHÁP 1789 (2)

Phần 2: Nguyên nhân xã hội, văn hóa, tư tưởng
Biên soạn: Tôn Thất Thông – Hiệu đính: Hoàng Lan Anh

Trong phần một, chúng ta đã khảo sát ba nguyên nhân chính trị, kinh tế và tài chính, vốn dĩ là những ngòi nổ làm cách mạng bùng phát. Giờ đây, chúng ta khảo sát những nguyên nhân sâu xa hơn. Trước hết là sự xung đột quyền lợi giữa các giai cấp, vốn đã âm ỉ từ một thời gian rất dài, và trong bối cảnh trào lưu khai sáng đang lên đến đỉnh điểm, sự xung đột đó đã trở thành ý thức chính trị sống động và làm sống dậy niềm khao khát về một sự chuyển hóa sâu rộng mang tính biến đổi hệ hình. Sau đây là ba nguyên nhân sâu xa mang tính quyết định để làm phát sinh cuộc cách mạng 1789.

Tình trạng phân hóa xã hội

Sử gia Eberhard Schmitt, giáo sư đại học Bochum, nhận xét rằng, không có nhà sử học nào muốn khảo sát nguyên nhân sâu xa dẫn đến cách mạng Pháp, mà không thừa nhận ít nhiều rằng, tình trạng xã hội đóng vai trò vô cùng quan trọng so với những nguyên nhân khác, có lẽ quan trọng hơn cả lý do kinh tế[1], hơn cả tình trạng áp bức chính trị, cũng quan trọng hơn cả ý thức phản kháng của lớp trung lưu trí thức trong phong trào khai sáng đang phát triển rực rỡ.

Trên góc nhìn đó, điều quan trọng hàng đầu kích thích trào lưu cách mạng là sự phân bố tài sản và đặc quyền quá chênh lệch giữa hai giai cấp tăng lữ, quý tộc được ưu đãi và tầng lớp thứ ba thua thiệt trong xã hội. Sự chênh lệch về mức độ giàu có của tăng lữ, quý tộc so với hơn 98% người dân thuộc tầng lớp thứ ba, là một bức tranh tương phản khó lòng được chấp nhận.

Vào tháng giêng năm 1789, trong lúc cuộc khủng hoảng chính trị đang đạt đến đỉnh điểm, một tờ truyền đơn nảy lửa của mục sư Emmanuel Joseph Sieyès mang tựa đề “Tầng lớp thứ ba là gì?” (Qu’est-ce que le Tiers-État?) làm sống dậy một cuộc tranh luận sôi động trong công luận vốn dĩ đã bị phân hóa sâu sắc. Tờ truyền đơn không che dấu thực tại cuộc khủng hoảng đương thời về xã hội, kinh tế và chính trị, trong đó tầng lớp thứ ba là nạn nhân phải gánh chịu mọi thua thiệt, trong lúc tầng lớp này, với số lượng áp đảo đến 98% tổng dân số, phải là hiện thân của quốc gia. Vị mục sư Sieyès kết luận với phán quyết sắc bén không khoan nhượng: “Giai cấp quý tộc, vì bản chất ăn bám xã hội, không thể được xem là một thành phần của dân tộc”[2].

Tờ truyền đơn “Tầng lớp thứ ba là gì?”
Tác giả: Mục sư Emmanuel Joseph Sieyès

Trong thời gian đó, nguồn gốc quý tộc, chứ không phải là năng lực hay công trạng, là yếu tố quyết định cơ hội thăng tiến, và chiếm giữ các vị trí xã hội và chức vụ trong guồng máy nhà nước. Người Việt Nam có thể dễ dàng hiểu tình trạng của giai cấp quý tộc ở Pháp lúc ấy khi so sánh với xã hội Việt Nam: Hiện nay, những chức vụ cao nhất trong guồng máy nhà nước, như nội các, bộ trưởng, chủ tịch tỉnh, huyện, xã, các chức vụ quan trọng trong cơ quan hành chính đều là đảng viên, và nhiều lúc điều khiển cả những nhân viên có năng lực cao hơn mình. Đảng viên đương nhiên hưởng những đặc quyền của chế độ, cũng giống như giai cấp quý tộc và tăng lữ thời trung cổ ở Pháp.

Ba giai cấp của xã hội Pháp trong thế kỷ 18.
Nguồn: Truyền hình ZDF – Kênh Terra X, chương trình W2G Geschichte.

Xã hội Pháp từ thời trung cổ đã chia làm ba giai cấp rõ rệt:

Thứ nhất, giai cấp tăng lữ (le clergé) bao gồm mọi quan chức của Giáo hội, cao nhất là Tổng giám mục địa phận, xuống bên dưới cùng là những linh mục giảng đạo trong các nhà thờ, chức càng cao thì sở hữu ruộng đất càng nhiều, tài sản cá nhân và quyền lực càng lớn.

Thứ hai, giai cấp quý tộc (la noblesse) bao gồm những người thuộc dòng dõi vua chúa kể cả các triều đại trước, thêm những người có công với triều đình và được phong tước. Cá biệt có những người xuất sắc vươn lên đạt tước vị quý tộc bằng những công trạng lớn. Ở đây cần lưu ý rằng, quý tộc có hai loại: loại được thừa kế, tức là con cháu đương nhiên sẽ được mang tước vị quý tộc, và loại không có tính thừa kế, tức là tước vị quý tộc chỉ có giá trị cho cá nhân đó.

Thứ ba, là giai cấp cuối cùng bao gồm tất cả những người còn lại không thuộc hai giai cấp ở trên. Tầng lớp thứ ba này (le tiers état) bao gồm nông dân, lao động, những người nghèo khó không có tài sản, đồng thời bao gồm cả thương gia, công kỹ nghệ gia, tiểu thủ công nghiệp và những người có uy tín cao trong xã hội như luật sư, bác sĩ, học giả, triết gia, giáo sư đại học v.v…

Theo thống kê lúc ấy, tầng lớp thứ ba gồm 25 triệu người, tức 98% tổng dân số của Pháp. Trong lúc đó, toàn bộ giai cấp tăng lữ và quý tộc gộp lại chỉ có 500.000 người, tức 2% tổng dân số, nhưng lại chiếm hữu gần 55% diện tích đất canh tác của quốc gia[3]. Giới quý tộc không có nghĩa vụ đóng thuế, họ nắm giữ tất cả vị trí trọng yếu trong chính quyền, và hưởng nhiều ưu đãi khác của triều đình.

Đại đa số quý tộc sống trên lãnh địa riêng tại địa phương. Họ biện minh việc chiếm hữu đất đai bằng lời ngụy biện cho rằng, họ còn phải trang trải phí tổn của cảnh sát, tòa án, trường học, nhà thương và các cơ quan công quyền địa phương. Trên thực tế, những cơ quan đó đều trực thuộc chính quyền trung ương. Nói cách khác, giới quý tộc, tức là tinh hoa của chế độ chuyên chế, trở thành tầng lớp ăn bám xã hội, hút hết tất cả phúc lợi xã hội mà không đóng một đồng thuế nào, con cái cũng không cần phải thi hành nghĩa vụ quân sự.

Đa số quý tộc là những đại điền chủ, chiếm hữu nhiều đất canh tác đến độ, phần lớn đất đai của họ đều bỏ hoang vì không có đủ nông nô để canh tác. Giới quý tộc đã làm giàu nhờ hệ thống “địền chủ – nông nô” được thiết lập từ thời trung cổ, được vương triều bảo vệ bằng luật pháp. Nhà nông học Anh Arthur Young diễn tả nước Pháp lúc ấy như sau: “Đồng ruộng mênh mông là hình ảnh của phương cách làm giàu vô liêm sĩ, trong lúc nhà cửa người dân là hình ảnh tượng trưng của sự nghèo khổ. Nhưng đúng ra, quốc gia này rất có tiềm năng cải thiện, nếu người ta biết cách và có thiện chí cải thiện[4]”.

Để đối phó với những đòi hỏi cải cách ngày càng gay gắt, giới quý tộc tìm đủ cách để duy trì lợi thế và quyền lực của mình. Năm 1781, họ còn thuyết phục được vua Louis XVI kiểm tra lại toàn bộ nhân viên nhà nước. Ai không chứng minh được ít nhất bốn thế hệ về trước đã thuộc dòng dõi quý tộc, sẽ bị rút lại danh xưng quý tộc và tất nhiên là bị sa thải khỏi những vị trí cao trong chính quyền cũng như sĩ quan trong quân đội và hải quân. Người dân thường, kể cả trung lưu trí thức như bác sĩ, luật sư, khoa học gia, nếu không thuộc dòng dõi quý tộc, họ chỉ được tham gia vào guồng máy nhà nước ở những vị trí thừa hành.

Đến đây, chúng ta tạm bỏ qua giai cấp tăng lữ để khảo sát sơ lược tình trạng sinh sống của tầng lớp thứ ba trong buổi bình minh của cuộc cách mạng 1789.

Trước hết là giai cấp nông dân. Mặc dù có những đạo luật cải cách nông nghiệp trong thập niên 1770, và sau 20 năm, chế độ nông nô được bãi bỏ, nhờ thế, trên lý thuyết, 95% nông dân đã được giải phóng. Nhưng trong thực tế, khi việc chiếm hữu đất đai chưa được tái phân phối bởi pháp luật, thì số phận của đại đa số nông dân vẫn còn bị phụ thuộc vào dịch vụ canh tác làm thuê cho chủ đất, và như thế vẫn bị ràng buộc vào các nghĩa vụ được quy định bởi luật lệ đã có từ trước.

Nghĩa vụ đó bao gồm tiền thuê đất canh tác, quyền sử dụng đất, phân bón, trả tiền thuê máy móc, kho bãi, tất cả cộng lại hơn 50% thu hoạch vụ mùa, phần còn lại thường chỉ đủ để cả gia đình sống qua ngày. Các gia đình nông nô thường xuyên rơi vào nạn đói khi mưa gió thất thường làm thiệt hại mùa màng. Trong tình trạng đó, làm sao không nảy sinh oán ghét và thù địch giữa quý tộc và nông dân?

Nhà nông học Anh Arthur Young gọi tình cảnh nông nô ở Pháp lúc ấy là “lời nguyền rủa và sự ung thối của quốc gia” . Cụm từ đó không những để nói đến tính chất tàn bạo của giới đại điền chủ, mà còn thể hiện tình trạng thực tế là, nông dân không còn hứng thú để nâng cao năng suất lao động. Cho nên, chúng ta không ngạc nhiên khi hàng loạt đất đai của quý tộc bỏ hoang không người canh tác, trong lúc hàng ngàn cư dân thành thị thiếu bánh mì để ăn hàng ngày.

Tình trạng đó càng trở nên tồi tệ hơn trong hai thập niên 1770 và 1780. Trong hai thập niên đó, với sản lượng nông phẩm tăng lên, tiền công thuê mướn nông dân cũng tăng 12%. Tuy thế, với tình trạng tài chánh triều đình đã phá sản, vật giá cũng tăng 65%. Tình trạng đó làm cho nông dân, thợ thuyền đã nghèo lại càng nghèo khó hơn, tạo nên một giai cấp vô sản ngày càng đông đảo, một đạo quân khổng lồ của những người ăn xin ở thành thị. Triết gia đạo đức học Sébastien Chamfort (1741 – 1794), nhà khai sáng tiếng tăm của Pháp, ước đoán rằng, Pháp lúc ấy có khoảng 7 triệu người phải sống trên sự bố thí từ vương triều, tăng lữ và từ 12 triệu người khác trong cộng đồng[5], những người vốn dĩ có lòng tương thân tương ái, nhưng cũng không dư dã gì lắm.

Gánh nặng đè lên vai nông dân không chỉ đến từ tính chất tàn bạo của chế độ “điền chủ – nông nô”, hoặc từ khí hậu mưa gió thất thường làm suy giảm mùa màng. Gánh nặng khác còn phi lý và tàn bạo không kém: đó là hệ thống thuế thu nhập của thợ thuyền, cư dân thành thị và nhất là đối với nông dân, một cổ hai tròng chịu gánh nặng của hai hình thức thuế khác nhau.

Loại thuế thứ nhất: Người nông dân, khi canh tác trên ruộng đất của mình hay làm khoán trên ruộng đất của điền chủ, đều phải chịu một suất thuế thu nhập, căn cứ vào diện tích canh tác và phỏng đoán của người thu thuế (Taxateur) về mùa màng có thể thu hoạch được. Số thuế này cố định, độc lập với số lượng thu hoạch trong năm nhiều hay ít, được mùa hay mất mùa. Cho nên, khi gặp hạn hán mất mùa, người nông dân dù không đủ ăn, vẫn phải đóng thuế nông dân, cho nên nhiều lúc phải bán nhà bán cửa, bán vợ đợ con, hoặc lên thành thị gia nhập vào đoàn quân thất nghiệp, đi ăn xin.

Loại thuế thứ hai: Đó là thuế áp lên nông dân, thợ thuyền và tất cả những người khác trong tầng lớp thứ ba (tiers état). Nó được quy định hết sức tùy tiện. Người thu thuế nhìn vào nếp sống thường nhật để xác định ai là người giàu có, thu nhập cao phải đóng nhiều thuế. Một báo cáo của sở thuế Paris năm 1709 viết rằng: “Người giàu có nhất trong vùng cũng phải đợi đến tối mới dám mổ heo nướng thịt để tránh sự nhòm ngó, vì nếu anh ta làm chuyện đó một cách công khai, thì người thu thuế sẽ đến để tăng thuế”. Hoặc một báo cáo khác vùng Berry năm 1778: “Người nông dân không dám khoe năng lực thật sự, tức là thu nhập cao, cũng không dám dùng tài sản của mình để hưởng thụ cuộc sống. Họ phải hạn chế việc sử dụng nội thất đắt tiền, y phục đẹp đẽ, thực phẩm cao cấp. Nói tóm lại họ phải che dấu tất cả những gì có thể làm cho người thu thuế chú ý”[6].

Trong tầng lớp thứ ba (tiers état), ngoài nông dân thợ thuyền, chúng ta cần đề cập đến những thành phần khác rất quan trọng, những thành phần mà chúng ta có thể gộp chung trong một cụm từ quen thuộc, là giai cấp tư sản. Họ chiếm một chỗ đứng khá nổi bật trong tầng lớp thứ ba.

Họ bao gồm những người có năng lực kinh doanh, thương gia thành đạt, công kỹ nghệ gia, tức là lớp người sở hữu tài sản lớn so với mọi người, và biết dùng tư bản để thúc đẩy hoạt động kinh doanh phục vụ thị trường; thêm vào đó là những người có uy tín trong xã hội mà mọi người dân dễ dàng tiếp cận, như bác sĩ, luật sư, ký giả, văn thi sĩ, nhà giáo; ngoài ra, tất nhiên rất quan trọng là học giả, nhà nghiên cứu, triết gia, nhà tư tưởng, tức là lớp người có năng lực, tư duy, tri thức và viễn kiến để định hướng đi của lịch sử, phù hợp với sự tiến hóa tất yếu của thời đại.

Thế mà trong xã hội Pháp thế kỷ 18, giai cấp tư sản không có quyền hành gì trong hệ thống nhà nước. Họ không được phép trở thành sĩ quan quân đội, không có quyền nắm giữ những chức vụ chủ chốt trong mọi cơ quan. Nói cách khác, trong hệ thống nhà nước, họ phải vâng lời thuần phục cấp trên, vốn dĩ là những quý tộc được chế độ ưu đãi, cho dù đó là những quý tộc với năng lực kém cỏi và kiến thức nghèo nàn.

Trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động trong một xã hội tiến bộ, giai cấp tư sản là lớp người phù hợp nhất để có thể phác họa một chương trình hành động cho công cuộc canh tân xã hội. Dù thế, trong thế kỷ 18 ở Pháp, giai cấp tư sản là lớp người bất mãn nhất, chua cay nhất đối với những ưu đãi về xã hội, luật pháp và chính trị của hai tầng lớp tăng lữ và quý tộc[7]. Vì thế, những sáng kiến cách mạng tiến bộ nhất đều do giai cấp tư sản đề xướng. Có thể nói một cách khá chắc chắn rằng, giai cấp tư sản là động lực thúc đẩy cách mạng tiến đến thành công, và cuộc cách mạng Pháp năm 1789 là một cuộc cách mạng tư sản vĩ đại trong lịch sử loài người.

Chúng ta hãy nghe sử gia Antoine Barnave nói về giai cấp tư sản thế kỷ 18 ở Pháp: “Hoạt động thương mại và sản xuất công nghiệp tạo nên sự tái phân bố tài sản trong xã hội và từ đó là sự sắp xếp lại quyền lực chính trị. Nếu như việc chiếm hữu ruộng đất trước đây đã tạo nên quyền lực chính trị cho giới quý tộc, thì giờ đây, việc chiếm hữu tư liệu sản xuất đã nâng quyền lực của giới công nghiệp lên một tầng cao mới. Họ trở nên tự do hơn, số lượng ngày càng đông hơn trong xã hội, và bắt đầu sử dụng quyền lực kinh tế để ảnh hưởng lên tiến trình phát triển lịch sử”[8].

Thế mà, vai trò của giới tư sản thành thị vẫn không được xem trọng trong các cơ quan công quyền. Nhà sử học có xu hướng xã hội Jean Jaurès sống vào cuối thế kỷ 19 có một nhận xét khá chính xác[9]: “Nếu như xã hội Pháp trong thế kỷ 18 không còn những lạm dụng của các tàn dư chế độ phong kiến và giới quý tộc, có lẽ nước Pháp đã không cần một cuộc nổi loạn nào để giải quyết tình trạng bệnh hoạn của xã hội. Nếu những ưu đãi của giới quý tộc và hệ thống phong kiến dần dần được xóa bỏ, đi kèm với việc giải phóng tầng lớp nông dân, thì có lẽ đã đưa đến sự chuyển hóa xã hội một cách hoà bình”. Tiếc thay, lịch sử vẫn luôn là một loạt các bài học được phát hiện quá trễ.

Nhà sử học, giáo sư George Taylor của đại học New Jersey nhận xét về sức ỳ của chế độ cũ Pháp (Ancien régime) đã đưa đến cuộc cách mạng như sau: “Nếu trong thế kỷ 18, Pháp đã tiến hành một cuộc cách mạng nông nghiệp tương tự như ở Anh, thì chúng ta cũng có thể nói đến một nền tư bản nông nghiệp và khám phá bản sắc kinh doanh tiềm ẩn, vốn dĩ luôn xem tiền lời là lợi nhuận, và họ thường tăng lợi nhuận bằng cách đầu tư vào việc tăng năng suất lao động. Tiếc thay, chúng ta không tìm thấy những điều đó trong chế độ cũ ở Pháp”[10].

Vì tư duy kinh tế nông nghiệp không thay đổi, cho nên đời sống nông dân vẫn mãi mãi là cuộc đời nông nô. Điều này âm ỉ lâu ngày tất yếu sẽ đẩy nông dân vào tâm lý đối kháng, và dần dần biến nông dân thành một bộ phận của cách mạng, khi có một lực lượng bên ngoài châm ngòi. Lực lượng đó chính là giai cấp tư sản trung lưu. Tất cả đều thuộc tầng lớp thứ ba trong cấu trúc xã hội Pháp lúc ấy.

Ảnh hưởng của trào lưu khai sáng

Bất kể nguyên do quan trọng dẫn đến cách mạng Pháp là kinh tế hay xã hội, không ai có thể phủ nhận rằng, sự phát triển mạnh mẽ – về lượng cũng như về chất – của tầng lớp trí thức tư sản Pháp trong thế kỷ 18 đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự tiến hóa của phong trào cách mạng. Các triết gia Pháp đã xuất bản nhiều tác phẩm bàn luận những khái niệm mới mẻ về công bằng xã hội, về quyền công dân và lý thuyết nhà nước. Họ đưa ra một học thuyết mới, nhân danh tinh thần lý tính, để phê phán chế độ quân chủ chuyên chế đương thời và trình bày một mô hình xã hội mới, mà nguyên lý của nó hoàn toàn trái ngược với thói quen và truyền thống cổ điển.

Xu hướng chung của các tác phẩm triết học lúc đó đều nhắm đến việc hạ bệ học thuyết nhà nước chuyên chế. Chẳng hạn, nhà quý tộc Montesquieu đã từng tuyên bố rằng, chế độ chuyên chế là địa ngục trần gian. Vì thế ông đã trăn trở, thao thức, đã bỏ ra hơn 20 năm miệt mài làm việc để tìm một giải pháp thay thế cho chế độ chuyên chế. Từ đó, tác phẩm Về tinh thần luật pháp ra đời, trong đó Montesquieu không tiếc lời phê phán gay gắt chế độ chuyên chế và đưa ra phương cách giải quyết, là làm thế nào để ngăn ngừa một thể chế như vậy. Tác phẩm đó chính là thời khắc sinh thành của nguyên lý “tam quyền phân lập”, một cột trụ vững chắc của hầu hết các quốc gia dân chủ ngày nay.

Dù ít người nêu đích danh Louis XVI, nhưng người đọc đều cảm nhận được tính bất hợp pháp của chế độ đương thời và nó cần được chấm dứt. Chính xu hướng đó đã kích thích ước muốn và nhiệt tình làm cách mạng của giới trí thức tư sản, và khi có điều kiện, nhiệt tình đó sẽ lan tỏa ra các thành phần nông dân, tiểu thương và lao động trong xã hội để tạo thành sức mạnh thúc đẩy cách mạng. 

Như trên đã nói, kể từ thời trung cổ, căn cứ vào nguồn gốc gia tộc lúc vừa sinh ra đời, xã hội Pháp được phân chia thành ba tầng lớp, trong đó hai tầng lớp cao là tăng lữ và quý tộc hưởng nhiều quyền lợi và khỏi đóng thuế. Tất cả gánh nặng tài chính quốc gia đều đặt lên vai của tầng lớp thứ ba, tức những người còn lại. Giữa sự giàu có của hai tầng lớp được ưu đãi và sự nghèo khó của tầng lớp thứ ba là một vực thẳm không bao giờ được lấp đầy.

Trước thế kỷ 17, không ai đặt câu hỏi tại sao trật tự đó vẫn tiếp tục tồn tại. Giới tăng lữ tất nhiên không đặt ra, vì trật tự đó do vua định đoạt, mà quyền cai trị của vua thì đã được Thượng Đế ban cho tính chính danh. Giới quý tộc thì hưởng quá nhiều quyền lợi trong trật tự đó, cho nên không muốn thay đổi. Thế còn giới học giả tinh hoa thì sao? Đa số đều được đào tạo trong các tu viện, cho nên toàn bộ tư tưởng và hành động đều chịu ảnh hưởng của giới tăng lữ. Trong thế giới đó, mọi người kể cả giới học giả tinh hoa được hướng dẫn là phải định hướng tư tưởng theo giáo lý thần học và thuần phục trật tự có sẵn, mọi hành động đều được định trước từ một thế lực bên trên, hoặc từ nhà chuyên chế, hoặc từ quan chức Giáo hội.

Nhưng kể từ giữa thế kỷ 17, nhất là khi bước qua thế kỷ 18, một luồng gió mới thổi đến lan tràn khắp nơi ở châu Âu làm thay đổi tận gốc tư tưởng của giới tinh hoa, nhất là những học giả được đào tạo trong đại học không có liên hệ nào với tu viện của Giáo hội. Dưới ánh sáng của trào lưu khai sáng, người ta bắt đầu đề cao lý tính, ưa chuộng giáo dục, khuyến khích tính độc lập trong suy nghĩ và hành động mà không cần một thế lực nào dẫn dắt. Khuôn thước tư duy cổ điển và trật tự xã hội cũ bắt đầu trên bước đường lung lay.

Người ta bắt đầu đặt nhiều câu hỏi mới mẻ. Tại sao giới quý tộc và tăng lữ nhận được nhiều ưu đãi, trong lúc những người còn lại thì không? Tại sao chỉ có thể chế quân chủ chuyên quyền duy nhất trên khắp lục địa mà không có một thể chế khác tốt đẹp hơn? Tình trạng này có thể thay đổi được không? Có thể xây dựng một thế giới bình đẳng tự do hơn không?

Trước đây trong thời trung cổ, ít người đặt ra những câu hỏi “ngớ ngẩn” như thế, hoặc nếu có đặt ra cũng không ai tìm được đáp án. Dưới luồng gió mới của trào lưu khai sáng, người ta đặt ra mọi câu hỏi, tranh luận với nhau về mọi đề tài, về lô-gic, về chính trị, về chân lý, về quyền tự nhiên, về công bằng, v.v…

Người Pháp trong thế kỷ 18 hăng say thảo luận mọi vấn đề, ở khắp mọi nơi, trong quán cà phê, trong khuôn viên đại học, trên đường phố, trong gia đình, và nhất là trong các câu lạc bộ tư nhân quy tụ nhiều học giả tinh hoa của xã hội, được gọi là những Salons de Paris. Những câu lạc bộ này thường được bảo trợ bởi những quý tộc giàu sang và có tư tưởng tiến bộ; rất nhiều câu lạc bộ đó là do các mệnh phụ phu nhân chủ trì. Họ cũng là những người có chức quyền để bảo kê ngăn chặn sự nhòm ngó của các cơ quan kiểm duyệt. Thêm một yếu tố: Salons học thuật cũng là mốt thời thượng của xã hội thượng lưu Pháp trong thế kỷ 18.

Salon Marie Therese 1755. Tranh sơn dầu 1854.

Chúng ta chưa kể đến một luồng sinh khí mới được thổi đến từ đảo quốc Anh, nhất là kể từ năm 1688, khi cuộc Cách mạng Huy hoàng (Glorious Revolution) thành công rực rỡ, vĩnh viễn chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế, để chuyển qua chế độ quân chủ đại nghị một cách ôn hòa, qua đó tiếng nói của người dân, thông qua các đại biểu trong quốc hội, ngày càng có nhiều ảnh hưởng trong nền chính trị quốc gia.

Ở Anh, từ đầu thế kỷ 17 đã manh nha những tư tưởng mới lạ có tính đột phá trong triết học, có bản chất cách mạng trong chính trị, có tính chính xác và kiểm chứng được của khoa học tự nhiên. Trong lúc cọ xát với bạo lực chính trị thường xuyên, những tư tưởng cách mạng không ngừng được triển khai và phổ biến rộng, cho dù họ phải đối diện với đàn áp, bắt bớ, tù đày.

Ở Anh quốc đã sản sinh những biểu tượng của tư tưởng đấu tranh cho tự do và bình đẳng, cũng như những mô hình nhà nước mới mẻ khác hẳn mô hình quân chủ chuyên chế ở Pháp. John Locke, David Hume chỉ là một vài khuôn mặt tiêu biểu. Học giả Pháp như Montesquieu, Voltaire đã dành nhiều thì giờ sinh sống ở Anh để khảo sát đời sống và các luồng triết học ở đó. Họ hết sức ấn tượng và đã mang về Pháp những nét quyến rũ của triết học khai sáng ở Anh quốc. Tư tưởng của họ thường được nhắc đến trong các câu lạc bộ học thuật ở Paris khi thảo luận về triết học và chính trị.

Dưới mắt Voltaire và Montesquieu, đảo quốc Anh không phải là một “ốc đảo đen tối và bất ổn của những đồ tể giết vua”. Người Anh cũng không phải là dân tộc thiếu khoan dung, tham lam, cai trị người dân bằng công cụ lạnh lùng, mà nhà nước Anh là một thực thể khai sáng, khoan dung và tự do, cư dân của họ gồm nhiều học giả, nhà tư tưởng đáng ngưỡng mộ. Đối với thế giới, đó là một nhà nước kiểu mẫu để phục vụ cho phẩm hạnh và nhân cách của công dân[11]

Những câu hỏi “ngớ ngẩn” ở trên dần dần được sáng tỏ nhờ không khí thảo luận sôi động trong mọi tầng lớp. Những phát biểu mang tính cách mạng của học giả hàng đầu đã lôi cuốn thanh niên, sinh viên, trí thức tư sản có xu hướng xây dựng cho bản thân mình một lề lối tư duy độc lập, một phong cách sống dấn thân phục vụ cho tự do và bình đẳng xã hội. Thế kỷ 18 của Pháp đã trở thành thiên đường của triết học, văn chương, nghệ thuật, và Paris trở thành trung tâm văn hóa của cả lục địa châu Âu.

Người ta có thể tìm thấy lời giải cho mọi câu hỏi mới mẻ được đặt ra và chúng cũng dễ dàng được tiếp cận qua sách báo, kịch nghệ, văn chương châm biếm. Đặc biệt từ lúc dự án Bách khoa Toàn thư phát hành tập I năm 1751, trào lưu khai sáng bước vào giai đoạn rực rỡ chưa từng có, và qua bộ Bách khoa Toàn thư đồ sộ được hoàn tất năm 1780, người đọc có thể tìm thấy lời giải cho mọi câu hỏi của thời đại. Viễn kiến của những người thành lập dự án là “tập hợp mọi kiến thức trên thế gian, để biến chúng thành tài sản chung mà mọi người đều có thể tiếp cận được”. Đó là một sáng kiến cách mạng chưa bao giờ có.

Trong khoảng thời gian 20 năm từ 1751 đến 1772, Bách khoa Toàn thư đã thu thập mọi sáng kiến và thành tựu triết học, tư tưởng, khoa học để đối phó với một kẻ thù chung, đó là chủ nghĩa chuyên chế. Vũ khí của họ là thuyết vô thần, thuyết duy cảm, lý tính, tiến bộ, chủ nghĩa tự do trong kinh tế và chính trị v.v… Tất cả chỉ để làm sống dậy một trạng thái tự nhiên, trong đó, mọi người đều có những quyền tự nhiên như nhau, sở hữu tài sản giống nhau[12]. Việc thiết lập một chế độ chính trị mới mẻ hơn chế độ chuyên chế hiện hữu là bước đi tất yếu tiếp theo.

Các học giả tiến bộ nghi ngờ trật tự xã hội do Thượng Đế định đoạt, một trật tự quyền lực được thừa nhận và tồn tại trong xã hội châu Âu từ hơn một ngàn năm trước. Trong trào lưu phản kháng đó, ngòi nổ dường như đã được chuẩn bị sẵn và chờ điều kiện thuận lợi sẽ bén lửa và phá tung trật tự có sẵn, để thiết lập một trật tự mới, trong đó, mỗi người khi được sinh ra đã có sẵn quyền tự do tự nhiên và quyền bình đẳng với mọi người khác. Thông điệp của các triết gia khai sáng thật rõ ràng: Đừng tin vào các thế lực chuyên chế, cũng đừng tin vào những gì mà các thế lực bên ngoài nói với bạn, mà hãy sử dụng và tin tưởng vào lý tính của chính bạn.

Người ta đặt ra những câu hỏi mà trước đó ít người đặt ra, tại sao giới quý tộc và tăng lữ từ lúc sinh ra đã có những đặc quyền hơn người khác? Tại sao chúng ta không thể thay đổi trật tự cũ ấy để làm cho cuộc sống con người trong xã hội tốt đẹp hơn? Đó là những câu hỏi liên quan đến toàn bộ hệ thống chính trị đương thời, đến chế độ quân chủ chuyên chế và gắn liền với nó là cấu trúc thượng tầng phi lý và sự phân hóa giai cấp rất hiển nhiên giữa quý tộc, tăng lữ và thành phần dân chúng còn lại.

Mọi tư tưởng, mọi cuộc thảo luận đều quay quanh những khái niệm mới mẻ: tự do, bình đẳng, dân chủ, pháp quyền v.v… Cũng cần lưu ý rằng, trong thời gian trước, những tư tưởng mới và tiến bộ chỉ được triển khai trong tầng lớp học giả, tức là một bộ phận rất nhỏ trong xã hội. Tuy nhiên, những sáng kiến của trào lưu khai sáng thì dần dần thâm nhập vào mọi tầng lớp quần chúng, từ đó ý thức tự tin được xây dựng, đòi hỏi của công dân về tự do bình đẳng ngày càng được nâng cao. Cách mạng chỉ có thể thành công, khi giữa hai lớp người này có một mối liên kết chặt chẽ, chí ít là quan tâm của họ phải giống nhau trong thời điểm mà cách mạng có thể bùng phát.

Ảnh hưởng của cách mạng Mỹ 1776

Một biến cố vô cùng quan trọng không thể không nhắc đến ở đây, biến cố còn nóng hổi vừa xảy ra bên kia bờ Đại Tây Dương đã tạo nên một xung lực mạnh mẽ lên hệ tư tưởng của giới tinh hoa Pháp: 13 bang miền Đông Bắc Mỹ đã tách rời mẫu quốc Anh từ năm 1776. Họ tuyên bố độc lập và thiết lập một nhà nước liên bang tự do, dân chủ, không có vua, không ai là quý tộc, cũng không có quan chức Giáo hội có thể ảnh hưởng lên chính trị quốc gia. “Mọi người sinh ra đều bình đẳng, Đấng sáng tạo đã ban cho họ những quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền hưởng tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc[13]”.

Và tại quốc gia trẻ trung đó, bỗng nhiên thành hình một xã hội hiện đại đáng mơ ước, trong đó lý tính, tự do, bình đẳng là những yếu tố được công nhận một cách hiển nhiên. Và để bảo vệ quyền công dân, hiến pháp của họ cũng ghi rõ nguyên tắc phân quyền và cách hoạt động hỗ tương nhưng độc lập của lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà quý tộc Montesquieu, một người con của thành phố Bordeaux ở Pháp, đã triển khai nguyên tắc phân quyền đó để trở thành lý thuyết chính trị, ông đã viết thành sách và xuất bản năm 1751 tại Pháp, tức 25 năm trước khi cách mạng ở Mỹ bùng nổ. Người Pháp tự hỏi, tại sao điều đó đã trở thành hiện thực ở Mỹ, mà lại chưa thể xuất hiện ở Pháp, nơi sinh thành của thuyết phân quyền cũng như những lý thuyết nhà nước hiện đại?

Thành tố cách mạng trong hệ tư tưởng của triết gia Pháp trong thế kỷ 18 là sự từ chối tư duy truyền thống, họ chỉ đặt nền tảng suy luận trên chính mình thông qua lý tính, quan sát, suy luận lịch sử và tinh thần khoa học. Theo họ, nhà nước không còn là một thực thể gắn liền với các nhà cầm quyền chuyên chế mà mọi người phải cúi đầu thuần phục. Ngược lại, chức năng chính của nhà nước là bảo đảm quyền tự nhiên cho từng công dân[14].

Ý tưởng này đã được John Locke triển khai từ thế kỷ 17, nhưng nó thực sự thăng hoa hơn bao giờ hết tại Pháp trong hậu bán thế kỷ 18. Học thuyết về nhân quyền thời hiện đại chính là sản phẩm của triết gia Pháp trong thế kỷ 18. Hơn nữa, nhiều lý thuyết khác nhau đã hội tụ về khái niệm “học thuyết cách mạng”, điều mà chúng ta có thể thấy trong tư tưởng của John Locke, Montesquieu, Voltaire, Jean Jacques Rousseau, Denis Diderot và các học giả khai sáng của nhóm Bách khoa Toàn thư.

Nhưng cho đến hậu bán thế kỷ 18, tất cả những vấn đề lý thuyết ấy vẫn còn trong tình trạng viễn kiến, như những giấc mơ chưa thể thành hiện thực. Ngay cả những chiến binh hăng hái nhất của trào lưu khai sáng cũng không nghĩ rằng, cuộc đời họ sẽ được chứng kiến nó xuất hiện trên lục địa châu Âu. Thế mà viễn kiến ấy đã thành hiện thực ở một phương trời xa xăm, ở bên kia bờ Đại Tây Dương. Và chính cuộc cách mạng Mỹ đã nhanh chóng thay đổi tiến trình phát triển cách mạng ở châu Âu, nhất là khi các học giả ở hai phương trời xa xăm đó vẫn thường xuyên liên lạc để trao đổi, tương tác lẫn nhau.

Hiếm khi triết gia và nhà ngoại giao có thể đồng ý với nhau về một chuyện gì, nhưng trong trào lưu khai sáng, họ đều thấy rằng, những tác phẩm của Voltaire, Jean-Jacques Rousseau, Denis Diderot, Guillaume Raynal và hàng trăm học giả tiếng tăm khác đã ươm mầm tinh thần và ý chí cách mạng của người Pháp để chuẩn bị cho việc giải phóng thuộc địa cũng như giải phóng tư tưởng con người. Và nhiều nhà lãnh đạo Mỹ, như George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson là những cổ động viên của trào lưu khai sáng Pháp[15]. Ngoài ra trong vòng những đại biểu hàng đầu của trào lưu khai sáng ở Pháp, cũng như ở Mỹ, vẫn thường xuyên có những cuộc trao đổi học thuật để hoàn thiện những vấn đề lý thuyết.

Trước tiền bán thế kỷ 18, sự tương tác giữa hai bên phần lớn đi theo một chiều, ấy là phần lớn sáng kiến từ châu Âu ảnh hưởng sang Bắc Mỹ. Cũng không ai có mảy may hy vọng rằng, những triết lý chính trị, lý thuyết nhà nước hiện đại sẽ được thực hiện trước tiên ở Bắc Mỹ. Thế mà ngạc nhiên thay, điều đó đã xảy ra năm 1776. Và cũng chính điều đó đã thôi thúc mạnh mẽ những học giả tiên phong của Pháp tìm cách nhanh chóng thực hiện lý tưởng chính trị của mình để thay đổi hệ thống nhà nước.

Chúng ta thử xem xét thành quả nào của cách mạng Mỹ đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên tiến trình vận động chính trị ở Pháp, và khuôn mẫu nào của cách mạng đã trở thành mục tiêu đấu tranh của trào lưu cách mạng ở Pháp. Trong khuôn khổ này, chúng ta chỉ có thể xem xét vài thành quả tiêu biểu.

Thứ nhất, về phương diện luật pháp quốc gia, sự kiện năm  1776 ở Bắc Mỹ quả đúng là một cuộc cách mạng vĩ đại. Lần đầu tiên kể từ thời cổ đại, một quốc gia rộng lớn được thành lập với một nguyên thủ quốc gia mà không cần thủ tục đăng quang của Giáo Hoàng. Trừ cuộc thử nghiệm ngắn ngủi tại Anh, ngoài ra thì sự kiện tương tự chỉ có ở các cộng hòa thành phố hoặc các lãnh địa nhỏ bé như Thụy Sĩ. Các lý thuyết chính trị đương thời đều cho rằng, chế độ cộng hòa không thể tồn tại lâu dài trong một quốc gia rộng lớn. Thế mà Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã thực hiện điều đó một cách diệu kỳ, bằng sức lực của chính mình mà không cần nương nhờ một sức mạnh siêu nhiên nào từ bên ngoài.

Sử gia Leopold von Ranke (1795 – 1886) kết luận gãy gọn: “Đó rõ ràng là một cuộc cách mạng vĩ đại, điều mà từ trước đến nay chưa từng xảy ra trên thế giới. Quả thật, sự kiện này là một sự đảo lộn triệt để, mang tính nguyên lý[16]”. Người Bắc Mỹ khẳng định một thái độ chính trị rõ ràng không thỏa hiệp: Họ từ chối chế độ quân chủ chuyên chế, từ chối vai trò của nhà vua, từ chối cả vai trò của Thượng Đế trong chính trị và phủ nhận điều gọi là “ân sủng của Thượng Đế”.

Thứ hai, vào tháng 6/1776, trước khi 13 bang tuyên bố độc lập, quốc hội bang Virginia đã thông qua Đạo luật về quyền căn bản (Bill of Rights), mà những điều khoản trong đó đã trở thành cốt lõi của hiến pháp Hoa Kỳ sau nàyĐạo luật đó bảo đảm cho mọi công dân những quyền tự do căn bản: tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do hội họp, tự do tố tụng, quyền được bảo vệ chống bắt bớ tùy tiện, chống tra tấn và những hình phạt dã man. Đạo luật cũng giới hạn ảnh hưởng chính trị của những người giàu có, đồng thời mở ra con đường cho những công dân nghèo nhất  có cơ hội tích lũy tài sản và nâng cao ảnh hưởng chính trị. Và thật là một tư tưởng cách mạng, khi đạo luật đó đã bãi bỏ quyền thừa kế đối với mọi ưu đãi chính trị. Điều này càng có ý nghĩa cao về mặt đạo đức, khi chúng ta biết rằng, đa số các lãnh đạo cuộc cách mạng đều thuộc giới tinh hoa của Vương triều Anh, là đại điền chủ, thương gia, luật sư, bác sĩ v.v.…, tức là lớp người vốn đã có nhiều lợi thế tự nhiên trong xã hội.

Lễ ký kết hiến pháp Hiệp Chủng Quốc
Họa sĩ Howard Chandler Christy


Thứ ba, sau khi Tuyên ngôn Độc lập Hiệp Chủng Quốc đã quy định vào tháng 7 năm 1776 rằng, mỗi người sinh ra đều có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Chính phủ được thành lập, trước tiên là để bảo vệ những quyền tự nhiên đó. Tuyên ngôn còn tiếp tục với một nguyên tắc chưa bao giờ được thực hiện ở bất kỳ nơi đâu: “Để bảo đảm những quyền nói trên, chính phủ được thành lập giữa các thành viên trong xã hội trên nguyên tắc đồng thuận. Cho nên, bất cứ khi nào, bất kỳ hình thức chính phủ nào có ý định cản trở những mục đích này, thì người dân có quyền thay đổi hoặc bãi bỏ nó, và thành lập chính phủ mới dựa trên những nguyên tắc như vậy, và có những quyền hạn và thẩm quyền mà họ cho là phù hợp nhất để duy trì an toàn và hạnh phúc của người dân[17]”.

Hơn thế nữa, Tuyên ngôn Độc lập còn khuyến khích người dân đứng lên lật đổ chính phủ trong những trường hợp đặc thù: “Khi nhà nước sử dụng một loạt các hành vi lạm dụng và can thiệp bạo lực liên tục hướng đến một mục tiêu, thể hiện một ý định để đưa chế độ đến sự thống trị tuyệt đối, thì người dân có quyền, thậm chí là có nghĩa vụ, đứng lên để lật đổ chính quyền đó và đảm bảo an ninh mới cho tương lai của chính họ”. Người soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập, Thomas Jefferson gọi văn kiện đó là “minh chứng của tinh thần Mỹ”, và khi tinh thần đó đã trở thành một khái niệm, người ta đã trao cho bản Tuyên ngôn Độc lập một giá trị phổ quát, như một văn kiện mang ý nghĩa lịch sử thế giới.

Thứ tư, các định chế chính trị được xây dựng rất chặt chẽ dựa trên nguyên tắc “tam quyền phân lập” theo tinh thần của John Locke và Montesquieu. Một mặt, hiến pháp liên bang trao quyền lực tối cao của quốc gia vào tay nhân dân, mà đại biểu được họ bầu chọn vào Hạ viện Quốc hội. Mặt khác, với nguyên tắc “kiểm tra và cân đối” (Checks and Balances), Tổng thống, người đứng đầu hệ thống hành pháp, được trao nhiều quyền hành để cân bằng quyền lực với cơ quan lập pháp, hòng hạn chế sự lạm dụng quyền lực từ một trong hai định chế đó, tức lập pháp và hành pháp. Bên cạnh đó, mỗi bang cử hai đại biểu vào Thượng viện Quốc hội để kiểm soát và thông qua tính chính danh của những đạo luật được đề xuất bởi Hạ viện. Dù cấu trúc chính trị này vẫn còn vài chỗ khiếm khuyết, nhưng chưa bao giờ có một quốc gia nào trên thế giới áp dụng triệt để nguyên tắc tam quyền phân lập như hiến pháp Hoa Kỳ quy định từ 1787. Cấu trúc đó đã hoạt động hơn 300 năm, nó tỏ ra rất hiệu quả trong việc bảo vệ chế độ dân chủ tự do, và đã trở thành mẫu mực cho hàng chục quốc gia dân chủ khác trên thế giới.

Thứ năm, về mặt xã hội, cách mạng Mỹ đã kẻ một vạch ngang đoạn tuyệt với trật tự cổ hủ từ ngàn xưa. Hơn thế nữa, nó đã tăng tốc cuộc chuyển hóa vĩ đại của loài người với mức độ đáng kinh ngạc, họ từ chối hệ thống quân chủ chuyên chế dựa trên nền tảng giai cấp đối kháng, họ phá vỡ trật tự xã hội dựa trên sự ban phát ưu đãi cho những tầng lớp cao, đặt nền móng cho công cuộc xây dựng một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của chính trị tự do dân chủ và kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Trong ý nghĩa đó, cách mạng Mỹ là một bộ phận trong quá trình chuyển hóa vĩ đại trên một vùng đất rộng lớn ở hai bên bờ Đại Tây Dương. Trước đây, loài người quen sống trong trật tự xã hội vốn ghi đậm dấu ấn đẳng cấp, trong đó, trật tự xã hội được xây dựng chủ yếu do những ưu đãi được thừa kế, và trong đó, địa vị tôn giáo hoặc nguồn gốc gia tộc quy định số phận của từng cá nhân. Người Bắc Mỹ đã quét sạch xã hội truyền thống đó kể từ giữa thế kỷ 18, nhưng họ vẫn chưa đạt đến một trình độ dân chủ tự do đáng mơ ước[18]. Cuộc cách mạng 1776 là bước chân bảy dặm trên đường tiến vào hiện đại. Họ đã kiến tạo điều kiện khung cho sự chuyển hóa đến trật tự xã hội mới, đến xu hướng dân chủ tự do và bình đẳng giữa mọi người.

Nói tóm lại, suốt hơn một nửa thế kỷ, học giả Pháp hô hào, đòi hỏi một sự đổi mới, để rồi giờ đây, giấc mơ của họ lại trở thành hiện thực ở bên kia bờ Đại Tây Dương. Những gì trước nay chỉ là chữ nghĩa trên giấy trắng mực đen, thì giờ đây ở nơi xa tắp ấy đã trở thành máu và thịt, ngôn từ đã biến thành hành động thực tế, và thời đại vàng son đáng mơ ước đã thực sự bắt đầu. Khi đọc tin tức từ Bắc Mỹ trên báo chí hàng ngày, người ta run lên vì ganh tị, người ta phấn chấn khi nghĩ đến thành công của người Bắc Mỹ, người ta hào hứng đến cháy bỏng vì đam mê, kích động, ước mơ, hy vọng[*]

Dù những cảm xúc sôi động đó không giúp gì cho người Pháp chống lại chế độ đương thời, cũng không giúp gì cho họ tìm thấy con đường đi đến thành công, nhưng nó đã tạo nên một tâm lý hưng phấn, thôi thúc họ biến giấc mơ của mình thành hiện thực. Và trên hết, Hiệp Chủng Quốc đã cung cấp cho người Pháp một bài học cách mạng mà họ đang thiếu, đó là một khuôn mẫu, một biểu tượng để hướng tới.

***

Chúng ta có thể kết luận rằng, nguyên nhân dẫn đến cách mạng Pháp năm 1789 là sự tổng hợp của nhiều yếu tố. Ấy là chế độ chính trị thối rữa, là nền kinh tế tài chính đang trên đà phá sản, là sự phân hóa, bất bình đẳng và đối kháng giai cấp trong xã hội. Thêm vào đó, trào lưu khai sáng đã mở đường cho những tư tưởng mới về tự do, quyền tự nhiên và thể chế chính trị hiện đại có cơ hội phát triển, tạo nên ý thức chính trị sống động trong mọi tầng lớp dân chúng, để khi có điều kiện thì nó nhanh chóng biến thành hành động cách mạng.

Cuộc cách mạng Pháp bùng nổ đúng vào lúc nền kinh tế tài chánh của Pháp đi vào ngõ cụt, lại thêm thiên tai hạn hán làm cho đời sống mọi người, nhất là nông dân thợ thuyền, hết sức bi đát. Tuy nhiên, dù đã làm tròn vai trò ngòi nổ cho cách mạng, thì yếu tố kinh tế tài chính, cũng chỉ là yếu tố nhất thời, là nguyên nhân trực tiếp làm cách mạng bùng phát. Nhưng nguyên nhân sâu xa chắc hẳn nằm chỗ khác. Đó là sự đối kháng giai cấp kéo dài nhiều thế kỷ, mà trong bối cảnh lịch sử đặc thù của thế kỷ 18, nó đã trở thành xung đột xã hội không thể cứu vãn được. Trong bối cảnh chính trị cuối thế kỷ 18, sự xung đột ấy được trang bị thêm những tư tưởng mới lạ với hệ thống lý thuyết chính trị hiện đại của trào lưu khai sáng. Cho nên, cách mạng là một tất yếu lịch sử của Pháp.

Tôn Thất Thông & Hoàng Lan Anh – Cập nhật tháng 4/2025

Xem Video bài này ở đây: https://www.youtube.com/watch?v=pGZQDKcvf3o

Video phần 1 ở đây: https://www.youtube.com/watch?v=O5Cuj_dfrLk

Còn tiếp phần 3: Di sản của cách mạng Pháp

Tài liệu tham khảo

1.     Barudio, Günter: Das Zeitalter des Absolutismus und der Aufklärung 1648-1779. ISBN 3-596-60025-1. (Thời đại quân chủ chuyên chế và khai sáng). Fischer Weltgeschichte Band 25.

2.     Brinton, Crane (1), Christopher, John B. và Wolff, Robert Lee: A history of civilization – 1715 to the present. ISBN 0-13-389593-9. (Lịch sử văn minh – 1715 đến hôm nay).

3.     Brinton, Crane (2): The Anatomy of Revolution (Mổ xẻ các cuộc cách mạng). Vintage Books 1965.

4.     Châtelet, François chủ biên và nhiều tác giả: Geschichte der Philosophie Band IV – Die Aufklärung (Lịch sử triết học tập IV – Khai sáng). ISBN 3-548-03063-7. (Eva Brückner-Pfaffenberger và Donald Watts Tuckwiller dịch từ gốc tiếng Pháp: Les Lumières).

5.     Durant, Will và Ariel (3): Das Zeitalter Voltaires (Thời đại Voltaire). Kulturgeschichte der Menschheit – Band 14. ISBN 3-548-36114-5. (Elinor Lipper dịch từ tiếng Anh: The Story of Civilization, Vol. IX).

6.     Durant, Will và Ariel (4): Am Vorabend der Französischer Revolution (Đêm trước của cách mạng Pháp). Kulturgeschichte der Menschheit – Band 16. ISBN 3-548-36116-1. (Leopold Völker dịch từ tiếng Anh: The Story of Civilization, Vol. X).

7.     Gaxotte, Pierre: Die Französische Revolution (Cuộc cách mạng Pháp). Bản dịch của Otto Watzke từ nguyên tác tiếng Pháp: L’histoire de la révolution Française. ISBN 3-8082-0035-9.

8.     Guizot, François: The History of Civilization in Europe (Lịch sử Văn minh châu Âu – William Hazlitt dịch từ tiếng Pháp: Histoire Générale de la Civilisation en Europe). Penguin Books 1997.

9.     Hartig, Paul: Die Französische Revolution im Urteil der Zeitgenossen und der Nachwelt (Cách mạng Pháp dưới phán xét của người đương thời và hậu thế). ISBN 3-12-425400-7

10.Hazard, Paul (2): European Thought in the Eighteenth Century (Tư tưởng Châu Âu thế kỷ 18). Pelican Book 1965 (J. Lewis May dịch từ tiếng Pháp: La Pensée européenne au XVIIIè siècle: de Montesquieu à Lessing).

11.Hinrichs, Ernst chủ biên và nhiều tác giả: Kleine Geschichte Frankreich (Tóm tắt lịch sử Pháp). ISBN 978-3-89331-663-2.

12.Hobsbawm, Eric J. (2): The Age of Revolution. ISBN 978-0-349-10484-3. (Thời đại cách mạng)

13.Hogen, Hildegard và Ban biên tập DIE ZEIT: Welt- und Kulturgeschichte Band 10 – Zeitalter der Revolution (Lịch sử văn hóa và thế giới, Bộ 10 – Thời đại Cách mạng). ISBN 3-411-17600-8.

14.Lösche, Peter: Länderbericht USA (Tường trình về quốc gia Hoa Kỳ). ISBN 978-3-89331-851-3 – Trung tâm Giáo dục Chính trị Liên bang.

15.Pleticha, Heinrich (1) chủ biên và nhiều tác giả: Aufklärung und Revolution – Europa in 17. und 18. Jahrhundert (Khai sáng và Cách mạng – Châu Âu trong thế kỷ 17 và 18). ISBN 3-577-15008-4 (Bertelsmanns Weltgeschichte – Band 8).

16.Schmitt, Eberhard chủ biên và nhiều tác giả: Die Französiche Revolution – Anlässe und lanfristige Ursachen (Cách mạng Pháp – Biến cố khởi đầu và những nguyên nhân sâu xa). ISBN 3-534-05014-2.

Ghi chú:

[*] Xem P. Gaxotte trang 68-69.

[1] Xem E. Schmitt trang 5.

[2] Xem H. Hogen trang 237.

[3] Xem Durant (4) trang 517.

[4] Xem Durant (4) trang 514.

[5] Xem Durant (4) trang 518.

[6] Xem P. Gaxotte trang 43.

[7] Xem E. Schmitt & Henry Sée, trang 11.

[8] Xem E. Schmitt & Henry Sée, trang 10, trích từ Antoine Barnave: Introduction à la Révolution Française, xuất bản năm 1791.

[9] Xem Durant (4), trang 516. Jean Jaurais (1859-1914) là một sử gia, nhà xã hội học, chính trị gia xu hướng xã hội, giáo sư triết tại đại học Toulouse.

[10] Xem E. Schmitt & G. Taylor trang 297.

[11] Xem P. Gaxotte trang 59.

[12] Xem P. Gaxotte trang 64.

[13] Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 (Declaration of Independence).

[14] Xem E. Schmitt trang 12.

[15] Xem Durant (4) trang 445.

[16] Xem P. Lösche trang 40.

[17] Declaration of Independence 1776 (Preamble)

[18] Xem P. Lösche trang 43.

Nguồn: THỜI ĐẠI KHAI SÁNG – CÁCH MẠNG PHÁP 1789 (2), Diễn Đàn Khai Phóng, 7/2025.

Print Friendly and PDF