Author(s): R. H. Coase Source: Journalof Law and Economics, Vol. 3 (Oct., 1960), pp. 1-44
Published by: The University of Chicago
Press
Khi Ronald Coase công bố đóng góp “The Problem of Social Cost” [Vấn
đề chi phí xã hội], ông đã được cộng đồng các nhà kinh tế thừa nhận là tác giả từng
làm sáng tỏ một vấn đề thiết yếu: vì sao người ta tạo ra những định chế kinh tế
và với qui mô nào? Sinh năm 1910, ông học đại học Dundee rồi London School of Economics, nơi ông được
phong làm giảng viên năm 1947 và dạy những vấn đề liên quan đến các dịch vụ
công. Các nghiên cứu của ông dẫn ông đến khoa học quản lí, vì tự nhận mình ít
có khiếu về các môn nhân văn và không thích toán học. Ông đặt câu hỏi sau: vì
sao người ta giám sát các công ti theo các thứ bậc mà không kiểm tra toàn bộ nền
kinh tế theo cùng cách ấy? Ông trả lời là khi xem xét các bên tham gia trong
các cuộc trao đổi càng ở xa nhau hay càng chuyên biệt thì những chi phí thông
tin và phối hợp mà cách tổ chức theo thứ bậc kéo theo sẽ trở nên quá đáng và
không nhất thiết có đối phần là sự gia tăng giá trị của sản phẩm thuần. Do đó
có những ranh giới cho doanh nghiệp và có thể quyền lợi của doanh nghiệp là để
cho thị trường cung cấp cho mình những sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp từ bỏ
việc tự sản xuất lấy. Đó là nội dung của đóng góp thiết yếu đầu tiên của ông
năm 1937, “The Nature of the Firm” [Bản chất của công ti]. Bằng cách nhận diện
các chi phí giao dịch này để đối lập với các chi phí sản xuất, hay chi phí về
thời gian và nỗ lực cần thiết cho việc chuẩn bị, thiết lập và theo dõi các hợp
đồng, ông đi đến kết luận rằng như vậy công ti xuất hiện khi việc huy động và tổ
chức trực tiếp các nhân tố sản xuất là ít tốn kém hơn việc tìm mua các nguồn lực
được sản xuất bên ngoài doanh nghiệp. Qui mô của doanh nghiệp tăng đến điểm mà
chi phí tổ chức nội bộ của việc sản xuất lớn hơn các chi phí giao dịch gắn với
việc thị trường cung cấp các sản phẩm ấy. Do đó công ti hiện ra như một chùm những
“hợp đồng nội bộ”. Bằng cách giải thích sự ra đời của định chế doanh nghiệp bằng
các chi phí giao dịch, Coase khai trương một truyền thống từ đây không ngừng
kích thích những nghiên cứu, giải thích và đề xuất (Williamson, 2000).
Năm 1960, Coase nối dài và vượt qua phân tích trên, sau khi rời nước
Anh năm 1951 để sang Hoa Kì lần lượt giảng dạy tại các đại học Buffalo và
Virginia.
Luật pháp ấn định các quyền, thương thảo xác định tính hiệu quả
Suy tưởng về chi phí xã hội, Coase tìm cách giải quyết vấn đề sau:
làm thể nào xử lí những biến đổi, theo hướng tiêu cực hay tích cực, của phúc lợi
mà một số tác nhân tạo ra cho những tác nhân khác tuy rằng các biến đổi này
không phải là đối tượng của một giao dịch thị trường, do chính là vì không có một
thị trường như thế? Khi có những ngoại ứng tiêu cực, ví dụ có những doanh nghiệp
gây ô nhiễm không khí hay sông ngòi, thì các tác nhân sẽ sản xuất nhiều hơn mức
họ sẽ sản xuất nếu họ không bị buộc phải gánh chịu những khoản bồi thường do họ
gây ra. Trong trường hợp có những ngoại ứng tích cực, ví dụ những hiệu ứng ngoại
lai tích cực do những người làm vườn tạo ra, bằng việc thông qua việc chăm sóc
vườn tược đã giúp sản xuất ra mật, thì các tác nhân sẽ hành động ít hơn mức đáng
mong muốn nếu họ được trả thù lao cho toàn bộ dịch vụ mang lại chứ không chỉ bằng
một phần của dịch vụ này. Sự tồn tại của một chi phí hay một phần lời xã hội
tràn ra ngoài giá dẫn đến những phân bổ không tối ưu. Truyền thống do Pigou
khai trương nhằm để cho Nhà nước can thiệp và ấn định những giải pháp có tính
quy chế: vượt ra ngoài việc định nghĩa các quyền sở hữu, Nhà nước quy định những
lệ phí hay trợ cấp dẫn đến việc xác định lượng hoạt động mong muốn (Pigou,
1920). Tất cả nỗ lực của Coase nhằm chỉ ra rằng giải pháp này là không tốt và
có thể dẫn đến những tình thế không kém phần không thỏa đáng như tình thế xuất
phát, do thiếu thông tin xác đáng. Nhằm mục đích này, ông thay đổi tức thì
phương pháp của Pigou: chắc chắn rằng một doanh nghiệp gây ô nhiễm là gây thiệt
hại, nhưng kìm hãm hay ngưng nó hoạt động cũng sẽ hủy hoại việc làm và phúc lợi.
Vấn đề mang tính hai chiều trong lúc lại xem xét nó theo một chiều, bởi thế phải
xuất phát từ đây.
Gạt sang một bên trường hợp nổi tiếng của Pigou – một chiếc xe lửa
đánh rơi bụi than cháy dở làm cháy một phần mùa màng của nông dân –, Coase nghiên
cứu trường hợp của những người chăn nuôi phải chăn đàn gia súc của mình dẫm lên
đất và gặm cỏ của những nông dân. Như vậy nhà chăn nuôi gây nên những ngoại ứng
tiêu cực khiến nhà nông bị thiệt hại. Coase hình dung những giải pháp mà việc
bàn luận và trao đổi giữa hai tác nhân này có thể dẫn đến. Trên biểu đồ dưới
đây lượng gia súc được đo trên trục hoành và số tiền lời và chi phí cận biên của
nhà chăn nuôi và nhà nông được đo trên trục tung. Tiền lời cận biên của nhà
chăn nuôi được biểu diễn bằng hàm AF, một hàm cho biết số tiền bồi thường trả
cho những người này nếu ta muốn họ từ bỏ dẫn đàn gia súc qua đồng ruộng. Chi
phí cận biên của nông dân dưới dạng thất thu được biểu diễn bằng hàm DO, do đó
hàm này cho biết thu hoạch họ hưởng được nếu ta giảm số lượng gia súc lưu thông.
Dễ dàng nhận thấy rằng phân bổ tối ưu (trong trường hợp này là số gia súc được
chăn qua đồng ruộng) nằm tại điểm E: ở bên trái điểm này, việc giảm chăn nuôi
tiêu hủy nhiều hơn là tạo ra giá trị; ở bên phải điểm này, việc tiếp tục chăn
nuôi cũng tiêu hủy giá trị hơn là tạo ra nó.
Nếu luật pháp công nhận quyền của người chăn nuôi thì người nông
dân giới hạn thiệt hại của mình bằng cách mua từ nhà chăn nuôi việc hạn chế hoạt
động hay số lượng gia súc mà người này di chuyển. Nhưng nhà chăn nuôi chỉ làm
điều này nếu khoản lợi thu được từ việc cắt giảm này (tiết kiệm về mặt chi phí
cận biên của nhà chăn nuôi) lớn hơn sự bồi thường mà nhà nông đòi hỏi (sụt giảm
của khoản lời cận biên của nhà nông), nói cách khác khi khoản lợi của nông nghiệp
cao hơn khoản lợi của chăn nuôi, điều này dẫn đến dịch chuyển từ điểm F sang điểm
E. Ngược lại, nếu luật pháp công nhận quyền của người nông dân thì người chăn
nuôi chỉ có thể phát triển hoạt động của mình nếu chịu bồi thường thiệt hại áp
đặt cho người nông dân. Cái giá phải trả cho việc bồi thường này (hay sự bù đắp
cho sụt giảm của khoản lời cận biên của người nông dân) do đó phải thấp hơn khoản
lời cận biên thu được; hay là khoản lợi của chăn nuôi phải lớn hơn khoản lợi của
nông nghiệp, và điều này dẫn đến dịch chuyển từ điểm G sang điểm E. Cho dù quyền
của ai được công nhận thì ta vẫn đến E, điểm phân bổ hiệu quả nhất. Ở đây việc
thương thảo những điều kiện thực thi các quyền sở hữu đảm bảo tình thế phúc lợi
tối đa (E) trong khi nếu thiếu thông tin xác đáng giải pháp bằng những quy định
thường dẫn đến những giải pháp không tốt bằng. Thật thế, giải pháp bằng những
quy định có thể buộc nhà chăn nuôi ngưng hoạt động trong khi hoạt động này tạo
ra nhiều phúc lợi hơn hoạt động của nhà nông: đó là, ví dụ, trường hợp R khi
ngăn cản phát triển một hoạt động mà khoản lời cận biên cao hơn chi phí cận
biên và nếu được tiếp tục thì hoạt động này cho phép tạo ra cho cộng đồng một
khoản lời thuần GC. Ngược lại, giải pháp hành chính này có thể khiến các nhà
chăn nuôi tiếp tục hoạt động trong khi khoản lợi cho xã hội thấp hơn chi phí của
nó: đó là, ví dụ, tình thế H khi người ta cho phép phát triển một hoạt động
trong lúc chi phí cận biên lớn hơn khoản lời cận biên của hoạt động ấy. Tại điểm
này, một sụt giảm của số lượng cho phép tạo ra cho cộng đồng một khoản lời thuần
G¢C¢. Coase đề xuất một kết luận thứ nhất: sự trao đổi các quyền sở hữu dẫn đến việc tối đa hóa phúc lợi trong lúc
việc quy định hóa thường không đưa đến kết quả này.
Nhưng sự dàn xếp tư nhân này chỉ dẫn đến tối ưu xã hội nếu những
chi phí thương thảo và triển khai thực hiện giải pháp được chọn, tức là các chi
phí giao dịch, là bằng không. Giả sử, với giả thiết rằng quyền của người chăn
nuôi được công nhận, các chi phí giao dịch mà người nông dân phải gánh chịu để
có được sự dàn xếp mà người chăn nuôi đòi hỏi là không bằng không. Hệ quả là
hàm DO dịch chuyển thành D¢O. Từ nay khoản lời người nông dân thu được do việc người chăn
nuôi giảm hoạt động bị trừ đi chi phí này, và điều này khiến họ gánh thêm nhiều
lần gia súc di chuyển ngang đồng ruộng (OH thay vì OE, tương ứng với một phân bổ
không tối ưu).
Như thế Coase đề xuất một kết luận thứ hai: sự trao đổi các quyền sở hữu chỉ là tối ưu khi các chi phí giao dịch bằng
không. Kết luận này chỉ đặc trưng hóa kết luận đầu, cho dù đây thường là kết
luận được giữ lại.
Kết hợp hai kết luận trên, được Stigler vài năm sau gọi bằng “định
lí Coase”, xác định kiến trúc đáng mong muốn giữa luật pháp và trao đổi
(Stigler, 1966, 1972). Luật pháp chỉ định người có quyền, hay người mà các bên
khác phải thương thảo, điều này không phải là không có hệ quả cho việc phân phối
lại các nguồn lực, còn sự thương thảo ấn định số lượng sản xuất, điều này đảm bảo
sự phân bổ tối ưu các nguồn lực. Trình bày cô đọng nhất toàn bộ các mệnh đề này
vẫn là trình bày của Coase: “bao giờ cũng có thể thay đổi bằng những trao đổi sự
phân bổ ban đầu các quyền sở hữu […] nếu các chi phí giao dịch của những trao đổi
như thế bằng không thì việc tái phân phối các quyền sẽ làm tăng giá trị của sản
xuất” (Coase, 1960).
Vả lại Coase là người đầu tiên chỉ ra cách sử dụng “định lí” của
ông. Trong bài viết “The Federal Communication Revolution” [Cuộc cách mạng truyền
thanh liên bang] (Coase, 1959), ông tra vấn sự hỗn loạn do các đài phát thanh
gây nên trên những tần số tự chọn. Ông tố cáo ý cho rằng sự hỗn loạn này là kết
quả của thị trường cho nên cần phải có những quy định. Đối với ông, sự hỗn loạn
này là kết quả của sự thiếu vắng những quyền sở hữu được phân bổ rõ ràng. Một
“hệ thống đấu giá và giải quyết các tranh chấp” có thể làm chấm dứt tình hình
này bằng cách đảm bảo là những ai có được những tần số đem đến thu hoạch xã hội
cao nhất (Coase, 1959). Hiệu ứng của một hệ thống như thế là loại bỏ những đặc
quyền được một số tác nhân tư nhân tùy tiện nắm giữ và trao chúng lại cho người
tiêu dùng. Trong một bài viết khác, ông chỉ ra bằng cách nào hệ thống hải đăng
Anh trong một thời gian dài đã biết tổ chức có hiệu quả nhờ những thỏa thuận giữa
các tác nhân tư nhân (Coase, 1974).
Một hệ ý (paradigma) hơn là một công thức
Chắc chắn rằng ứng dụng gây ấn tượng nhất của định lí Coase ngày
nay nằm ở việc thiết lập một kinh tế học về môi trường. Đứng trước sự ô nhiễm,
nên chăng chọn những quy định công cộng với nguy cơ trước hết công nhận một
cách quá đáng quyền của người gây ô nhiễm hay quyền của người bị ô nhiễm, hay
nên chăng bán đấu giá các quyền gây ô nhiễm mà tổng số lượng là sao cho chúng
không gây tổn hại cho sự phát triển bền vững? Có thể đạt được nhiều hiệu ứng tích cực về mặt
tính hiệu quả: cuộc chiến chống ô nhiễm được tiến hành mà không gây thiệt thòi
cho tăng trưởng kinh tế và bảo đảm được tính bền vững; các doanh nghiệp được những
quyền gây ô nhiễm là những doanh nghiệp có kết quả tốt nhất vì chính họ mới có
thể rao giá cao nhất; còn một số doanh nghiệp không có được những quyền này được
khuyến khích chọn những công nghệ ít ô nhiễm hơn.
Ví dụ này về các quyền gây ô nhiễm tất nhiên đi xa hơn ví dụ của bụi
than cháy dở, những con ong, những ngọn đèn biển hay đàn gia súc mà người ta
thường ít nhiều đồng nhất định lí Coase với các hình ảnh thơ mộng điền viên
này. Lợi thế của ví dụ trên là đặt ra rõ ràng những vấn đề hiệu quả, có tính đến
những nguyên tắc cố hữu có qua có lại cho sự vận hành của một nền kinh tế thị
trường. Nhưng nó không thể che khuất một số tranh luận do bản văn cơ bản của
Coase gợi lên và được củng cố bởi tính đa dạng và tính xác đáng của những trường
ứng dụng khác nhau có thể của định lí.
Cuộc tranh luận thứ nhất liên quan đến tính chặt chẽ của sự chứng
minh tùy theo số tác nhân. Để hoàn thành sự dàn xếp đáng mong muốn giữa các tác
nhân tư nhân thì số các tác nhân này phải tương đối hạn chế. Vả lại luận chứng
này là rõ ràng ngay trong chính phiên bản của Coase do các chi phí giao dịch phải
bằng không (hay không đáng kể). Nhưng khi số tác nhân càng hạn chế thì ta có thể
ngại rằng động cơ của họ sẽ đưa đến những hành vi chiến lược ngăn cản hoàn
thành sự phân bổ tối ưu các quyền sở hữu. Điều này càng có khả năng xảy ra khi
thị trường các quyền này thuộc về lớp trò chơi tổng không hơn là một trò chơi tổng
dương. Trong trường hợp này, trao đổi chỉ phân phối lại các quyền từ một vị thế
được luật pháp ưu đãi mà không làm nổi lên những thu hoạch để chia cho nhau, gieo
sự hoài nghi đối với khả năng trao đổi thành công.
Cuộc tranh luận thứ hai nhằm vào sự tồn tại của tô. Nếu một số nhà
chăn nuôi ngay từ đầu hưởng những tô chênh lệch hay ricardian, thì ta không hiểu
vì sao nhà nông lại phải bồi thường cho nhà chăn nuôi cho sự mất mát có thể của
các tô này, một điều cần thiết cho việc hoàn thành sự dàn xếp. Một cách tổng
quát hơn, mọi hiện tượng tô khiến cho sự hoàn thành các cuộc dàn xếp khó khăn
hơn một khi chính những người nắm giữ các quyền được công nhận ban đầu lại thụ
hưởng các tô này.
Cuộc tranh luận thứ ba, ngày càng trở nên quan trọng, nhằm vào
tính không đối xứng giữa các đối tác. Trong các thương thảo kiểu song phương, việc
sẵn sàng chi trả của một tác nhân phải tương ứng với việc sẵn sàng nhượng bộ của
tác nhân kia. Thế mà những hiệu ứng thu nhập cũng như những hiệu ứng của cải có
thể ngăn cản điều này. Trước một hiệu ứng thu nhập, xu hướng nhượng bộ có thể mạnh
hơn xu hướng chi trả: người gây ô nhiễm mà quyền đã được công nhận sẽ rất cương
quyết để chấp nhận giảm hoạt động của mình, ví dụ do người này ngại rủi ro hay
do thiếu những khả năng thay thế. Hơn nữa, việc công nhận quyền có thể tạo ra một
hiệu ứng của cải làm lệch việc triển khai và tầm quan trọng của sự dàn xếp được
mong ước. Khi thừa nhận quyền được yên tĩnh, người ta tạo nên một của cải khuyến
khích một số tác nhân đòi hỏi sự yên tĩnh nhiều hơn nữa, nếu đó là một sản phẩm
bình thường hay cao cấp. Coase không xét đến hiệu ứng của cải này vì nó đã được
tính đến trong giá trị của những sản phẩm được sở hữu, ví dụ một căn nhà.
Nhưng, trong một cuộc tranh luận với Baumol (Baumol, 1972), ông buộc phải làm
cho giải đáp của mình thêm phong phú. Trước áp lực của những người đòi hỏi hạn
chế nhiều hơn nữa quyền gây ô nhiễm, một điều có thể dẫn đến việc cấm những hoạt
động vốn đáng mong muốn, cần phải đánh thuế người gây ô nhiễm vì những thiệt hại
người này tạo ra, vừa đánh thuế người bị ô nhiễm vì những thiệt hại gây ra cho
người gây ô nhiễm.
Cuối cùng, sự có mặt quá đông của các công ti trên thị trường có
thể mở ra một cuộc tranh luận khác. Việc thừa nhận quyền của người gây ô nhiễm
có thể dẫn đến sự gia tăng của số doanh nghiệp gây ô nhiễm, và việc thừa nhận
quyền của người bị ô nhiễm có thể dẫn đến sự gia tăng của số doanh nghiệp bị ô
nhiễm. Do đó vấn đề đặt ra là nên chăng dành các quyền này chỉ cho các doanh
nghiệp có mặt trên thị trường vào lúc luật được thông qua mà không mở rộng cho
các doanh nghiệp khác muốn nhảy vào để tận dụng luật này.
Những phê phán vội vàng định luật Coase trình bày nó như một giải
pháp bất công và chất lượng thấp cho vấn đề các ngoại ứng. Thế mà tất cả nỗ lực
của Coase nhằm chỉ ra rằng có một sự độc lập nhất định giữa các vấn đề công bằng
và các vấn đề hiệu quả, và không phủ nhận tầm quan trọng của các vấn đề đầu đối
với các vấn đề sau.
Định lí Coase nằm ở giao diện của những quan hệ thị trường-Nhà nước
và những hiện tượng hiệu ứng ngoại lai không ngừng làm nổi bật những chênh lệch
giữa tối ưu tư nhân và tối ưu xã hội. Thông báo của Viện hàn lâm khoa học Thụy
Điển trao giải khoa học kinh tế để tưởng nhớ Alfred Nobel thừa nhận là ông đã kết
hợp các quyền sở hữu như những hạt cơ bản của khoa học kinh tế với các chi phí
giao dịch như là nguyên lí giải thích các thể chế kinh tế. Như vậy phân tích của
ông có thể cho phép người làm luật cũng như thẩm phán đặt tốt hơn vấn đề đánh đổi
các quyền, lợi thế và chi phí của chúng trước những tình huống đặc biệt
(Posner, 1986): có thể đọc lại định lí Coase dưới lăng kính của luật pháp sau
khi đã đọc nó dưới lăng kính của thị trường, vì định lí cho phép thẩm phán tìm
ra những tiêu chuẩn hợp thức hóa (hay không) những tình thế thực tế hay để chỉnh
sửa chúng một cách ít mù quáng hơn cách của Pigou.
Như thế Coase trở thành một điểm tham chiếu không thể né tránh
trong nhiều trường của phân tích kinh tế: kinh tế học công cộng trong chừng mực
mà ông chỉ ra rằng những thất bại của Nhà nước có thể tương ứng với những thất
bại của thị trường; kinh tế học về luật vì ông làm rõ những được mất của sự
phân bổ cũng như những được mất tái phân phối của sự phân phối và của việc
thương thảo các quyền; kinh tế học về môi trường vì ông làm rõ những khả năng
và giới hạn của những cách khác nhau làm giảm sự ô nhiễm. Việc có một trong những
bài viết được nhắc đến nhất không phải là điều ngẫu nhiên mà đúng hơn là nhờ sự
đột phá mà Coase đã mở ra trong tư tưởng kinh tế học chuẩn.
Xavier
Greffe
Đại học Panthéon-Sorbonne (Paris I)
Thư mục
Coase
R. H. (1937), “The Nature of the Firm”, Economica,
NS, 4.
Coase
R. H. (1959), “The Federal Communication Commission”, Journal of Law and Economics, 2, p. 1-40.
Coase
R. H. (1974), “The Lighthouse in Economics”, Journal of Law and Economics, 2, p. 357-376.
Baumol
(1972), “On Taxation and the Control of of Externalities”, American Economic Review, 62, p. 7-22.
Cheung
S. (1973), “The Fable of the Bees: An Economic of Investigation”, Journal of Law and Economics, 16,
p.11-33.
Cooter
R. (1982), “The Cost of Coase”, Journal of Legal Studies, 11, p. 1-34.
Greffe
X. (1999), Économie des politiques
économiques, 2è éd., Dalloz.
Pigou
A. C. (1920), The Economics of Welfare,
London, Macmillan, 4th ed., 1932.
Posner
R. (1986), Economic of the Law, 3rd
ed., Boston, Little Brown & Co.
Stigler
G. (1966), The Theory of Price, New
York, Macmillan.
Stigler
G. (1972), “The Law and Economics of Public Policy: A Plea to the Scholars”, Journal of Legal Studies, 1, p.1-12.
WilliamsonO. E. (2000), “The New Institutional Economics: Taking Stock, Looking Ahead”, Journal of Economic Litterature, 38,p.595-613.
Buchanan và Tullock, The Calculus of Content, Posner, Economic Analysis of Law, Stigler, The Citizen and the State, Williamson, Markets and Hierarchies
Nguyễn Đôn Phước dịch